Truyện thứ tư: Câu trả lời của người chết
Truyện thứ tư: Câu trả lời của người chết
Mamiya về sau trở thành một thầy giáo nổi tiếng, nhưng trong khi anh ta cònhọc theo thầy, anh ta đã được thầy yêu cầu giải thích về tiếng vỗ tay của một bàn tay. Mặc dầu Mamiya đã làm việc cần mẫn về đi ều này một hôm thầy đã nói với anh ta, 'Ông vẫn chưa làm việc đủ cần mẫn. Ông còn quá gắn bó với thức ăn, của cải, mọi thứ - và tiếng vỗ tay đó. Ông chết đi là tốt hơn cả.'
Lần sau Mamiya tới trước thầy, anh ta lại được thầy hỏi anh ta có gì để trình ra về tiếng vỗ tay của một bàn tay. Mamiya lập tức ngã lăn ra dường như đã chết.
'Ông chết khá lắm,' thầy nói, 'nhưng về tiếng vỗ tay đó thì sao?'
Nhìn lên Mamiya đáp, 'Ô, tôi vẫn chưa giải được câu hỏi đó.'
'Cái gì?' thầy gầm lên, 'Người chết không nói. Cút ngay!'
Điều ngớ ngẩn là cần để đem bạn ra khỏi tâm trí mình, bởi vì tâm trí là lí luận. Thông qua lí luận bạn không thể nào thoát ra khỏi nó được. Thông qua lí luận bạn sẽ cứ đi mãi, nhưng bạn đi trong vòng tròn.
Đó là điều bạn đã làm trong nhiều kiếp. Điều này dẫn tới điều khác, nhưng ' điều khác' thì cũng lại là một phần của vòng tròn như điều thứ nhất. Bạn cảm thấy rằng bạn đang đi bởi vì có sự thay đổi, nhưng bạn lại đang theo vòng tròn. Bạn cứ đi lòng vòng, lòng vòng mãi - bạn không thể thoát ra khỏi nó. Bạn càng lập luận về cách thoát ra, bạn càng tạo ra hệ thống, kĩ thuật, phương pháp để thoát ra, bạn lại càng bị vướng vào trong nó. Bởi vì vấn đề cơ bản là: lí luận không thể đem bạn ra được vì lí luận là chính hiện tượng mà bạn đang ở trong đó.
Cái gì đó phi lí là cần thiết. Cái gì đó ở bên ngoài lí luận là cần thiết. Cái gì đó ngớ ngẩn, cái gì đó điên khùng - chỉ cái đó mới có thể đem bạn ra được. Tất cả mọi bậc thầy lớn đều bầy ra mọi thứ - phương cách của họ là ngớ ngẩn. Nếu bạn nghĩ về chúng, bạn sẽ lỡ. Bạn phải theo phương châm của họ mà không lí luận gì. Đó là lí do tại sao triết học không được dùng mấy. Chỉ tôn giáo mới có thể có ích - tôn giáo là hoàn toàn điên khùng.
Tertullian đã nói, 'Tôi tin vào Thượng đế bởi vì Thượng đế là ngớ ngẩn.' Không có lí do nào để tin vào điều đó - có lí do nào để tin vào Thượng đế không? Đã bao giờ có người nào có khả năng chứng minh rằng Thượng đế tồn tại không? Không có cách lí luận nào có thể hỗ trợ cho điều đó - do đó mới có niềm tin. Niềm tin nghĩa là sự ngớ ngẩn. Niềm tin nghĩa là không có lí do nào để tin mà bạn vẫn tin. Niềm tin nghĩa là không cãi lí, không bằng chứng để chứng minh, và bạn đem cả cuộc sống của mình ra đặt cược. Không ai có thể chứng minh rằng Thượng đế hiện hữu, và bạn lấy cú nhẩy vào vực thẳm. Bất kì ai là người có lí luận đều sẽ cảm thấy rằng bạn đã phát điên, và đó là cách những người theo chủ nghĩa duy lí bao giờ cũng cảm thấy vậy. Một Phật, một Krishna, một Jesus - họ đã phát điên, họ đang nói những điều vô nghĩa.
Có cả một trường phái ở phương Tây đi chứng minh rằng tất cả các tôn giáo đều vô nghĩa. Và tôi là người tôn giáo và tôi nói họ là phải - với việc lí luận sai thì họ là phải. Họ nghĩ rằng nếu bạn chứng minh điều đó thì tôn giáo đó là vô nghĩa, nếu bạn chứng minh điều đó thì bạn đã không đếm xỉa tới tôn giáo, đã bác bẻ nó. Không!
Người tôn giáo bao giờ cũng nói, 'Chúng ta ngớ ngẩn! Chúng ta không thuộc vào thế giới của tri giác, chúng ta thuộc vào cái gì đó ở cõi bên kia.' Và cõi bên kia nhất định là vô nghĩa rồi. Bạn có thể làm ra ý nghĩa gì từ tôn giáo? Nếu bạn có thể làm ra ý nghĩa gì từ tôn giáo, bạn đã lỡ. Thế thì bạn đang trong thế giới của thượng đế học, triết học, hệ thống, nhưng bạn không bao giờ có thể chạm tới thuần khiết điều bao giờ cũng ở bên ngoài lí luận.
Tertullian là phải, ông ấy đúng. Ông ấy nói, 'Tôi tin bởi vì Thượng đế là ngớ ngẩn.' Tin có nghĩa là tin vào điều ngớ ngẩn. Bạn không cần tin vào thế giới này đang bao quanh bạn - nó có đó; không ai cần tin vào nó cả. Làm sao bạn có thể không tin vào nó được? Nó đang đó nhiều thế, đang hiện diện thế; mọi thứ đều chứng minh nó đang có đó. Ai đó có thể ném đá vào bạn và điều đó được chứng minh, bởi vì bạn sẽ bị thương. Bạn đã bị ném trúng; viên đá có đó.
Nhưng Thượng đế không thể đập vào bạn như viên đá được. Bạn thậm chí không thể chạm tới ông ấy được. Không có cách nào. Làm sao khám phá được ông ấy? Làm sao thấy ông ấy? Vậy mà bạn vẫn tin. Tin có nghĩa là bao giờ cũng tin vào cái ngớ ngẩn.
Nhưng điều gì xảy ra khi ai đó có khả năng tin vào điều ngớ ngẩn? Người đó ở ngoài lí luận của mình. Bỗng nhiên vòng tròn dừng lại, bánh xe dừng lại, bởi vì bạn không nuôi dưỡng nó thêm nữa. Việc cãi lí dừng lại, suy nghĩ dừng lại. Bỗng nhiên bạn ở ngoài nó, cứ dường như bạn đã tỉnh dậy khỏi giấc ngủ của mình. Và giấc ngủ lớn nhất là của lí luận, bởi vì lí luận tạo ra những giấc mơ đẹp và thực tới mức mọi người đều bị chúng lừa.
