Chương 8. Ở trong nó; không là của nó

Dhammapada: Con đường của Phật
The Dhammapada: The way of the buddha
Osho
Tập 07

 
Chương 8. Ở trong nó; không là của nó

Câu hỏi 1

Thưa Thầy kính yêu,

Tại buổi darshan vào ngày sinh của thầy tôi đã nhìn vào thầy, một cái bể tĩnh lặng của chân thành, và mọi thứ khác xảy ra xung quanh thầy là không liên quan. Đột nhiên điều đó được thấy rõ ràng tới mức điều này - việc ngồi im lặng giữa những hỗn độn và phát sốt này - chính là là giáo huấn của thầy; rằng thầy là con đường.

Prem Pramod, vậy cuối cùng một tia sáng đã đi vào trong bóng tối của bạn - việc nhìn thấu, một thoáng nhìn. Bây giờ đừng làm mất dấu vết của nó! Rất khó có được nó và rất dễ đánh mất nó. Thực ra, tâm trí và cách thức của nó cổ tới mức chẳng mấy chốc bạn bắt đầu nghi ngờ liệu thoáng nhìn đó có đúng không hay bạn chỉ tưởng tượng ra nó.

Và tâm trí cố gắng thuyết phục bạn rằng điều đó hoàn toàn là tưởng tượng, rằng bạn đã phóng chiếu nó, rằng nó chỉ là ý niệm. Có thể bạn trở nên bị thôi miên bởi tình huống. Có thể bạn trở nên bị tràn ngập bởi nhiều người thế trong vui vẻ thế, cực lạc thế. Có thể bạn đã bị chạm tới bởi trận lụt năng lượng quanh bạn chạm tới. Chẳng mấy chốc tâm trí sẽ bắt đầu tạo ra hoài nghi. Cứ nhớ lại đi. Những cái nhìn thấu này là hiếm hoi.

Vâng, Pramod, điều đó đích xác là giáo huấn của tôi đấy: Ở trong thế giới, trong tất cả những cái ngớ ngẩn của nó, trong tất cả những cái vô nghĩa của nó, cái ồn ào, và vậy mà vẫn còn bình thản, tách rời, không gắn bó. Ở trong nó, nhưng không là của nó. Để nó tất cả xảy ra quanh bạn - không cần trốn khỏi nó, không có chỗ nào mà trốn đi cả. Và cho dù bạn có trốn đi đâu đó, điều đó cũng sẽ không biến đổi bản thể của bạn; tâm trí bạn sẽ vẫn còn như cũ. Cách tốt nhất là dùng cơ hội của thế giới này.

Thế giới này là cơ hội, cơ hội lớn, món quà cực kì có giá trị của Thượng đế. Nó là phương cách dạy đấy. Ở trong nó và vậy mà vẫn ở xa xăm, siêu việt tới mức không cái gì của nó đạt tới cốt lõi của bản thể bạn. Chỉ chu vi của bạn mới bị nó chạm tới, nhưng trung tâm của bạn vẫn còn tách rời.

Là trung tâm cơn xoáy lốc đi: đó đích xác là giáo huấn của tôi. Thế giới này là chuyện cổ được kẻ ngốc kể lại, đầy những thịnh nộ và ồn ào, chẳng có ý nghĩa gì. Nhưng rất dễ bị mắc vào trong lưới, bởi vì kẻ ngu không chỉ ở bên ngoài, kẻ ngu cũng ở bên trong. Tâm trí bạn là một phần của chuyện cổ được kẻ ngốc kể và tâm trí bạn thích tìm ra nghĩa gì đó trong nó - trong khi chẳng cái gì tồn tại. Tâm trí không thể vẫn còn lại mà không tìm ra nghĩa nào đó; nếu nó không thể tìm ra được, nó bịa ra điều đó. Bằng không nó cảm thấy trống rỗng, nó cảm thấy cái gì đó thiếu.

Không có nghĩa trong thế giới này; mọi nghĩa là ở trong chính trung tâm của bản thể bạn. Thế giới đơn giản là ồn ào, không có âm nhạc. Âm nhạc là ở chỗ thầm kín sâu thẳm nhất của bản thể bạn - và âm nhạc đó phải được nghe thấy trong mọi tiếng ồn của thế giới này. Thế thì tiếng ồn của thế giới vận hành như tấm màn căng đằng sau, như nền tảng; nó trở thành hoàn cảnh. Bạn có thể nghe thấy âm nhạc bên trong rõ ràng hơn bởi vì tiếng ồn này. Thế thì tiếng ồn này không còn là quấy nhiễu, thay vì thế là sự giúp đỡ.

Đó là lí do tại sao tôi không dạy từ bỏ: tôi dạy hân hoan.

Câu hỏi 2

Thưa Thầy kính yêu,

Tôi đã nghe nói rằng Swami Prem Chinmaya ốm, yếu tới mức anh ấy phải được truyền máu. Sẽ là không phải nếu các sannyasin của chúng ta cho máu trong trường hợp như thế sao?

Avinash, đừng lo! Máu của người không phải là sannyasin sẽ không quấy nhiễu Prem Chinmaya đâu. Máu là máu; nó không là sannyasin cũng không là không-sannyasin - và nó không đậm hơn nước.

Vâng, có những chuyện tạo ra lo âu...

Bởi kiểu máu hiếm của mình, Gaffney được chọn là người cho máu cho một nhà vua người Anh, đang bị bệnh nặng lắm.

Việc truyền máu thứ nhất giúp được nhiều lắm. Việc truyền máu thứ hai đã đem quốc vương ốm trở lại có ý thức.

Việc truyền máu thứ ba đang tiến hành thì nhà vua nhảy lên trong giường và hô to, 'Kệ cha vua nước Anh!'

Nhưng đây chỉ là chuyện thôi - máu không thể làm được điều đó!

Và Prem Chinmaya đang đi xa: anh ấy đang đi rất vững chãi vào tâm thức của mình. Thân thể yếu đi, nhưng tâm hồn không yếu. Xương thịt yếu, nhưng tâm hồn rất mạnh. Thực ra, bệnh của anh ấy đã là ân huệ lớn cho anh ấy. Anh ấy đã học được từ bệnh tật của mình nhiều hơn từ bất kì cái gì khác. Anh ấy đã trở nên ngày một im lặng hơn, chấp nhận, không sợ hãi. Cho dù cái chết tới bây giờ anh ấy vẫn có khả năng đón nhận nó, đón chào nó như vị khách.

Tôi cực kì hạnh phúc với anh ấy! Khi bẩy, tám năm trước anh ấy tới tôi, anh ấy đã chịu đựng cùng chứng bệnh đó, nhưng nỗi sợ của anh ấy còn lớn hơn bệnh này.

Thân thể phải ra đi một ngày nào đó; không ai có thể sống ở đây mãi mãi được. Cớ nào người ta chọn để ra đi là chuyện riêng tư. Người ta có thể chọn ung thư, người ta có thể chọn lao, người ta có thể chọn đau tim; và có nghìn lẻ một phương án sẵn có. Nhưng đấy tất cả chỉ là cái cớ. Điều căn bản là ở chỗ người ta không thể sống ở đây lâu được; nó không phải là nhà của chúng ta.

Chúng ta phải đi tìm nhà, và chỉ những người có thể đi một cách im lặng, vui vẻ, mới có thể tìm thấy nó; bằng không, bạn sẽ lập tức thấy bản thân mình trong bụng mẹ khác, quay trở lại vào trong thế giới. Chừng nào bạn chưa học được bài học này, bạn sẽ bị ném đi ném lại vào trong thế giới.

Tám năm trước khi anh ấy đã tới tôi, điều còn rối loạn hơn không phải là bệnh tật mà là nỗi sợ chết của anh ấy. Cả tám năm này anh ấy đã sống cùng cái chết... nó có thể xảy ra vào bất kì khoảnh khắc nào. Nhưng dần dần, dần dần khi thiền của anh ấy đã sâu hơn, khi tình yêu của anh ấy đã sâu hơn, khi anh ấy đã hiểu ngày một rõ rằng chết là một phần của sống - bạn không thể phủ nhận nó được, và trong việc phủ nhận nó bạn sẽ phủ nhận bản thân cuộc sống - anh ấy đã trở nên chấp nhận nhiều hơn. Tính như thế lớn lao đã giáng xuống anh ấy, và điều đó là có ý nghĩa - nhiều ý nghĩa hơn sống, nhiều ý nghĩa hơn chết.

Anh ấy sẽ chết một ngày nào đó, nhưng bây giờ tôi không bị lo nghĩ về cái chết của anh ấy. Bây giờ anh ấy biết cách chết, anh ấy đã học được mẹo của nó. Chết sẽ không chỉ là kết thúc mà là sự bắt đầu lớn lao cho anh ấy. Anh ấy sẽ không bị cái chết nhận chìm; anh ấy sẽ cưỡi lên nó, anh ấy sẽ đi một cách thắng lợi. Do đó không cần lo nghĩ về anh ấy. Và bất kì máu nào cũng có tác dụng. Máu là máu; nó chỉ đi trong thân thể, nó không ảnh hưởng tới linh hồn bạn.

Nhưng những ý niệm này đã tồn tại hàng thế kỉ rồi: thức ăn ảnh hưởng tới linh hồn bạn, quần áo ảnh hưởng tới linh hồn bạn... Đây toàn là những ý niệm vô nghĩa! Chúng ảnh hưởng tới bạn chỉ nếu bạn bị đồng nhất - nhưng thế thì bất kì cái gì cũng sẽ ảnh hưởng tới bạn. Nếu bạn không bị đồng nhất, chẳng cái gì ảnh hưởng tới bạn cả; bạn vẫn còn không bị chạm tới. Và đó là kinh nghiệm lớn lao: cảm thấy không bị động chạm trong mọi rối loạn.

Và tôi cực kì hạnh phúc với Prem Chinmaya: anh ấy đã chứng minh bản thân mình. Và có thể là bởi vì hiểu biết của anh ấy, cuộc sống của anh ấy đã được kéo dài ra. Ngay cả các bác sĩ cũng có chút ít phân vân làm sao anh ấy tiếp tục được, bởi vì theo mọi qui tắc thông thường anh ấy phải không ở đây thêm nữa được.

Amritam, bác sĩ của chúng ta, cũng đã hỏi một câu hỏi: Làm sao Chinmaya kéo dài được bản thân mình thế?

Lí do là, anh ấy không còn quan tâm tới việc kéo, đó là lí do tại sao anh ấy kéo dài bản thân mình. Nếu cái chết tới khoảnh khắc này, anh ấy sẽ chấp nhận nó. Bởi vì điều này, cái chết đã trở thành không liên quan. Anh ấy đã trở nên tuyệt đối tự do khỏi lo âu. Chính lo âu mới giết chết nhiều hơn; chính lo âu sâu sắc bên dưới mới trở nên có tính phá huỷ. Bởi vì anh ấy không còn phiền não, anh ấy có thể sống thêm vài năm nữa, anh ấy có thể sống lâu.

Nhưng dù anh ấy sống hay không thì cũng không còn quan trọng gì. Điều quan trọng đã xảy ra rồi. Nếu anh ấy sống anh ấy sẽ sống với trái tim bình thản; nếu anh ấy chết anh ấy sẽ chết với trái tim bình thản. Anh ấy đã học được bài học này.

Hân hoan với anh ấy đi! Học từ anh ấy - bởi vì mọi người đều phải đương đầu với cái chết của mình sớm hay muộn. Và người ta chẳng bao giờ có thể chắc chắn được: bạn có thể hoàn toàn mạnh khoẻ, và ngày mai cái chết có thể đem bạn đi. Cho nên mạnh khoẻ không đảm bảo.

Thực ra, điều thường xảy ra hơn là một người hoàn toàn mạnh khoẻ chết nhanh hơn người ốm. Bởi vì người mạnh khoẻ không có cách nào đối phó với bệnh tật, bất kì bệnh nào cũng có thể chứng tỏ là định mệnh. Nhưng một người đã sống lâu với bệnh tật trở nên được điều chỉnh với nó, người đó có thể đối phó với nó; người đó biết cách chết. Người mạnh khoẻ không biết gì cả, cho nên điều thường xảy ra là người mạnh khoẻ sẽ chết ngay cú đầu tiên còn người không mạnh khoẻ có thể sống lâu. Thân thể người đó đã trở nên được luyện tập, đã trở nên chịu đựng được với bệnh tật nhiều hơn.

Nhưng nhớ đó không phải là vấn đề chút nào. Dù Chinmaya sống vài năm hay không cũng không có nghĩa gì hơn. Nếu anh ấy sống, tốt; nếu anh ấy đi, anh ấy có thể đi cùng vui vẻ trong tim, bởi vì cuộc sống của anh ấy đã không phải là vô nghĩa, cuộc sống của anh ấy đã không phải là vô tích sự.

Những đoá hoa đầu tiên đã bắt đầu nở.

Câu hỏi 3

Thưa Thầy kính yêu,

Thầy có thể thuyết phục tôi về sự tồn tại của Thượng đế không?

Sargam, sao bạn lo nghĩ về Thượng đế thế? Ngài đã làm cái gì sai với bạn? Sao bạn không thể tha cho ngài và quên ngài đi? Sao vẫn còn quan tâm thế tới Thượng đế? Quan tâm nhiều hơn tới cuộc sống đi, tới sự tồn tại, và bạn sẽ biết Thượng đế! Vào đúng khoảnh khắc, bản thân cuộc sống trở thành chói sáng, bản thân sự tồn tại trở thành thiêng liêng. Nó tất cả tuỳ thuộc vào sự sáng tỏ bên trong của bạn. Nếu bạn có thể thấy một cách rõ ràng, chỉ Thượng đế hiện hữu thôi. Chẳng cần chứng minh gì cả. Nếu bạn không thể thấy một cách rõ ràng, thế thì không chứng minh nào sẽ có ích gì.

Đã từng có các triết gia tranh biện ủng hộ và chống đối Thượng đế trong hàng thế kỉ, ít nhất cũng năm nghìn năm, mà chẳng có kết luận nào thấy được. Họ đã không thể nào đi tới bất kì kết luận gì. Năm nghìn năm suy đoán, suy nghĩ, biện luận, logic thường xuyên, và kết quả là gì? Hậu quả là gì? Nó tất cả đều là bài tập trong vô tích sự! Và bạn vẫn cứ đòi hỏi về bằng chứng.

Bằng chứng đã được cung cấp, nhưng chúng không thể được biện minh chống lại, chúng có thể bị bác bỏ. Lỗi có thể được tìm thấy trong chúng bởi lí do đơn giản là Thượng đế không phải là một vật mà có thể được chứng minh bằng logic. Thượng đế là tính chủ quan của bạn, cái nằm ngoài logic, ngoài tư duy, ngoài tâm trí.

Thượng đế không phải là vật mà là kinh nghiệm. Và làm sao bạn có thể chứng minh được kinh nghiệm? Bạn có thể chứng minh kinh nghiệm về yêu không? Không ai có khả năng chứng minh rằng yêu tồn tại, không ai có thể chứng minh rằng cái đẹp tồn tại. Không ai có thể chứng minh cái gì thực sự có giá trị. Nó có thể là chân lí, nó có thể là tình yêu, nó có thể là phúc lạc, nó có thể là cái đẹp; chúng tất cả đều ở bên ngoài các bằng chứng hay phản chứng. Không ai có thể bác bỏ được cái nào.