Một khi bạn thức tỉnh và thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn, thì Thượng đế có đó, chẳng cái gì khác tồn tại. Thế thì không cần phải tin. Thế thì bạn biết. Nhưng trước khi việc biết đó xảy ra, thì niềm tin lại là cần. Và tất cả những triết gia đã từng cố gắng hàng thế kỉ để chứng minh rằng Thượng đế hiện hữu, họ đều không phải là người tôn giáo, họ không phục vụ cho Thượng đế; họ đang làm hại lớn. Bởi vì khi bạn đưa ra bằng chứng, bạn làm cho Thượng đế cũng là một phần của tâm trí. Và khi ai đó tin bởi vì Thượng đế là một sự kiện được chứng minh, người đó không thể nào thoát ra khỏi lí luận được.
Cho nên tất cả những người tôn giáo, tất cả các bậc thầy, đều đã phát minh ra nhiều cách để đem bạn ra khỏi lí luận. Thiền có kĩ thuật đặc thù của riêng nó, và kĩ thuật đó được biết là công án. Công án là một câu đố ngớ ngẩn. Bạn không thể nào giải được nó. Dù bạn có cố gắng tới đâu, nỗ lực của bạn cũng chẳng có quan hệ gì. 'Hết sức cố gắng vào,' thầy sẽ cứ nói thế, 'anh vẫn chưa cố gắng đủ độ.' Và thầy đang lừa bạn, bởi vì dù bạn có làm đến đâu thì cũng vẫn chẳng đủ cố gắng để giải quy ết cho được vấn đề đó - bởi vì vấn đề này là không giải quyết được! Nó không phụ thuộc vào việc bạn cố gắng hết sức giải quyết nó hay không. Nhưng nếu bạn giải quyết nó bằng sự toàn bộ của mình, bỗng nhiên bạn sẽ đi tới nhận biết về ngớ ngẩn này - chưa bao giờ có trước đây. Bỗng nhiên bạn sẽ bắt đầu cười to. Toàn bộ sự việc là vô nghĩa. Và nếu bạn có thể cười thì tiếng cười điên khùng đó tới khi lí luận không vận hành...
Bạn đã bao giờ thấy người điên cười chưa? Tiếng cười của người đó hoàn toàn khác với tiếng cười của bạn. Tiếng cười của bạn bắt nguồn từ lí lẽ, có lí do cho nó. Ai đó đã kể một chuyện cười, ai đó bị ngã trên phố , trượt vỏ chuối, và bạn cười. Có lí do, điều gì đó nực cười đã xảy ra. Sao bạn cười khi một người ngã trên phố, trượt vỏ chuối? Tại sao? Cái gì đáng cười trong đó? Có cái gì đó: bản ngã là điều nực cười nhất trong con người, và khi một người ngã trượt vỏ chuối, thế thì ngay cả vỏ chuối cũng còn mạnh hơn bạn. Toàn bộ cái ngớ ngẩn của bản ngã được lộ ra, rằng con người đó chẳng là cái gì cả - ngay cả vỏ chuối cũng có thể làm cho bạn mất thăng bằng.
Toàn bộ nền văn minh của con người đều tập trung quanh bản ngã. Toàn bộ các nền văn hoá, các quốc gia, mọi mơ mộng về những điều lớn lao đều đưa tới con người bởi vì con người là con vật duy nhất đứng thẳng trên hai chân - đó là lí do tại sao con người lại nghĩ rằng mình không phải là con vật, con người là khác, con người là duy nhất, con người không thuộc vào thế giới con vật. Nhưng khi bạn trượt vỏ chuối, bỗng nhiên tư thế đứng thẳng bị mất. Bỗng nhiên bạn rơi vào trong thế giới loài vật, bạn là con vật bất lực, không gì khác hơn. Đó là lí do tại sao điều đó lại buồn cười, khi thấy con người ngã.
Và bạn hãy nghĩ - nếu người ăn xin trượt vỏ chuối, bạn sẽ không cười nhiều thế; nhưng nếu một thủ tướng ngã, bạn sẽ cười nhiều hơn. Tại sao? - bởi vì người ăn xin là người ăn xin; người đó đã là một phần của thế giới loài vật, không gì nhiều. Nhưng ông thủ tướng này, ông tổng thống này, nhà vua này, nữ hoàng này - bạn không bao giờ có thể tin được rằng nữ hoàng Anh quốc có thể ngã cũng giống như mọi người khác. Không thể được! Họ đã tạo ra ấn tượng giả tạo quanh mình rằng họ không thể ngã được. Và chỉ một cái vỏ chuối cũng làm sập đổ toàn bộ sự việc. Bạn được phô bầy ra, rằng bạn chỉ là một sinh linh bất lự c. Và không chỉ là một sinh linh bất lực, chỉ là một con vật - trên bốn chân, không trên hai chân.
Điều đó thật tức cười. Bạn cười, nhưng có lí do. Quan sát người điên cười - không có lí do trong đó. Đó là lí do tại sao bạn lại gọi người đó là điên. Bạn hỏi người đó, 'Sao anh cười?' nếu người đó có thể trả lời tại sao, người đó không điên. Nếu người đó không thể trả lời tại sao, bạn nói người đó đã mất lí lẽ của mình.
Khi công án lần đầu tiên được hiểu ra... không giải được, bởi vì công án không thể nào giải được, công án là không giải được, nó không thể nào được giải. Không có cách nào để giải nó, nó là điều không thể được, nó là ngõ cụt cho tâm trí - bạn không thể đi thêm được nữa. Bỗng nhiên bạn bị mắc kẹt, mà thầy cứ nói mãi, 'Làm việc cần mẫn vào! Con vẫn chưa làm việc đủ cần mẫn.' Và bạn càng làm việc cần mẫn, bạn càng bị mắc kẹt hơn, không đi đâu được: bạn không thể quay lại được, bạn không thể tiến lên được - mắc kẹt. Còn thầy thì cứ nện búa vào bạn, 'Nhanh lên, nhanh lên, cố gắng nhiều nữa vào. Làm việc cần mẫn vào!' Một khoảnh khắc tới khi bạn không còn kìm giữ phần nào của sự hiện hữu của mình, toàn bộ sự hiện hữu của bạn đều tham dự, và vậy mà bạn vẫn bị mắc kẹt.
Bỗng nhiên, khi toàn bộ năng lượng đều đã tham dự vào, bạn trở nên nhận biết. Và điều này xảy ra chỉ khi bạn đã hoàn toàn tham dự, khi bạn đã đặt vào mọi thứ bạn có thể đặt. Chỉ tại đỉnh đó, tại cực đỉnh năng lượng đó, bạn mới trở nên nhận biết rằng vấn đề này là ngớ ngẩn - nó không thể được giải. Tiếng cười lan rộng khắp bản thể bạn, đấy là tiếng cười điên khùng. Và với tiếng cười đó mọi thứ đều thay đổi, đều được biến đổi. Đây là điều thứ nhất.
Điều thứ hai - thế thì chúng ta có thể đi vào trong câu chuyện này - điều thứ hai: tất cả các bạn đều là những kẻ bắt chước vĩ đại. Dễ dàng bắt chước hơn là đích thực, bởi vì bắt chước chỉ trên bề mặt. Đích thực cần trung tâm của bạn, cần bạn trong sự toàn bộ của mình. điều đó là quá nhiều. Bạn tham dự vào chỉ trên bề mặt, sâu bên dưới bạn vẫn còn ở ngoài.
Bắt chước là rất dễ dàng, và toàn thể nền văn hoá và xã hội đều phụ thuộc vào bắt chước. Mọi người đều bảo bạn cách cư xử, và bất kì điều gì họ dạy bạn đều không là gì khác ngoài bắt chước. Người tôn giáo - cái gọi là người tôn giáo, các tu sĩ, các nhà thượng đế học - họ cũng đang dạy bạn, 'Giống như Jesus, giống như Phật, giống như Krishna.' Không ai đã bao giờ bảo bạn, 'Là bản thân mình' - không ai cả. Mọi người đều chống lại bạn, dường như vậy. Không ai cho phép bạn là bản thân mình, không ai cho bạn bất kì tự do nào. Bạn có thể trong thế giới này, nhưng bạn phải bắt chước ai đó.
Toàn bộ sự việc này là nực cười, bởi vì cùng những điều này đã được nói cho Phật. Họ đã nói với Phật: 'Giống như Rama, giống như Krishna.' Ông ấy đã không theo họ, đó là cách ông ấy trở thành vị phật. Ông ấy đã trở nên chứng ngộ bởi vì ông ấy chưa bao giờ trở thành nạn nhân của việc bắt chước. Không ai có thể bắt chước được. Nếu bạn bắt chước, bạn sẽ vẫn còn giả tạo.
Tôi đã từng nghe: một con sư tử và một con thỏ cùng đi vào tiệm ăn. Bỗng nhiên mọi người trở nên tỉnh táo, họ không thể nào tin vào mắt mình được. Thế rồi con thỏ nói với người phục vụ, 'Đem cho tôi rau diếp - và đừng nấu nướng gì cả.'
Người phục vụ hoảng sợ, nhưng dầu vậy anh ta vẫn hỏi, 'Thế bạn anh thì sao? Tôi phải mang gì cho anh ta?'
Con thỏ nói, 'Chẳng cái gì cả.'
Người phục vụ hỏi, 'Anh ấy không cảm thấy đói sao?'
Con thỏ nhìn chằm chằm vào người phục vụ và nói, 'Nếu anh ấy mà là sư tử thật, anh có cho rằng tôi còn ngồi đây được không? Anh ta là diễn viên.'
Toàn thế giới đã trở thành không thực và đóng kịch, không ai thực cả. Rất khó tìm ra người thực. Nếu bạn có thể tìm thấy một người thực, đừng bỏ qua người đó, chỉ ở gần người đó; thực tại của người đó sẽ trở thành tiêm nhiễm. Chỉ ở gần người đó sẽ đủ làm biến đổi bạn. Không cần phải làm gì cả. Đây là điều chúng ta đã gọi là satsang: ở gần người đúng, người thực, người đích thực. Chẳng cần gì khác. chỉ ở gần người đó và ngắm nhìn và cảm thấy cách thức người đó hiện hữu - điều đó là đủ.
Nhưng xã hội đã làm cho bạn thành kẻ bắt chước, diễn viên. Bạn không thực, bạn là giả. Bạn chưa bao giờ được phép là bản thân mình, và đó là điều duy nhất bạn có thể là, bạn không thể là cái gì khác được. Bạn có thể cố gắng bắt chước, nhưng điều đó vẫn còn chỉ trên bề mặt: sâu bên dưới bạn sẽ vẫn còn là bản thân mình... và đó là cách nó phải vậy. Cái giả tạo mà bạn khoác vào mình không thể trở thành bản thể của bạn được. Làm sao nó có thể thế được? Nhiều nhất nó có thể là cái vẻ ngoài, điệu bộ, cử chỉ bề mặt.
Toàn thể thế giới giúp bạn là kẻ bắt chước. Cho nên khi bạn tới đạo tràng, ở gần thầy, bạn lại thử những phương pháp cũ bạn đã từng làm trong thế giới này. Tại đó bạn cũng lại bắt đầu bắt chước. Tại đó chúng sẽ chẳng có ích gì, chúng sẽ là rào chắn. Trong thế giới điều đó là được, bởi vì toàn thế giới đều gồm những kẻ bắt chước. Nếu bạn là thực ở đó, bạn sẽ bị rắc rối; nếu bạn là giả, bạn sẽ được chấp nhận. Cái gọi là thế giới này chỉ muốn bạn là cái bóng, không phải là con người thực, bởi vì con người thực là nguy hiểm.
Chỉ cái bóng mới có thể bị chinh phục, cái bóng mới có thể vâng lời, cái bóng mới có thể tuân theo; bất kì điều gì họ được bảo phải làm, họ sẽ làm. Con người thực sẽ không phải bao giờ cũng nói có; đôi khi người đó sẽ nói không, và khi người đó nói không, người đó ngụ ý không! Bạn không thể chinh phục người đó, bạn không thể trấn áp được người đó.
Cho nên từ ngay ban đầu chúng ta huấn luyện cho trẻ nhỏ là giả dối. Và đây là điều chúng ta gọi là 'tính cách'. Nếu chúng thực sự trở thành giả dối, không thực, chúng ta khen ngợi chúng, chúng ta thưởng cho chúng huân chương, chúng ta nói chúng là thực. Cái giả dối này được gọi là thực, lí tưởng. Còn nếu đứa trẻ nổi loạn, cố gắng là bản thân mình, nó là 'đứa trẻ có vấn đề'. Nó phải được phân tâm, hay nó phải được đưa tới một cơ quan nào đó nơi người ta có thể đưa nó về điều phải - cái gì đó sai với nó. Và chẳng có gì sai cả, nó chỉ đơn giản tự khẳng định mình. Nó đang nói, 'Để cháu là bản thân cháu.'
Một đứa nhỏ, Tommy, đang dự lễ cưới đầu tiên của mình. Ai đó hỏi - một vị khách - 'Tommy, cháu thích cưới ai và khi nào?'
Tommy nói, 'Không bao giờ. Cháu không muốn cưới.'
Người này ngạc nhiên và nói, 'Sao vậy?'
Nó nói, 'Cháu đã sống quá nhiều với những người có gia đình, và họ đều giả dối thế.' Và cả bố và mẹ nó đều có đó. 'Cháu không muốn cưới bởi vì cháu muốn là bản thân mình.'
Vợ sẽ không cho phép chồng là bản thân mình. Chồng sẽ không cho phép vợ là bản thân mình. Không ai cho phép bất kì ai được là bản thân mình, bởi vì điều này bị coi là nguy hiểm.