Và Thượng đế là cao trào của tất cả những giá trị vĩ đại, cốt lõi tinh tuý của cái đẹp, tình yêu, chân lí, phúc lạc. Thượng đế là cốt lõi tinh tuý của tất cả những giá trị này; những giá trị này không thể được chứng minh. Làm sao bạn có thể chứng minh được điều tinh tuý của chúng? Ngài chỉ là hương thơm - thậm chí không là hoa mà chỉ là hương thơm.

Nhưng tại sao ham muốn này nảy sinh? Ham muốn nảy sinh bởi vì tâm trí bạn nói, 'Chừng nào Thượng đế chưa được chứng minh thì không cần phí thời gian cho Thượng đế hay cho thiền hay cho lời cầu nguyện.' Đó là chiến lược của tâm trí giữ bạn xa khỏi thiền, khỏi lời cầu nguyện.

Không có nhu cầu về Thượng đế! Nếu bạn muốn thiền bạn có thể thiền mà không có Thượng đế. Phật đã thiền không có Thượng đế; ông ấy không có niềm tin vào Thượng đế. Mahavira đã thiền và trở nên chứng ngộ mà không có ý niệm nào về Thượng đế. Thượng đế không phải là điều cần thiết, Thượng đế có thể bị vứt bỏ! Nhưng khi Phật đạt tới thiền ông ấy trở thành thượng đế. Mahavira trở thành bản thân thượng đế.

Đó là cách nó xảy ra: bạn thiền và bạn sẽ trở thành thượng đế, bạn sẽ khám phá ra tính thượng đế trong bản thể riêng của mình. Và đó là sự bắt đầu của việc khám phá. Thế thì bạn bắt đầu khám phá ra nó trong người khác. Thế thì dần dần, dần dần toàn thể sự tồn tại đầy Thượng đế, ngập lụt bởi Thượng đế.

Nhưng hỏi bằng chứng ban đầu và bạn sẽ bỏ lỡ toàn thể cuộc hành trình. Thế thì tâm trí nói, 'Trước hết chứng minh đã, thế rồi thiền.' Tâm trí đã giở thủ đoạn với bạn, tâm trí đã lừa bạn. Và nó có vẻ logic: trước khi bạn bắt đầu bất kì việc tìm hỏi nào, để điều đó được chứng minh. Nếu Thượng đế có, thế thì thiền là có ý nghĩa; bằng không sao bạn thiền? Nếu có Thượng đế, thế thì lời cầu nguyện là có ý nghĩa; nếu không có Thượng đế, thế thì lời cầu nguyện là vô tích sự.

Tôi nói với bạn: dù có Thượng đế hay không, lời cầu nguyện vẫn có ý nghĩa. Lời cầu nguyện không thay đổi Thượng đế - lời cầu nguyện thay đổi bạn! Lời cầu nguyện chẳng liên quan gì tới Thượng đế; nó có mọi điều liên quan tới bạn. Người cầu nguyện trở thành một loại người khác toàn bộ. Thiền chẳng liên quan gì tới Thượng đế cả, nhưng thiền biến đổi bạn.

Đây là những cách thức giả kim thuật của biến đổi nội tâm của bạn. Và khi nội tâm của bạn được thay đổi, đầy ánh sáng và sáng tỏ, bạn sẽ có khả năng thấy.

Thượng đế có thể được thấy nhưng không thể được chứng minh. Chỉ những điều nhỏ bé mới có thể được chứng minh, chỉ những điều vô giá trị mới có thể được chứng minh. Thoát khỏi ham muốn chứng minh này đi. Nó là ham muốn ngu xuẩn.

Mary và Bob nằm ở giường bên trên trong chuyến tàu hoả tới thác Niagara, và cô ấy cứ luôn mồm nhắc lại, 'Bobby ơi, em không thể tin được rằng chúng ta thực sự đã lấy nhau!'

Từ giường thấp hơn phía dưới một giọng nói buồn ngủ cất lên, 'Lạy chúa, Bobby ơi, thuyết phục cô ấy đi - chúng ta muốn ngủ!'

Vâng, về những điều như thế bạn có thể được thuyết phục, nhưng chẳng cái gì cao hơn, chẳng cái gì sâu hơn, chẳng cái gì thực sự có giá trị.

Bạn hỏi tôi, Sargam, 'Thầy có thể thuyết phục tôi về sự tồn tại của Thượng đế không?'

Và bạn nghĩ tôi đang làm điều gì khác ở đây? Tôi không biện luận về Thượng đế, tôi không trực tiếp cố gắng chứng minh sự tồn tại của Thượng đế; nhưng theo cách gián tiếp tôi đang tạo ra tình huống đúng, chỗ đúng, hoàn cảnh đúng, nơi Thượng đế có thể trở thành sẵn có cho bạn. Đó là điều đang diễn ra ở đây. Tôi không nói nhiều về Thượng đế bởi vì không có nhu cầu. Tôi nói về yêu, về thiền, về nhận biết, về lưu tâm, và tôi nói về cả nghìn lẻ một thứ. Chúng tất cả đều có ý nghĩa theo nghĩa là chúng sẽ tạo ra bầu không khí đúng, bầu khí hậu đúng cho Thượng đế xảy ra.

Tôi đang cố gắng tạo ra Phật trường: một không gian nào đó mà bạn có thể trưởng thành trong thượng đế. Nỗ lực của tôi là không cho bạn tin tưởng vào Thượng đế; nỗ lực của tôi là cho bạn kinh nghiệm về Thượng đế. Và tin tưởng là không có giá trị bởi vì đằng sau tin tưởng bao giờ cũng có hoài nghi. Chỉ kinh nghiệm giúp đỡ thực, bởi vì trong kinh nghiệm không hoài nghi nào còn lại.

Khi bạn biết, chỉ thế thì bạn biết. Tôi có thể làm bạn im lặng qua logic, tôi có thể làm bạn được thuyết phục qua biện minh logic, nhưng thuyết phục đó sẽ chỉ là về mặt trí tuệ thôi - ai đó khác có thể phá huỷ nó. Nếu ai đó khác có thể biện luận theo cách hay hơn chống lại Thượng đế, bạn sẽ đâm ra lúng túng; toàn thể hệ thống tin tưởng của bạn sẽ sụp đổ.

Nhưng không ai có thể tranh cãi chống lại kinh nghiệm của bạn được. Nếu bạn đã biết, thế thì toàn thể thế giới có thể nói không có Thượng đế, nhưng dầu vậy bạn biết rằng có Thượng đế. Và chỉ tin chắc về mặt tồn tại như thế mới có bất kì giá trị nào.

Tin tưởng dành cho kẻ ngu; người khôn tìm kinh nghiệm. Do đó, xin đừng đòi hỏi rằng tôi phải thuyết phục bạn, rằng tôi phải đưa ra bằng chứng về sự tồn tại của Thượng đế. Đó không phải là chức năng của tôi. Tôi không ở đây để cải đạo bạn sang ý thức hệ đặc biệt. Tôi ở đây để biến đổi bạn thành sự tồn tại hoàn toàn mới, cách sống mới, cách nhìn mới.

Thượng đế không có ở đâu đó bên ngoài bạn; do đó khoa học không bao giờ phát hiện ra được Thượng đế. Thượng đế là bản tính bên trong của bạn. Bạn sẽ phải chìm vào bên trong. Bạn sẽ phải đương đầu với cái ta riêng của bạn. Bạn sẽ phải cứ tìm và kiếm trong tâm thức của bạn. Và khi bạn đã đạt tới trung tâm của tâm thức của bạn... khải lộ!

Câu hỏi 4

Thưa Thầy kính yêu,…, làm sao thầy cho nhiều thế?