Phải trấn áp! Và điều này đã trấn áp xã hội: nếu điều đó là buồn bã, nó nhất định là như vậy, điều đó là tự nhiên. Người giả dối không thể sung sướng được. Nhiều nhất họ có thể buồn bã; nhiều nhất, tại đỉnh của họ, họ có thể buồn, thất vọng. Freud đã nói rằng với nhân loại không có khả năng nào, không hi vọng nào về phúc lạc cả. Và ông ấy cũng phải; cái cách nhân loại đang đi, nếu nó cứ đi theo cách đó, chỉ có buồn bã, thất vọng, trạng thái vô vọng là có thể. Chỉ mang người ta đi bằng cách nào đó, như một gánh nặng - không nhảy múa, không sôi sục năng lượng, không sinh động, ca hát, chẳng cái gì, không hoa - chỉ kéo lê lết.
Người giả dối chỉ thuộc loại đó. Nhưng khi những người giả dối này thấy quá chán chường, phát ngán với cái gọi là xã hội, họ đi tới thầy trong việc tìm kiếm chân lí. Tại đó nữa họ cũng lại thử những kĩ thuật cũ của mình, nhưng thế thì họ sẽ bỏ lỡ ở đó. Là giả dối với người giả dối thì được, bởi vì sẽ khó mà thực với họ. Nhưng khi bạn đang trong tìm kiếm chân lí, khi bạn tới thầy và niềm thôi thúc đã xảy ra cho bạn để biết thực tại là gì, bạn không được phép bắt chước. Nếu bạn bắt chước, bạn đã mang hình mẫu cũ, kiểu tồn tại cũ của bạn, và kiểu tồn tại đó sẽ trở thành rào chắn.
Trong tôn giáo không được phép bắt chước. Nhưng nhìn những người tôn giáo; bạn sẽ thấy nhà thờ, đền chùa, đền thờ hồi giáo, và bạn sẽ thấy ở đó những kẻ bắt chước vĩ đại. Điều đó có nghĩa là không tôn giáo nào còn lại cả - nhà thờ, đền chùa, đền thờ hồi giáo bây giờ đều là những nấm mồ chết. Với Jesus người ta phải là thực, nhưng với giáo hoàng của Vatican bạn phải là người bắt chước. Bây giờ Ki tô giáo của Vatican là một phần của xã hội.
Jesus chưa bao giờ là một phần của xã hội cả. Ông ấy vẫn còn là người lạ. Tất cả những người tôn giáo thật vẫn còn là những người lạ, họ là người ngoài. Khi họ chết, nhà thờ được dựng lên trên xác họ; nhà thờ đó là một phần của xã hội, nó do xã hội quản lí, nó do xã hội điều khiển.
Xã hội có nhiều phương cách tinh ranh. Nếu bạn thoát khỏi chợ bạn sẽ bị bắt vào nhà thờ, bởi vì nhà thờ chỉ là việc kéo dài của chợ. Chợ nuôi dưỡng cho nhà thờ, chợ kiểm soát nhà thờ, chợ thực sự là người chủ của nhà thờ. Và tu sĩ không đại diện cho điều thiêng liêng, ông ta đại diện cho chợ.
Tu sĩ đại diện cho kinh tế của xã hội. Và Marx là phải khi ông ấy nói rằng tôn giáo đã bị chơi trong tay các nhà tư bản, hay phong kiến, hay những người bóc lột và có quyền hành. Tôn giáo đã bị chơi giống như một công cụ của việc bóc lột. Và Marx là phải khi có liên quan tới tôn giáo của Vatican, hay có liên quan tới tôn giáo của Puri Shankaracharya, hay có liên quan tới tôn giáo của Mecca và Medina. Nhưng điều đó không đúng về Mohammed. Điều đó không đúng về Shankaracharya nguyên bản, điều đó không đúng về Jesus. Ông ấy sai - bởi vì họ tồn tại không như một phần của xã hội, họ tồn tại trong nơi hoang dã, họ tồn tại như người lạ, họ tồn tại ngược với xã hội và việc bắt chước. Họ tồn tại như những sứ giả thiêng liêng. đó là ý nghĩa của avatar, đó là ý nghĩa của con của Thượng đế, đó là ý nghĩa của nhà tiên tri, paigamber - họ tồn tại như những sứ giả của cõi bên kia.
Nhớ hai điều này, thế rồi chúng ta sẽ đi vào câu chuyện này.
Mamiya về sau trở thành một thầy giáo nổi tiếng...
Và nhớ lấy, chỉ người đã là đệ tử thực mới có thể trở thành thầy giáo. người chưa bao giờ là đệ tử, người chưa bao giờ biết tới tính chất đệ tử là gì, người chưa bao giờ là người học, không bao giờ có thể là thầy giáo được. Trước khi bạn có thể dạy bạn phải học. Nhưng mọi người đều muốn là thầy giáo mà không là người học, bản ngã bạn muốn là thầy và không là đệ tử - thế thì bạn sẽ trở thành thầy giả. Và thế thì không chỉ bạn bị nguy hiểm, bạn sẽ dẫn nhiều người khác vào nguy hiểm. Người mù dẫn người mù khác - họ nhất định ngã xuống rãnh.
Nhớ điều này, bởi vì bản ngã muốn dạy. Đưa ra lời khuyên, dạy dỗ là tuyệt vời thế cho bản ngã. Đôi khi bắt giữ bản ngã này trong bạn đi, bởi vì bạn cũng đang làm điều đó. Bạn không thể bỏ mất cơ hội để dạy. Bạn đã bỏ mất hàng nghìn cơ hội để học, nhưng bạn không thể bỏ mất mộ tcơ hội... Ai đó đang nói, bạn sẽ chõ mũi vào. Ai đó đang hỏi một câu hỏi - bạn không biết câu hỏi này nghĩa là gì, bạn không biết câu trả lời là gì, nhưng bạn sẽ cho câu trả lời, bởi vì bản ngã cảm thấy rất khoái khi bạn tỏ ra có hiểu biết. Bạn biết, còn người khác dốt nát; đó là lí do tại sao có nhi ều hấp dẫn thế trong việc trở thành thầy giáo. Dạy - thế thì bạn là người biết, còn người khác trở thành người dốt nát.
Đây là thủ đoạn cũ: bạn có của cải còn người khác nghèo; bạn có địa vị còn người khác không là ai cả; bạn là người biết còn người khác là kẻ dốt nát. Bất kì khi nào bạn cảm thấy rằng người khác đã bị ném sâu xuống dưới, bạn đều ở trên đỉnh. Đây là khai thác: đó là lí do tại sao lại có biết bao nhiêu thầy giáo trên thế giới nhưng rất ít thầy thực sự. Nhưng điều này bao giờ cũng sẽ là vậy, điều này bao giờ cũng đã là vậy.
Khi Mahavira được sinh ra... ông ấy đã là thầy thực, và người Jaina ở Ấn Độ đang chờ đợi một tirthankara đã nhiều, nhiều năm rồi. Người thứ hai mươi tư sắp tới, người ta đã chờ đợi người thứ hai mươi tư này. Người Jaina có toán học nói rằng trong mọi kapla - một kì sáng tạo - hai mươi tư bậc thầy vĩ đại được sinh ra. Cho nên hai mươi ba người đã được sinh ra rồi và người thứ hai mươi tư đang được chờ đợi. Có rất nhiều mong đợi người thứ hai mươi tư, nhưng làm sao biết được ai là người thứ hai mươi tư? Khi Mahavira tới, ông ấy đã là người thứ hai mươi tư, nhưng tám người khác cũng công bố rằng họ là thật - và tám người khác này đã đưa nhiều người đi lạc lối.
Họ đều là những thầy giáo lớn, nhưng không phải là thầy. Họ có thể nói, họ có thể thuyết giảng; họ đều giỏi biện luận, là những người tranh luận, và họ đã ảnh hưởng tới nhiều người - bởi vì bạn bị ảnh hưởng bởi biện luận. Bạn không bị ảnh hưởng bởi hiện hữu, bởi vì để thấy hiện hữu bạn phải nâng tâm thức mình lên ngày một cao hơn. Chỉ thế thì bạn mới có thể thấy các đỉnh. Nếu bạn tồn tại trong thung lũng, làm sao bạn có thể thấy đỉnh được? Bạn phải nâng bản thân mình lên cao hơn.
Nhìn ra Mahavira là khó; nhưng đã có Goshalak, đã có Prabuddha Katyayan, đã có Poorn Kashyap và đã có những người khác. Họ đều là người bình thường, nhưng là những tâm trí phi thường. Bình thường theo nghĩa là họ không có tâm thức tiến hoá, họ đã không chứng ngộ. Nhưng họ đều là những học giả lớn, còn lớn hơn cả Mahavira, họ đều là những người thuyết phục lớn - họ có thể làm cho bất kì ai im lặng - những người chặt logic, chẻ sợi tóc. Và khi họ công bố, nhiều người nghe họ, còn Mahavira thì vẫn hoàn toàn im lặng trong mươi hai năm.
Ai sẽ đi với ông ấy? Ông ấy bị đuổi ra khỏi mọi làng. Bất kì nơi đâu ông ấy tới, mọi người sẽ xua đuổi ông ấy, bởi vì ông ấy im lặng - một điều - và bạn bao giờ cũng nghi ngờ người im lặng, người đó có thể là từ CID, từ FBI. Cho nên mọi làng đều nghi ngờ Mahavira vì con người này không nói, ông ấy thậm chí chẳng nhìn vào ai. Và ông ấy lại trần trụi! Điều đó tạo ra nhiều vấn đề hơn, bởi vì mọi người sẽ hỏi, 'Sao ông lại ở trần?' Và ông ấy vẫn còn im lặng. Cho nên hoặc ông ấy là kẻ tội phạm đang trốn tránh, hoặc là người điên nào đó ở trần, vì chỉ người điên mới ở trần. Sao ông ấy lại phải ở trần? Phải là ai đó vô đạo đức, bởi vì đi trần truồng trong xã hội là điều vô đạo đức nhất.
Và thế rồi lại không trả lời! 'Hoặc ông ta là thằng ngu, không thể trả lời được, hoặc ông ta đáng ngờ - có thể ông ta là gián điệp cho nước ngoài nào đó,' hay cái gì đó này khác. Họ sẽ xua đuổi ông ấy ra khỏi thị trấn; ông ấy bị xua đuổi trong mười hai năm. Và chúng ta nói mọi người đang chờ đợi ông ấy.
Nhưng chỉ đợi thôi là không đủ. Bạn cần mắt để thấy. Người Do Thái đã đợi Jesus trong hàng nghìn năm. Họ vẫn còn đợi, và Jesus đã xảy ra. Phải làm gì với tâm trí con người đây? Người Do Thái vẫn còn đợi đấng cứu thế tới, và ông ấy đã tới. Hai mươi thế kỉ đã trôi qua. Ông ấy đã tới với họ, ông ấy đã gõ vào cánh cửa của họ, họ đã từ chối tin ông ấy - bởi vì ông ấy đã không nói theo cách họ trông đợi. Và làm sao sứ giả của điều thiêng liêng nói theo cách bạn trông đợi được? Người đó không phải là một phần của bạn, người đó tới từ cõi bên kia, người đó không thể nói ngôn ngữ của bạn được. Bất kì điều gì người đó nói đều sẽ mang tính huỷ diệt bạn, người đó sẽ phá huỷ bạn. Như bạn hiện hữu, bạn phải bị phá huỷ, chỉ thế thì cái mới mới được sinh ra. Nhưng người Do Thái đã từ chối tin tưởng và họ vẫn cứ chờ đợi.
Và biết rõ vào: nếu ông ấy thu lấy can đảm... tôi cho rằng Jesus không định thu lấy can đảm lần nữa đâu, bởi cách bạn đã đối xử với ông ấy - thế là đủ rồi! Nếu ông ấy thu lấy can đảm lần nữa, nếu ông ấy quên điều đã xảy ra hai mươi thế kỉ trước đây, cách bạn đã đóng đinh ông ấy, cách bạn đã lăng mạ ông ấy, cách bạn đã xử tệ với ông ấy; nếu ông ấy quên điều đó đi và tới lần nữa và gõ cửa nhà người Do Thái - người vẫn đã đợi - họ sẽ từ chối ông ấy lần nữa.
Họ có thể chấp nhận người bình thường với tâm trí phi thường, nhưng họ không thể chấp nhận người với trạng thái bản thể phi thường. Bởi vì để thấy bản thể đó, bạn phải tự biến đổi bản thân mình. Như bạn hiện thế bạn không thể nào thấy được, như bạn hiện hữu, bạn không thể nào hiểu được Jesus.
Nhớ rõ, rằng bản ngã sẽ muốn trở thành đấng cứu thế, bạn ngã sẽ muốn trở thành tirthankara, bản ngã sẽ muốn tuyên bố điều gì đó không có đó. Bản ngã là kẻ tuyên bố to lớn nhất; nó chẳng sở hữu gì, nhưng nó tuyên bố - cứ tuyên bố. Có nhiều thầy giáo đấy - tỉnh táo đi, bằng không bạn có thể trở thành nạn nhân.
Nhớ cho rõ: đừng cho bất kì ai bất kì lời khuyên nào chừng nào bạn còn chưa học, chừng nào bạn còn chưa trải qua tiến trình mang tính đệ tử. Và có tính đệ tử là khó, bởi vì bạn phải buông xuôi. Bạn phải vứt bỏ bản ngã của mình, bạn phải trở thành vô ngã. Và đây là điều ngược đời: chừng nào bạn chưa trở thành vô ngã, bạn sẽ chẳng bao giờ trở thành cái ta. Cái giả phải bị vứt bỏ, chỉ thế thì cái thực mới nảy sinh. Đồng tiền giả phải bị vứt đi, chỉ thế thì việc tìm kiếm mới bắt đầu cho cái thực và cái đích thực.