Chaitanya Kabir, tôi muốn cho bạn nhiều hơn nữa cơ! Nhưng cái thực không thể được cho bằng lời. Cái thực có thể được truyền đạt chỉ qua điệu bộ, qua im lặng, qua sự hiện diện. Và đôi khi ngay cả im lặng cũng không đủ thích hợp; ngay cả sự hiện diện, tại những đỉnh tối thượng, cũng thất bại. Điều tối thượng không thể được cho theo bất kì cách có thể nào.

Tôi cứ nói với bạn, nhưng đó không phải là điều tôi muốn nói. Điều tôi muốn nói với bạn không thể được nói ra, và điều có thể được nói không thực là điều tôi muốn nói với bạn. Đó là thế lưỡng nan cổ đại của nhà huyền môn. Ông ấy biết, nhưng ông ấy không thể nói được điều đó; và bất kì cái gì ông ấy nói đều không phải là điều ông ấy biết.

Lão Tử nói: Đạo không thể được nói ra, và nếu bạn nói nó, nó không còn là Đạo nữa. Thay vì nói là Đạo, gọi nó là 'pháp,' và nó trở thành phát biểu của Phật. Thay vì nói là Đạo, gọi nó là 'chân lí,' và nó trở thành phát biểu của Socrates. Chân lí không thể được nói ra - nó bao la thế! - nhưng nỗ lực vẫn phải được thực hiện. Trong chính nỗ lực đó, vài người mong manh, cởi mở, thông minh, có thể có khả năng có một thoáng nhìn nhỏ - một thoáng nhìn xa xăm, tất nhiên - nhưng thoáng nhìn đó sẽ trở thành hạt mầm trong họ và sẽ bắt đầu lớn lên.

Và điều tôi phải nói với bạn là không thể cạn được, do đó tôi có thể cứ nói hoài. Trong năm năm này tôi đã nói không dừng, và vậy mà tôi đã chẳng nói gì cả - thậm chí không một lời đã từng được nói ra! Do đó tôi có thể cứ nói, bởi vì nó không bao giờ có thể được nói.

Người ta có thể hỏi, 'Thế thì sao nói tất cả làm gì?' Có lí do cho điều đó: Tôi đã bắt được nhiều người trong các bạn qua việc nói! Nếu tôi chỉ ngồi im lặng ở đây, vâng, vài người sẽ ở đây đấy, những rất ít người, bởi vì im lặng là hiện tượng khó, khó hiểu nhất. Nó cần thông minh vô cùng; không chỉ thông minh, nó cần im lặng nào đó trong bạn nữa. Chỉ thế thì hai im lặng mới có thể giao cảm. Và thế giới không dạy bạn im lặng; nó dạy bạn lời, ngôn ngữ.

Tôi phải dùng lời và ngôn ngữ để cho bạn trở nên bị mắc vào lưới. Một khi bạn bị bắt và không thể thoát được, thế thì bạn sẽ phải lắng nghe im lặng của tôi nữa. Và một khi bạn đã hiểu lời tôi, bạn sẽ bắt đầu cảm thấy im lặng bao quanh những lời đó. Những lời đó được sinh ra từ im lặng; chúng mang cái gì đó của im lặng trong chúng, hương thơm nào đó quanh chúng.

Nhưng điều tôi đã từng nói với bạn chỉ là điều thô sơ nhất; nó dành cho người bắt đầu. Khi bạn trưởng thành trong hiểu biết, khi im lặng của bạn sâu sắc lên, tiếp xúc của tôi với bạn sẽ ngày một nhiều im lặng hơn. Thậm chỉ khi tôi đang nói, bạn sẽ lắng nghe các khoảng hở giữa các lời và bạn sẽ đọc giữa các dòng. Bạn sẽ không quan tâm nhiều thế tới lời, nhưng quan tâm tới vô lời. Bạn sẽ quan tâm nhiều hơn tới cội nguồn của nó tất cả.

Hai kẻ hippy đang qua Đại Tây dương bằng tầu thuỷ hơi nước. Họ ở trên boong tàu, nhìn ra đại dương, và một người nói, 'Này người, nhìn tất cả nước ở đằng kia!'

'À vâng, người,' người thứ hai đứng xa hơn đáp. 'Và nghĩ xem, điều giống thế chỉ ở trên đỉnh của nó.'

Chỉ ở bề ngoài, trên bề mặt, mới có thể được nói tới; chiều sâu vẫn còn ẩn kín. Nhưng bề mặt có thể trở thành lời mời.

Chaitanya Kabir, lời tôi chỉ là lời mời - lời mời hướng tới bản thể tôi, lời mời hướng tới sự hiện diện của tôi. Do đó, những người tới đây và vẫn còn không là sannyasin nhất định ra đi tay trắng. Họ sẽ tích luỹ vài lời, họ sẽ trở nên thông thái thêm chút ít; về mặt triết lí họ sẽ trở nên giầu có thêm chút ít, nhưng bản thể của họ sẽ vẫn còn như cũ. Họ sẽ biết nhiều hơn nhưng họ sẽ không hiện hữu nhiều hơn. Chừng nào bạn chưa trở nên được cam kết, chừng nào bạn chưa trở nên được tham gia, chừng nào bạn chưa mạo hiểm tất cả những cái bạn có, bạn sẽ vẫn còn chỉ liên quan tới lời.

Cam kết của bạn càng sâu hơn, khả năng đi tới những chiều sâu càng lớn hơn, bởi vì đi tới chiều sâu chỉ có thể được khi bạn sẵn sàng chết - chết đi như bản ngã, chết đi như một người.

Và đó đích xác là điều diễn ra giữa thầy và đệ tử: thầy không còn là bản ngã; đệ tử cũng dần dần, dần dần trở thành vô ngã, vô thực thể, không ai cả... và thế thì họ hội nhập và tan chảy, thế thì họ tan vào nhau.

Tôi đã chọn lá cờ cho công xã mới. Lá cờ này có hai mầu: trắng và cam. Mầu trắng biểu thị cho thầy, mầu cam biểu thị cho đệ tử. Và lá cờ này có vầng trăng tròn trên nó như một biểu tượng. Trăng tròn biểu thị cho chứng ngộ. Chứng ngộ là ánh sáng, nhưng không giống như mặt trời; nó không nóng, nó mát mẻ - nó giống mặt trăng.

Chứng ngộ không có tính nam mà có tính nữ, bởi vì chứng ngộ là món quà từ Thượng đế. Bạn không thể xông xáo về nó được, bạn phải có tính cảm nhận, sẵn có, cởi mở, như bụng mẹ; do đó mới có trăng. Và trăng có nửa đỏ nửa trắng; điều đó biểu thị cho sự gặp gỡ và hội nhập của thầy và đệ tử. Thầy ở trong đệ tử, do đó trăng có nửa đỏ; và đệ tử ở trong thầy.

Thầy và đệ tử không phải là hai. Khi họ trở thành một, khi đó không còn là đối thoại, khi không có vấn đề về ta và người, khi ta và người biến mất vào trong một thể thống nhất, thế thì im lặng được hiểu, thế thì sự hiện diện được hiểu. Và thế thì cội nguồn không cạn mở ra cho bạn. Thế thì bạn đang đi vào trong đại dương, dòng sông rơi vào trong đại dương.

Những lời này chỉ là lời mời. Tới cùng tôi đi! Những lời này chỉ để chuẩn bị bạn, để cho bạn có thể lấy cú nhảy vào đại dương. Nó cần can đảm, nó cần táo bạo, bởi vì nhảy vào trong đại dương nghĩa là việc biến mất như bạn đã từng biết bản thân mình mãi cho tới giờ, đánh mất căn cước cũ của bạn. Nó là mất mát lúc ban đầu - nhưng không thực sự, bởi vì bản thân dòng sông đánh mất nó như dòng sông nhưng trở thành đại dương. Đó là việc thu được.