Mamiya về sau trở thành một thầy giáo nổi tiếng, nhưng trong khi anh ta còn học theo thầy, anh ta đã được thầy yêu cầu giải thích về tiếng vỗ tay của một bàn tay.
Anh ta về sau đã trở thành một thầy giáo lớn, nhưng anh ta phải trải qua tính đệ tử dưới một thầy. Và anh ta được trao cho một vấn đề để giải thích.
Một trong những công án thiền nổi tiếng nhất là, 'Tìm xem tiếng vỗ tay của một bàn tay là gì.' Ngay lập tức tâm trí sẽ nói, 'Vô dụng! Việc tìm kiếm là vô dụng, vô tích sự, bởi vì làm sao một bàn tay có thể vỗ được? Việc vỗ tay bao giờ cũng cần bàn tay kia. Làm sao âm thanh lại có thể có với một bàn tay vỗ ? - bởi vì âm thanh được tạo ra bởi hai vật chạm nhau. Mọi âm thanh đều được tạo ra bởi hai vật chạm nhau, cho nên một bàn tay làm sao được?' Cho nên nếu bạn là nhà logic giỏi, bạn ngay lập tức sẽ rời xa khỏi bậc thầy này bởi vì ông ấy đang nói điều vô nghĩa. Điều đó không phải là điều có thể, và bất kì điều gì bạn làm, bạn sẽ chẳng bao giờ thành công - đây là logic đơn giản, lí luận đơn giản. Nhưng bạn bỏ lỡ vấn đề. Đấy mới là vấn đề!
Nhiều lần trong các kiếp sống của mình bạn đã rời khỏi thầy bởi vì thầy đòi hỏi cái gì đó không thể được. Nhưng thầy bao giờ cũng sẽ đòi hỏi điều không thể được; chỉ thế thì bạn mới có thể thay đổi. Với điều có thể bạn sẽ vẫn còn như cũ. Bất kì điều gì tâm trí bạn nghĩ là có thể được, đều ở bên trong nó. Bất kì điều gì tâm trí bạn nói là không thể được, đều ở bên ngoài nó. Thử điều không thể được đi. Tôn giáo là nỗ lực để đạt tới cái không thể được. Tôn giáo là nỗ lực để làm xảy ra điều không thể xảy ra được.
...anh ta đã được thầy yêu cầu giải thích về tiếng vỗ tay của một bàn tay.
Nếu anh ta là con người của tranh cãi, anh ta sẽ đi ngay lập tức. Nhưng Mamiya vẫn còn lại với thầy, vẫn biết rõ rằng điều này là không thể được. 'Nhưng khi thầy nói điều đó, phải có cái gì trong đó. Nó có thể là điều không thể được, nó có thể có vẻ ngớ ngẩn với mình, nhưng khi thầy đòi hỏi về điều đó, phải có cái gì đó mà mình không thể thấy được bây giờ.' Đây là niềm tin. Đây là tin cậy.
Nếu bạn nói, 'Tôi không thể thấy được. Chừng nào thầy chưa giải thích điều đó cho tôi trước, tôi sẽ không định làm nỗ lực nào cả...' thầy không thể giải thích điều đó cho bạn được, bởi vì chẳng có gì mà giải thích cả, việc giải thích không có đó. Chỉ thay đổi tâm thức của bạn mới cho bạn con mắt mà với nó bạn có khả năng biết và cười cùng thầy; thế nữa cũng sẽ không có giải thích.
Thầy đòi hỏi điều không thể được bởi vì thầy đòi hỏi tin cậy. Nếu thầy đòi hỏi điều có thể được - chẳng cần tới tin cậy. Bạn có thể suy luận ra nó, bạn có thể hình dung ra nó; thế bạn tin cậy vào tâm trí của mình khi bạn đã hình dung ra nó. Nhưng khi bạn không thể hình dung ra nó được, khi tâm trí bạn cảm thấy không có khả năng làm bất kì điều gì về nó, đơn giản từ chối làm bất kì cái gì và bạn vẫn còn lại, đây là tin cậy. Mamiya còn lại - anh ta tin cậy vào thầy.
Mặc dầu Mamiya đã làm việc cần mẫn về điều này...và anh ta đã bắt đầu làm việc
Chỉ có hai khả năng: hoặc là bạn từ chối thầy hoặc bạn từ chối tâm trí mình. Tranh đấu không phải giữa bạn và thầy, tranh đấu là giữa tâm trí bạn và thầy. Khi tâm trí bị thua, không có rào chắn giữa bạn và thầy - các bạn trở thành một.
Đệ tử trở thành thầy, thầy trở thành đệ tử, tất cả mọi rào chắn đều bị phá vỡ. Rào chắn là tâm trí, và tâm trí sẽ nói điều này điều nọ và sẽ cố gắng... 'Thầy này điên rồi: ông ta đang hỏi điều gì đó không thể nào được - không ai có thể làm được điều đó. Thôi đừng phí thời gian làm gì. Tìm ai đó có lí.'
Nhưng Mamiya đã cố gắng, anh ta đã làm việc cần mẫn về điều đó. Anh ta đã từ chối tâm trí - từ chối tâm trí là tin cậy. Và tâm trí là có lí, cho nên tin cậy là vô lí.
Một hôm thầy đã nói với anh ta, 'Ông vẫn chưa làm việc đủ cần mẫn.
Và anh ta đã làm việc cần mẫn. Nhưng thầy là điều không thể được, bạn không bao giờ có thể thoả mãn được họ. Họ sẽ cứ nện búa vào bạn, ngày càng mạnh hơn - bởi vì bạn không biết bạn có thể làm nhiều bao nhiêu. Bạn không biết gì về mình cả.
Khi bạn nói, 'Tôi làm việc cần mẫn,' thầy biết rằng chỉ một phần của bạn đang hoạt động. Các nhà tâm lí nói rằng ngay cả người rất tài năng, ngay cả thiên tài, cũng chưa bao giờ dùng quá mười lăm phần trăm năng lượng của mình; ngay cả một Einstein cũng chưa bao giờ dùng quá mười lăm phần trăm năng lượng của mình. Nói gì tới người thường? Họ dùng quãng ba phần trăm, năm phần trăm là nhiều nhất. Chín mươi lăm phần trăm năng lượng sống của bạn đơn giản bị phí hoài. Cho nên khi bạn nói, 'Tôi làm việc cần mẫn,' bạn không biết mình đang nói gì. Một mảnh mà bạn đang dùng có thể làm việc cần mẫn, nhưng đây chỉ là một phần mười, chín phần mười kia đang ngủ. Thầy muốn bạn toàn bộ trong nó, bởi vì khi bạn là toàn bộ... chỉ thế mới có biến chuyển.
'Ông vẫn chưa làm việc đủ cần mẫn. Ông còn quá gắn bó với thức ăn, của cải, mọi thứ - và tiếng vỗ tay đó. Ông chết đi là tốt hơn cả.'
Thầy này ngụ ý điều gì? Đây là những gắn bó thông thường của thế giới. Thức ăn là một sự gắn bó, và nó trở thành ngày một gắn bó hơn khi ai đó từ bỏ dục.
Trong đạo tràng, trong các am thất Phật giáo, bạn từ bỏ dục, bạn sống cuộc sống của người độc thân. Khi bạn từ bỏ dục, toàn bộ năng lượng của bạn trở nên ngày một gắn bó hơn với thức ăn. Đây là vấn đề cần được hiểu, bởi vì dục và thức ăn là hai điều sâu sắc nhất trong bạn.
Nếu bạn tham dự quá nhiều vào dục, bạn sẽ không bận tâm nhiều tới thức ăn. Nhưng nếu bạn không theo dục, thế toàn bộ năng lượng bắt đầu tuôn chảy hướng tới thức ăn. Do đó, tất cả các sadhu của bạn - những người đã từ bỏ dục - bao giờ cũng theo thức ăn. Nhìn các sadhu Hindu, các sannyasin Hindu với cái bụng lớn. Điều gì đã xảy ra? Tại sao các sannyasin Hindu này lại có bụng lớn? Họ cứ ăn và ăn và ăn mãi - nhưng đây là hiện tượng tự nhiên; người ta phải hiểu tại sao điều này xảy ra. Họ đã từ bỏ dục, cho nên năng lượng mà đã đi tới dục, bây giờ nó có thể đi đâu?
Và thức ăn và dục là cơ sở. Thức ăn còn cơ sở hơn dục, vì bạn có thể sống mà không có dục nhưng bạn không thể sống mà không có thức ăn. Sống không có dục không phải là vấn đề chút nào. Và thực sự, những người đã sống với dục sẽ thấy rằng dễ sống không dục hơn, bởi vì người khác tham dự vào, và thế người khác cũng tạo ra vấn đề. Bạn đã đủ gây vấn đề cho chính mình, và người khác lại tạo thêm ra nữa. Và khi hai người sống trong cuộc sống dục, không phải là vấn đề được gấp đôi - không, chúng được nhân lên nhiều lần. Không phải chỉ là phép cộng đơn giản, nó là phép nhân.
Cho nên những người đã sống với dục đều biết rõ rằng dục tạo ra nhiều vấn đề hơn là nó giải quyết. Nhưng vào lúc bạn biết, bạn đã vào quá nhiều trong nó mà không thể thoát ra được. Đây là vấn đề: kinh nghiệm tới qua kinh nghiệm - nhưng thế thì nó vô dụng, bởi vì bạn đã trong nó. Và nếu bạn nói điều này cho ai đó, người vẫn còn ở ngoài nó, người đó sẽ không nghe bởi vì người đó sẽ nói rằng rất khó ở một mình, cần ai đó khác để chia sẻ. Người đó không biết điều sẽ xảy ra khi người đó bắt đầu chia sẻ. Bởi vì thế bạn sẽ bắt đầu chia sẻ các vấn đề - chẳng có gì khác hơn mà chia sẻ cả.
Thức ăn còn cơ sở hơn dục. Thức ăn được cần tới từ khoảnh khắc đầu tiên khi đứa trẻ được sinh ra - không phải dục. Đứa trẻ có thể sống mười bốn năm không có dục nào. Nhưng vào ngày đầu tiên, khoảnh khắc đầu tiên, tiếng khóc đầu tiên tới là vì thức ăn, vì thức ăn là cơ sở cho sự tồn tại sinh học của bạn. Dục không phải là cơ sở của sự tồn tại sinh học của bạn, dục là cơ sở của sự tồn tại sinh học của xã hội - không phải bạn. Không có dục xã hội sẽ biến mất; bạn có thể sống, nhưng không có dục bạn không thể sinh sản, trẻ con sẽ không được sinh ra, xã hội sẽ biến mất.
Nếu tất cả mọi người đều trở thành brahmacharis, vô dục, vốn là điều không thể được, thế thì sẽ có thế giới an bình, an bình thực sự, bởi vì sẽ không ai còn lại cả. Nó sẽ là việc tự tử toàn cầu. Nhưng bạn có thể tồn tại mà không có dục, điều đó không thành vấn đề gì mấy.
Cho nên bất kì khi nào năng lượng của bạn đang chuyển tới dục bị dừng lại, cùng năng lượng đó bắt đầu chuyển tới thức ăn. Đây là những điều cơ sở. Sannyasin Hindu hay người khác, họ cứ ăn quá nhiều. Cho nên trong mọi kinh sách - Jaina, Phật giáo, Hindu giáo - họ đã tạo ra qui tắc cho các sannyasin không được ăn quá nhiều. Tại sao? - bởi vì họ đã dừng dục lại, bây giờ họ biết rằng họ sẽ ăn quá nhiều. Cho nên nhiều qui tắc đã được tạo ra để bảo vệ cho các sannyasin, bằng không người đó sẽ trở thành kẻ nghiện thức ăn, người đó sẽ phát điên - cứ ăn, ăn và ăn mãi.
Việc ăn có thể cho bạn khoái cảm dục, bởi vì trung tâm dục và mồm cả hai đều được gắn với nhau. Đó là lí do tại sao hôn lại là điều mang tính dục thế. Bằng không tại sao... ? Và nếu bạn hôn ai đó một cách đam mê, ngay lập tức bạn sẽ cảm thấy năng lượng dục trỗi dậy. Tại sao? ... Bởi vì mồm và dục xa nhau thế! Chúng không xa nhau đâu, chúng được nối với nhau; chúng là hai cực của một năng lượng.
Cho nên bất kì khi nào bạn bắt đầu bỏ đói cực dục, toàn bộ năng lượng đi lên mồm, cho nên bạn sẽ phải ăn nhiều hơn, nhai kẹo cao su, trầu hay cái gì đó. Hay, nếu không có gì khác, bạn sẽ phải nói liên tục, bởi vì bằng việc nói mồm chuyển động. Đó là lí do tại sao người ta cứ nói liên tục cả ngày. Thậm chí ngày cũng không đủ; nếu bạn ngồi cạnh họ trong đêm bạn sẽ thấy họ đang nói.
Mulla Nasruddin tới bác sĩ và nói, 'Bác sĩ hãy làm điều gì đi! Tôi sắp thần kinh mất. Vợ tôi nói quá nhiều trong đêm.'
Thế là bác sĩ nói, 'Vợ anh đâu? Đưa cô ấy lại đi, tôi sẽ làm điều gì đó.'