Đệ tử khi đánh mất bản thân mình trong thầy thì trở thành thầy; người đó đạt tới căn cước thực của mình. Và thầy chỉ là cánh cửa: từ thầy người đó đi vào trong bản thân Thượng đế.

Đó là lí do tại sao ở phương Đông, thầy được quan niệm như thượng đế. Điều đó là rất khó hiểu cho người không ở phương Đông, tại sao thầy được quan niệm như thượng đế... bởi vì thầy là cánh cửa dẫn tới điều thiêng liêng.

Chaitanya Kabir, tôi có thể hiểu sự ngạc nhiên của bạn. Bạn nói, 'A người hiếm hoi nhất, làm sao thầy cho nhiều thế?'

Nhưng từ phía mình tôi chẳng cho bạn nhiều thế, bởi hai lí do. Một là ở chỗ bạn phải được chuẩn bị trước khi bạn có thể được cho. Bạn có thể được cho chừng ấy cái bạn có thể nhận được, tiêu hoá được. Bạn có thể được cho cái có thể trở thành máu, xương và tuỷ của bạn; nhiều hơn thế sẽ gây ra không tiêu hoá được, điều sẽ không ích cho bạn mà hại bạn.

Và tôi muốn cho bạn nhiều hơn, nhưng trong chính bản chất của mọi sự thì điều đó không thể được cho. Tôi hoàn toàn bất lực. Tôi có thể hét lên, tôi có thể cứ gọi bạn, 'Lại gần hơn!'... bởi vì nếu bạn tới gần hơn, dần dần, dần dần trường năng lượng của tôi sẽ bắt đầu rung động cùng trường năng lượng của bạn. Và khi trái tim tôi và trái tim bạn đập cùng một nhịp, theo cùng một điệu, thế thì giao cảm thực đã bắt đầu.

Nhưng điều đó đang xảy ra, dần dần, dần dần thôi. vài người trong các bạn đang lại gần hơn, vứt bỏ bản ngã của bạn. Vài người trong các bạn đang trở nên ngày một im lặng hơn. Vài người trong các bạn dám đương đầu với điều tối thượng, sẵn sàng lấy cú nhảy vào đại dương từ chỗ không còn lối quay lại. Mọi sự đang xảy ra, nhưng chúng cần thời gian.

Trường năng lượng như vậy đã không tồn tại trong hàng thế kỉ rồi; nhiều điều thế phải được làm việc từ ABC. Trường năng lượng như vậy đã tồn tại trong khi Phật còn ở đây. Trường năng lượng như vậy đã tồn tại cùng Bồ đề đạt ma ở Trung Quốc. Trường năng lượng như vậy đã tồn tại với Zarathustra ở Iran. Trường năng lượng như vậy đã tồn tại với Jesus ở Jerusalem. Nhưng trong hàng thế kỉ hiện tượng này đã biến mất khỏi thế giới, và con người đã trở nên quá trần tục, quá quan tâm tới những điều tầm thường, vào những thứ bề ngoài, vào những cái vô nghĩa. Cho dù người đó có đi tới Thượng đế, người đó đi vì những điều vô nghĩa. Người đó không đi vì sự biến đổi bên trong, người đó không chết đi và được tái sinh.

Bạn ở đây để chết đi và được tái sinh. Nhiều điều xảy ra... nhiều điều nữa sẽ xảy ra. Khi bạn trở nên ngày một sẵn sàng hơn, tôi sẽ trút ra ngày một nhiều hơn.

Và nó là không cạn bởi vì nó không phải là của tôi, nó chẳng liên quan gì tới tôi cả. Tôi chỉ là phương tiện, cây trúc hổng. Tôi đơn giản có sẵn cho sự tồn tại: bất kì bài ca nào nó muốn ca qua tôi, tôi sẵn sàng ca nó. Tôi đơn giản là trung gian.

Dùng cơ hội này nhiều nhất có thể được đi, bởi vì những cánh cửa như vậy chỉ thỉnh thoảng mới mở ra và rất dễ bỏ lỡ chúng. Vì những điều ngu xuẩn người ta có thể bỏ lỡ chúng, và bạn có thể hợp lí hoá cái ngu xuẩn của mình rất dễ dàng.

Thận trọng, có tính quan sát...

Câu hỏi 5

Thưa Thầy kính yêu,

Có nghiên cứu ở phương tây gợi ý rằng đàn ông có vợ hạnh phúc hơn là không có vợ, và rằng tỉ lệ tự tử đối với người có vợ là thấp hơn, và rằng điều ngược lại đúng cho đàn bà. Xin thầy bình luận.

Prabhudasi, có khác biệt giữa tâm trí nam và tâm trí nữ; vận hành của họ là khác. Họ là các cực đối lập - đừng bao giờ quên điều đó. Về mặt tâm linh họ đích xác như nhau, nhưng về mặt sinh lí họ là phần đối lập, họ vận hành theo những cách khác nhau.

Chẳng hạn, đàn ông có tính vật lí hơn đàn bà, đàn ông hướng ngoại hơn đàn bà. Đàn bà có tính tâm lí hơn và hướng nội hơn. Đó là lí do tại sao có nhiều tạp chí thế kiểu như Playboy với đàn bà khoả thân trên bìa và các ảnh đàn bà khoả thân bên trong - và hàng triệu bản được bán. Nhiều sách báo khiêu dâm thế tồn tại trên khắp thế giới, nhưng đó tất cả đều là ý niệm nam tính. Đàn bà không quan tâm mấy tới đàn ông khoả thân như đàn ông quan tâm tới đàn bà khoả thân.

Khi đàn ông và đàn bà đang ôm ấp sâu sắc, đáng yêu, đàn bà lập tức nhắm mắt lại. Hôn người đàn bà, và cô ấy nhắm mắt lại. Nhưng đàn ông quan sát bản thân mình hôn đàn bàn, quan sát đàn bà được hôn, quan sát phản ứng của cô ấy, quan sát liên tục liệu cô ấy có đạt cực thích hay không. Anh ta vẫn còn ít nhiều là người ngoài, khán giả. Anh ta quan tâm nhiều tới việc xem hơn là việc ở trong nó.

Đàn bà đơn giản nhắm mắt lại. Cô ấy ít quan tâm tới người đàn ông và điều đang xảy ra cho anh ta; cô ấy quan tâm nhiều hơn tới bản thể bên trong của mình, điều đang diễn ra ở đó. Do đó, đàn bà không quan tâm tới sách báo khiêu dâm; mối quan tâm thực của họ là trong quá trình bên trong của họ. Những khác biệt này lớn tới mức chúng làm thành các phong cách sống khác nhau.

Prabhudasi, bạn đúng đấy: nghiên cứu hiện đại chắc chắn đã tìm ra sự kiện có vẻ rất kì lạ. Nhưng nó thực sự không kì lạ. Đàn ông hạnh phúc khi có vợ hơn là không có bởi vì khi họ không có vợ họ đơn giản cảm thấy đơn độc. Khi họ có vợ, cho dù hôn nhân là khổ, điều đó vẫn tốt hơn là đơn độc; ít nhất cũng có cái gì đó để giữ bạn bận bịu. Khổ cũng giữ bạn bận bịu và đàn ông bao giờ cũng muốn vẫn còn bận bịu - cái gì đó bên ngoài để cho anh ta không cần đi vào trong, để cho anh ta có thể để mắt mình mở.

Đàn bà không quan tâm mấy tới cái bên ngoài, cho nên khi đàn bà chưa có chồng, cô ấy cảm thấy một mình hơn là đơn độc. Và cô ấy có thể tận hưởng sự một mình của mình còn thú hơn là đàn ông bởi vì cô ấy hướng vào bên trong nhiều hơn - cô ấy vị kỉ hơn, theo một cách nào đó. Tôi đang dùng từ này với nghĩa rất tích cực: cô ấy vị kỉ, cô ấy định tâm vào mình. Đàn ông định tâm vào người khác; anh ta thường xuyên nghĩ về người khác.

Đàn bà nghĩ nhiều về bản thân cô ấy. Nhiều nhất, cô ấy vẫn còn quan tâm tới hàng xóm - ai đang lừa ai xung quanh. Cô ấy không quan tâm mấy tới Việt Nam hay Iran. Cô ấy đơn giản cảm thấy chút ít phân vân về tại sao đàn ông quan tâm nhiều thế tới Việt Nam. Bạn có liên quan gì tới Việt Nam? Nó xa xôi thế, sao bận tâm về nó?

Tôi đã không bắt gặp một người đàn bà nào, người đã hỏi tôi bằng chứng về Thượng đế. Nó xa vời thế! Không đàn bà nào đã hỏi tôi liệu cõi trời có thực tồn tại không, địa ngục có là thực tại không? Cô ấy không quan tâm tới những điều này. Cô ấy quan tâm nhiều hơn tới những điều ở gần cô ấy; cô ấy quan tâm nhiều tới quần áo của mình hơn Thượng đế.

Và đàn ông nghĩ tất cả những mối quan tâm nữ tính này đều ngu xuẩn: khi có những chủ đề lớn lao thế, đàn bà lại quan tâm tới mỗi quần áo của cô ấy! Cô ấy sẽ không thảo luận về chủ nghĩa cộng sản và Karl Marx, Mao và Mahatma Gandhi. Cô ấy, nhiều nhất, có thể nghe tất cả những điều này cho lễ phép thôi. Mối quan tâm của cô ấy là liệu bạn có kiếm được bộ áo choàng sari của mình không, đường viền quần áo của bạn, và ai trông đẹp. Cô ấy quan tâm tới cái ở gần; mối quan tâm của cô ấy dành cho bản thân cô ấy.

Do đó, cô ấy có thể vẫn còn một mình theo cách lành mạnh hơn đàn ông; anh ta cảm thấy rất đơn độc. Nếu anh ta không thể kiếm được tờ báo buổi sáng anh ta bắt đầu phiêu diêu! Anh ta phải biết cái gì đang xảy ra trên toàn thế giới. Anh ta không thể một mình được. Ngay cả trong sự một mình của mình anh ta sẽ tạo ra sinh linh tưởng tượng nào đó - Thượng đế, thiên thần - và các vấn đề tưởng tượng: Bao nhiêu thiên thần có thể đứng trên đầu kim? Và anh ta sẽ thực lâm vào vấn đề đó; anh ta sẽ phí hoài toàn thể cuộc đời của mình để đếm các thiên thần, và anh ta sẽ tranh cãi chẳng bao giờ dứt! Đàn bà đơn giản cười. Đàn bà sâu bên dưới biết tụi con trai chỉ là con trai - cứ để họ nói những điều vô nghĩa! Họ gọi nó là triết học, thượng đế học - họ rất khéo trong việc đặt tên cho những thứ ngu xuẩn.

Đó là lí do tại sao đàn ông sẽ tự tử nếu người đó đơn độc. Lấy vợ là điều phải có cho anh ta; anh ta cần đàn bà về nhiều điều. Thứ nhất, cô ấy cho anh ta nền tảng - đàn bà rất có tính trần tục, hướng đất. Trong mọi huyền thoại của thế giới cô ấy đã từng được biểu thị bằng đất. Đàn bà cho anh ta bắt rễ vào đất; bằng không, nếu không có đàn bà, anh ta hiện hữu mà không có đất, không có gốc rễ; treo trong không trung. Đàn bà cho anh ta cái tổ, đàn bà trở thành nhà cho anh ta. Không có đàn bà anh ta là kẻ vô gia cư, kẻ lang thang, mẩu gỗ trôi giạt.

Dầu vậy, sẽ vẫn có xung đột, sẽ có khổ, sẽ có ca cẩm thường xuyên... điều đó là không thể tránh được bởi vì họ là các cực đối lập thế; mối quan tâm của họ không bao giờ gặp nhau. Do đó đàn bà phải ca cẩm, bằng không đàn ông sẽ chẳng bao giờ đáp ứng cho ham muốn của cô ấy - và đàn ông phải nhân nhượng. Dần dần, dần dần nếu đàn ông đủ thông minh, anh ta trở thành kẻ sợ vợ.

Chỉ những người rất ngu và bướng bỉnh mới không bao giờ trở thành kẻ sợ vợ. Một chút ít thông minh và người này hiểu ra điều đó: rằng tốt hơn cả là nghe theo bất kì điều gì cô ấy nói và tuân theo nó. Bằng không hai mươi bốn giờ một ngày cô ấy sẽ bám theo sau bạn. Cô ấy sẽ không để bạn được nghỉ ngơi gì. Tốt hơn cả là làm bất kì điều gì cô ấy nói và được kết thúc với nó, để cho bạn có thể đọc báo của mình được!

Mọi ca cẩm đó và mọi khổ đó có thể được dung thứ bởi vì đàn bà đáp ứng một nhu cầu rất sâu nào đó: cô ấy làm cho bạn bị buộc vào đất và cô ấy chăm sóc thân thể bạn. Cô ấu không quan tâm mấy tới linh hồn bạn - điều đó cô ấy để cho bạn nghĩ tới - nhưng cô ấy nuôi dưỡng thân thể bạn. Cô ấy nuôi dưỡng, cô ấy chăm sóc, cô ấy yêu; cô ấy làm cho bạn cảm thấy được yêu, được cần tới - cô ấy cho bạn sự mãn nguyện sâu sắc. Không có cô ấy, bạn đơn giản không biết mình là ai. Không có cô ấy bạn bao giờ cũng là đứa trẻ lạc. Cô ấy làm mẹ bạn.

Do đó chuyện xảy ra là đàn ông có vợ hạnh phúc hơn đàn ông không vợ. Nó đáng phải không như vậy, bởi vì đàn ông không vợ không có vấn đề gì. Đàn ông có vợ có vấn đề, cho nên về mặt logic điều có vẻ như rất kì lạ là người có vợ đáng phải hạnh phúc hơn người không vợ. Nhưng cuộc sống không tuân theo logic; cuộc sống có cách thức kì lạ riêng của nó. Đàn ông không vợ là không có gốc rễ, không có nuôi dưỡng, không có hơi ấm. Người đó lạnh, sống trong thế giới lạnh lẽo; người đó cứ co lại và chết. Đàn bà cho hơi ấm, cho cuộc sống, làm cho anh ta cảm thấy được ở nhà, giúp cho anh ta vẫn còn gắn lại. Không có đàn bà người đó bắt đầu rời ra.

Nhưng đàn bà có thể hạnh phúc một mình hơn là có chồng, bởi vì cô ấy có thể làm cho bản thân mình được bắt rễ mà không có đàn ông; đàn ông không phải là cầu lớn thế. Cô ấy có thể độc lập hơn đàn ông - cô ấy độc lập hơn.

Chỉ bởi vì đàn bà độc lập hơn, qua nhiều thời đại đàn ông đã cố gắng làm cho cô ấy bị phụ thuộc theo các cách khác - về kinh tế, về xã hội. Một cách tự nhiên, cô ấy độc lập hơn và điều đó làm tổn thương đàn ông và bản ngã của anh ta, cho nên anh ta cố gắng làm cho cô ấy phụ thuộc bằng cách nào đó; phụ thuộc nhân tạo đã được tạo ra cho cô ấy. Về mặt kinh tế cô ấy đã bị làm tê liệt, cô ấy phải phụ thuộc vào đàn ông. Đây là an ủi cho đàn ông: nếu anh ta phụ thuộc vào cô ấy, cô ấy cũng phụ thuộc vào anh ta. Đó là phần bù và sự an ủi.

Về mặt chính trị, xã hội, cô ấy đã bị ném ra khỏi xã hội; cô ấy đã bị buộc vẫn còn ở trong nhà để cho đàn ông có thể cảm thấy rằng 'Mình không phải là người phụ thuộc duy nhất, cô ây cũng phụ thuộc vào mình.' Đây là chiến lược tâm lí của bản ngã, của bản ngã nam tính. Bằng không, nếu đàn bà được cho tự do toàn bộ - về kinh tế, xã hội, chính trị - đàn ông sẽ có vẻ đáng thương thực sự nếu so với cô ấy.

Trong các xã hội mẫu hệ, đàn ông là đáng thương. Có vài bộ lạc vẫn tồn tại trên trái đất ở vào thời mẫu hệ, nơi đàn bà cai trị; đàn bà mạnh khoẻ hơn, tự tin về bản thân họ hơn, và đàn ông yếu đuối.

Chắc chắn đàn bà mạnh hơn đàn ông theo nhiều cách. Cô ấy sống lâu hơn đàn ông, lâu hơn đàn ông năm năm. Nếu khoảng sống trung bình của đàn ông là bẩy mươi năm, khoảng sống của đàn bà sẽ là bẩy nhăm năm. Cô ấy sống năm năm lâu hơn đàn ông - tại sao? Cô ấy phải có nhiều sức chịu đựng hơn. Và sau khi cho sinh con mười, mười hai đứa con... Nghĩ về đàn ông cho sinh mười, mười hai đứa con mà xem - anh ta sẽ bị kết thúc từ lâu trước đây rồi! Chỉ mang một đứa con trong bụng bạn trong chín tháng và bạn sẽ tự tử! Hay nếu điều đó mà khó, thử nuôi dưỡng một đứa con thôi - và hoặc bạn sẽ giết con hoặc bạn sẽ tự tử.

Đàn bà có sức chịu đựng lớn lao, dung thứ lớn lao về nhiều điều. Đàn bà cân bằng hơn; về sinh lí, về hoá học, cô ấy cân bằng hơn. Đó là lí do tại sao cô ấy trông đẹp hơn - cái đẹp của cô ấy có gốc rễ trong sự cân bằng sinh lí của mình.

Điều đó giống thế này: nếu mọi người được tạo ra từ hai tế bào, một từ người mẹ và một từ người bố - từng tế bào đều bao gồm hai mươi bốn phần nhỏ hơn - thế thì đàn ông có hai tế bào, một bao gồm đầy đủ hai mươi bốn phần tử trong khi tế bào kia chứa ít hơn. Còn đàn bà có hai tế bào, cả hai đều bao gồm đầy đủ hai mươi tư phần tử, bằng nhau. Đàn bà được cân bằng hơn.

Đàn ông có mất cân bằng bên trong, do đó anh ta nổi cáu dễ dàng hơn, phát điên rất dễ dàng. Bất kì đàn bà nào cũng có thể làm cho bất kì đàn ông nào phát điên, nó là hiện tượng đơn giản thế! Đàn bà ít ốm hơn đàn ông; đàn ông ốm nhiều hơn, họ chịu nhiều bệnh hơn. Một trăm mười lăm bé trai được sinh ra cho mỗi một trăm bé gái, và đến lúc họ đạt tới tuổi kết hôn, mười lăm con trai đã biến mất. Đến tuổi kết hôn có một trăm con gái với một trăm con trai. Tự nhiên cho việc sinh thêm mười lăm bé trai, vẫn biết hoàn toàn rõ rằng mười lăm bé này sẽ chết sớm hay muộn. Cho nên đến lúc con trai và con gái tới tuổi kết hôn, tỉ lệ sẽ là như nhau.

Đàn bà không lấy chồng thoải mái với bản thân họ hơn. Nếu về mặt chính trị và kinh tế họ mà không bị ngăn cản, họ muốn, họ sẽ thích vẫn còn không lấy chồng. Có thể đó là một trong những lí do tại sao đàn ông đã làm cho họ thành bất lực thế về mặt chính trị, xã hội và kinh tế, để cho họ phải quyết định về hôn nhân; bằng không nhiều đàn bà sẽ vẫn còn không lấy chồng. Cho dù họ muốn trở thành mẹ họ sẽ thích thành mẹ mà không hôn nhân. Vâng, có nhu cầu lớn là người mẹ trong người đàn bà, nhưng không có nhu cầu lớn là người vợ.

Nhu cầu của đàn ông mang nhiều tính sinh lí hơn; nhu cầu của đàn bà mang nhiều tính tâm lí hơn. Do đó đàn bà bao giờ cũng cảm thấy dường như cô ấy bị khai thác trong hôn nhân. Và cảm giác của cô ấy là đúng, bởi vì mối quan tâm của đàn ông có tính dục còn mối quan tâm của đàn bà có tính toàn bộ hơn nhiều; nó không chỉ có tính dục. Dục có thể là một phần trong tính toàn bộ đó. Nhưng mối quan tâm của đàn ông về căn bản có tính dục; mọi thứ khác chỉ có tính trang điểm, nó không phải là bản chất. Anh ta liên tục quan tâm tới dục... Lí do đơn giản là ở chỗ tính dục của họ rất khác nhau.

Đàn ông có tính dục cục bộ, dục của anh ta bị giới hạn trong bộ phận sinh dục, nó không lan rộng khắp thân thể anh ta. Đàn bà có tính dục toàn bộ, toàn thân thể cô ấy đều có tính dục; nó không ở bộ phận sinh dục. Do đó đàn bà cần vuốt ve kích thích lâu hơn trước khi cô ấy có thể thực sự đi vào làm tình.

Và đàn ông bao giờ cũng vội vã; tình yêu của anh ta không là gì ngoài việc gây chuyện và chạy! Đàn bà thậm chí chưa được khởi động, và đàn ông đã mặc quần áo và đi mất! Đàn ông bị kết thúc. Tính dục của anh ta là ở bộ phận sinh dục. Đàn bà có tính toàn bộ hơn; toàn thân cô ấy có tính dục sâu sắc trong nó. Chừng nào toàn thân cô ấy chưa trở nên được tham dự cô ấy không thể có kinh nghiệm cực thích. Và nếu cô ấy không thể có kinh nghiệm cực thích cô ấy trở nên dửng dưng trong dục. Cho nên các bà vợ dửng dưng trong dục. Toàn thể mối quan tâm của đàn ông là ở dục.

Chàng giám đốc điều hành trẻ đón chào cô thư kí hấp dẫn khi anh ta vào văn phòng. 'Chào, Marge,' anh ta nói, vừa ném chiếc cặp của mình lên bàn. 'Tôi có giấc mơ về cô đêm qua đấy.'

Lấy làm hãnh diện, nhưng lại muốn tỏ vẻ xa cách, cô ta tình cờ hỏi, 'A, anh mơ thật à?'

'Không,' ông chủ cô ta đáp. 'Tôi dậy sớm quá.'

Hiểu biết của họ là khác nhau. Đàn bà bao giờ cũng cảm thấy bị lừa, bị dùng, cứ dường như cô ấy là cái máy. Cô ấy cảm thấy bị dùng như một phương tiện; điều đó làm bẽ mặt. Do đó hôn nhân là rất bẽ mặt với đàn bà. Nó dường như chỉ là một loại mãi dâm vĩnh viễn, chẳng cái gì khác. Cô ấy cảm thấy dường như cô ấy đã bị bán mãi mãi. Và trong mặc cả cô ấy được cái gì? Một cuộc sống lặp lại, không sáng tạo, không vui vẻ, không thám hiểm, sự nô lệ, nô lệ thường xuyên và sự bẽ mặt thường xuyên của việc bị dùng như phương tiện.

Tất nhiên, nếu nhiều đàn bà có chồng mà tự tử điều đó là tự nhiên; nhiều đàn bà có chồng mà phát điên, điều đó là tự nhiên.

Lester liên tục thần kinh và căng thẳng, cho nên anh ta tới gặp bác sĩ của mình. Anh ta được cô y tá đáng yêu đeo băng đỏ đón chào, và anh ta kể lại vấn đề của mình.

Cô ấy nói, 'Điều đó dễ chữa thôi.' Và cô ấy đưa anh ta vào một phòng nhỏ, làm đỡ căng thẳng của anh ta và nói, 'Điều ấy mất mười đô la đấy thưa anh.'

Vài tuần sau anh ta lại bị thần kinh và căng thẳng trở lại, lại tới bác sĩ, và bác sĩ khám bệnh cho anh ta và cho anh ta một đơn thuốc an thần và nói, 'Cái đó năm đô la.'

'Nếu nó tất cả là như nhau cho bác sĩ, tôi muốn có ngay việc trị liệu mười đô la.'

Với đàn ông, dục không phải là hiện tượng tâm linh mà chỉ là là việc xả ra theo sinh lí. Với đàn bà nó là hiện tượng tâm linh. Do đó đàn bà bao giờ cũng cảm thấy bị xúc phạm; chừng nào tình yêu chưa xảy ra như một phần của kinh nghiệm tâm linh lớn lao thì cô ấy không thể nào hợp tác trong nó được. Vâng, cô ấy có thể là một phần của nó theo cách lạnh nhạt. Chính bởi vì tình huống này mà hàng triệu đàn bà đã hoàn toàn quên mất cực thích nghĩa là gì; họ đã trở nên đông cứng. Điều đó là do sự không hiểu biết của đàn ông về sự khác biệt.

Từng đàn ông và từng đàn bà đều cần giáo dục lớn lao về nó - rằng họ là khác nhau; sinh lí của họ là khác, tâm lí của họ là khác. Và họ phải hiểu tâm lí của nhau, sinh lí của nhau. Họ phải được dạy. Từng đại học phải giúp cho sinh viên hiểu sinh học, tâm linh của nhau. Nhưng chẳng cái gì được dạy cả.

Dục là điều kiêng kị: không nói về nó. Mọi người hành động cứ dường như chúng ta được sinh ra đã có tất cả tri thức được cần tới. Điều đó cực kì vô nghĩa! Bạn có thể có khả năng sinh con, điều đó là có thể, nhưng điều đó là không đủ.

Dục có ý nghĩa sâu sắc hơn nhiều. Nó không chỉ là dành cho sinh sản; nó có phẩm chất đa chiều của nó. Nó cũng là vui đùa, nó là trò chơi, nó là lời cầu nguyện, nó là thiền, nó là tôn giáo, nó là tâm linh. Dục có toàn bộ phổ; nó là toàn thể cầu vồng, tất cả mầu sắc từ thấp nhất tới cao nhất.

Giáo dục lớn lao là cần thiết để cho đàn ông có thể hiểu đàn bà và có thể giúp cô ấy đi tới những đỉnh cực thích, và đàn bà có thể hiểu đàn ông và có thể giúp đỡ anh ta.

Hôn nhân ngay bây giờ là dựa trên dốt nát, và nó đã từng là vậy trong nhiều thế kỉ. Tất cả tri thức về dục đã từng bị kìm nén. Nó đã được khám phá đi khám phá lại, nhưng nó đã bị kìm nén đi kìm nén lại bởi các nhà đạo đức, những người khắt khe đạo đức, bởi các tu sĩ, bởi các chính khách, bởi vì họ không muốn bạn trở nên phúc lạc cực thích.

Có nguy hiển cho các chính khách và các tu sĩ: nếu mọi người phúc lạc cực thích họ sẽ không đi tới nhà thờ và tới đền chùa bởi vì họ sẽ biết một dạng cao hơn và sâu hơn của lời cầu nguyện trong các kiếp sống riêng của mình. Và nếu mọi người phúc lạc cực thích họ sẽ không tuân theo những người lãnh đạo ngu xuẩn đi vào chiến tranh. Họ sẽ yêu cuộc sống sâu sắc thế, họ sẽ không sẵn sàng để bị giết hay để giết. Sự kính trọng của họ với cuộc sống sẽ vô cùng thế, vui vẻ cuộc sống của họ sẽ tới mức họ sẽ cảm thấy biết ơn Thượng đế. Họ sẽ không vội vàng ném cuộc sống vào bất kì cái cớ ngu xuẩn nào: người Mô ha mét giáo đánh người Hindu, người Hindu đánh người Mô ha mét giáo, giết hại lẫn nhau.

Chính khách và tu sĩ cả hai đều đồng ý về một điều: không cho phép mọi người có vui vẻ cực thích; bằng không họ sẽ không còn là nô lệ nữa. Sẽ không thể nào thao túng được họ; sẽ không thể nào thu họ thành kém hơn người, người máy. Họ sẽ có tính tâm linh theo cách riêng của họ và họ sẽ có cuộc sống phong phú thế, họ sẽ không sẵn sàng để mất nó dễ dàng thế.

Những tu sĩ và chính khách này đã tạo ra xã hội kìm nén và con người kìm nén tới mức toàn thể nhân loại đều ốm yếu và dị thường.

Charlie vào phòng bán vé máy bay, và cô gái đằng sau quầy được trời phú cho các thiết bị nữ tính lộng lẫy như nhiều cô gái anh ta có thể đã từng nhớ được thấy. Cô ấy mặc bộ quần áo cắt ngắn và đang cúi mình thấp qua những kí hiệu cô ấy vẽ ra. Anh ta nhìn chằm chằm vào cô ấy.

Cô ấy nhìn lên và nói, 'Tôi có thể làm gì cho ông, thưa ông?'

Charlie nghe thấy hơi thở của mình qua tai như hơi nước, nhưng cố gắng làm chủ tình thế. Sau rốt, anh ta quả thực cần hai vé đi Pittsburgh.

Cuối cùng anh ta nói. 'Ôi, cho tôi hai bé tới...'

Toàn thể nhân loại đang sôi lên ở bên trong. Mọi người sợ hãi thế, họ chỉ bằng cách nào đó xoay xở giữ thể diện của mình. Phát biểu của Charlie: 'Cho tôi hai bé tới...' không thực là đầy đủ. Câu đầy đủ sẽ là: 'Cho tôi hai bé tới Tittsburgh.' Phần đó bị bỏ đi bởi vì chuyện cười đã được biên soạn bởi người phải đã sợ bản thân mình. Nó không phải là chuyện cười đầy đủ. 'Vé tới Pittsburgh' trở thành 'bé tới Tittsburgh' - và điều này xảy ra cho hầu hết mọi người.

Tình huống dị thường như vậy được tạo ra bởi hàng thế kỉ kìm nén. Mọi người không nói về dục một cách rõ ràng - họ không nói về dục chút nào. Cho dù họ nói, họ nói theo cách vòng vo, họ nói một cách ngoại giao.

Ông Ginsburg bước về nhà từ cửa hiệu thì gặp ngay bà Cohen, bà này nói, 'Ông Ginsburg, cửa hàng của ông mở đấy.'

Ông ta nói, 'Bà nhầm đấy. Tôi đã đóng nó rồi.'

Thế rồi ông ấy gặp bà Goldberg bà này cũng nói, 'Ông Ginsburg, cửa hàng của ông mở đấy.' Ông ta lại phủ nhận điều đó.

Khi ông ta về nhà vợ ông ta bảo ông ta khuy quần bị mở và thế là ông ta hiểu. Thế là ông ta gọi điện cho bà Cohen và nói, 'Bà Cohen ơi, khi bà bảo tôi cửa hàng của tôi mở, xin nói cho tôi, người bán hàng ở trong hay ở ngoài?'

Đủ cho hôm nay.

Mục lục chính.


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Đứa trẻ nổi loạn - Osho

Tự truyện - Cuộc đời luận sư Osho