Mulla Nasruddin nói, 'Bác sĩ không hiểu tôi. Chẳng có gì cần làm với cô ấy cả. Hãy làm cái gì đó cho tôi đi, để tôi có thể vẫn còn thức, điều đó hay thế. Tôi chìm vào giấc ngủ... còn cô ấy lại đang nói, và điều đó hay thế. Cô ấy nói những điều tuyệt vời thế và làm lộ ra những điều đẹp đẽ thế; cô ấy chưa bao giờ nói theo cách khi cô ấy thức. Khi cô ấy thức cô ấy nói toàn điều rác rưởi. Cho nên cho tôi cái gì đó để cho tôi có thể vẫn còn tỉnh táo và lắng nghe.'
Nếu bạn ngắm nhìn mọi người, cả đêm họ nói - liên tục. Mồm họ cử động, họ đang tạo ra âm thanh và làm đủ mọi thứ. Nếu cực năng lượng này bị dừng lại, thế thì cực kia bắt đầu, bởi vì năng lượng phải được cho thoát ra bằng cách nào đó. Bạn không thể chứa đựng nó. Cũng giống như nếu bạn ăn vào và dừng đi ngoài - điều gì sẽ xảy ra? Bạn sẽ phải nôn ra, không có cách nào khác, bởi vì nếu bạn ăn vào mọi thứ phải được tống ra. Nếu bạn ăn, năng lượng dục được tạo ra, thế nó phải được tống ra. Nếu bạn không dùng dục như lối xả ra, lối xả ra khác nào đó phải được tìm thấy.
Mamiya này phải đã trở thành bị nghiện quá nhiều với thức ăn. Thầy nói: 'Ông còn quá gắn bó với thức ăn, của cải, mọi thứ - và tiếng vỗ tay đó.'
Khi con người bị uốn theo hình mẫu, khi con người bị huấn luyện theo gắn bó, người đó có thể bỏ thế giới này, nhưng điều đó không tạo ra khác biệt gì. Người đó có thể bỏ mọi thứ nhưng gắn bó vẫn còn, nó bắt đầu làm việc theo những chiều hướng mới. Bạn có thể bỏ lâu đài: thế thì bạn chẳng có gì ngoài ba bộ áo choàng, nhưng bạn trở nên bị gắn bó với ba cái áo choàng ấy. Toàn bộ gắn bó, toàn bộ năng lượng đã được gắn với lâu đài này, bây giờ được gắn vào ba cái áo choàng ấy. Điều đó chẳng khác biệt gì. Bạn có thể cứ bỏ mọi thứ, nhưng gắn bó vẫn còn như cũ.
Mamiya này đã tới đạo tràng, anh ta đã bỏ cuộc sống của mình, anh ta là sư Phật giáo; bây giờ không có gì cả. Sư Phật giáo không được phép có nhiều thứ; một bình bát đựng thức ăn, nước, ba bộ áo choàng, một cái màn ngủ - có vậy thôi, không gì nhiều để bận tâm tới. Người đó có thể đặt mọi thứ lên lưng mình và đi, bởi vì sư Phật giáo phải là người lang thang và người đó phải mang mọi thứ theo mình. Không ai khác có thể mang những thứ đó hộ người đó: Phật đã làm ra qui tắc để cho bạn không thu nhặt mọi thứ. Nếu ai đó khác được phép mang chúng thế thì bạn có thể cứ thu thập mọi thứ.
Rất ít thứ - nhưng là gắn bó! Thầy nói, 'Ông còn quá gắn bó với thức ăn, của cải... ' Anh ta bây giờ không có của cải, nhưng gắn bó có thể vẫn còn mà không có của cải. Bởi vì vấn đề không phải là những vật khách quan, đó là vấn đề cảm giác chủ quan... và tiếng vỗ tay đó - và điều đó nữa cũng trở thành vấn đề. Nếu bạn quá gắn bó với thiền, thiền trở thành thế giới của bạn. Nếu bạn quá gắn bó với lời cầu nguyện của mình, lời cầu nguyện trở thành rào chắn.
Có một giai thoại hay trong tài liệu về Hassid. Hassid là một trong những người tuyệt vời nhất trên thế giới - người nổi dậy Do Thái. Họ có một truyền thống, một truyền thống có giá trị, và truyền thống đó là ở chỗ bất kì cái gì tâm trí bạn đòi hỏi, đừng cho tâm trí cái đó - đợi đã. Nếu bạn muốn cho, chỉ cho khi thôi thúc đã bỏ đi. Nếu tâm trí nói, 'Mình đang đói đây,' đừng cho thức ăn - đợi đã. Khi thôi thúc đã rời đi, cho thức ăn; nhưng đừng cho nó khi tâm trí đòi hỏi, đừng đi theo tâm trí, bạn vẫn còn là người chủ.
Có lần chuyện xảy ra: một trong các đệ tử của Baal Shem bị ốm, sắp chết. Và khi một người sắp chết người ta phải cầu nguyện, lời cầu nguyện cuối cùng trước khi người ta rời bỏ thân thể; lời tạ ơn và cầu nguyện cuối cùng. Người đó đang trên giường chết, trở mình, nhiều rắc rối. Cho nên Baal Shem hỏi - ông ấy đã tới để gặp người đó và nói lời vĩnh biệt - ông ấy nói, 'Còn vấn đề gì nữa không?'
Người đó nói, 'Dạ có, bởi vì tâm trí nói, 'Cầu nguyện đi,' và tôi không thể làm được điều đó chừng nào thôi thúc còn chưa ra đi. Khi thôi thúc đã bỏ đi tôi sẽ cầu nguyện, nhưng tôi không biết liệu tôi còn sống hay chết. Cho nên tôi đang đổi vị trí của mình để cho tôi có thể vẫn còn sống và thôi thúc ra đi.'
Baal Shem nói với các đệ tử khác đang tụ tập quanh đó, 'Trông đấy! Con người này biết lời cầu nguyện là gì.'
Nếu gắn bó có đó và bạn đang cầu nguyện, lời cầu nguyện đã trở thành của thế giới này, bởi vì gắn bó làm thay đổi mọi thứ thành vật chất. Ngay cả lời cầu nguyện cũng là tội lỗi khi bạn làm nó cứ như sự gắn bó. Khi bạn cầu nguyện, không như gắn bó, không như thôi thúc tâm trí, chỉ thế thì lời cầu nguyện mới thành công.
Cho nên thầy nói, 'Và âm thanh đó cũng đã trở thành gắn bó. Ông liên tục nghĩ cách giải nó. Đừng bị gắn bó. Giải nó, được, nhưng đừng bị gắn bó. Đừng trở nên điên khùng. Làm việc cần mẫn, nhưng đừng trở nên điên - Con chết đi là tốt hơn cả.'
Nhưng Mamiya đã hiểu lầm, vì bình thường mọi đệ tử đều hiểu lầm. Thầy nói: 'Ông chết đi là tốt hơn cả.' Thầy nói với ai, 'Ông chết đi là tốt hơn cả '? Đấy là tâm trí, không phải là Mamiya, bởi vì Mamiya không thể chết được, Mamiya là bất tử. Chính tâm trí, bản ngã, cái đang cố gắng giải vấn đề này mà vốn dĩ không thể nào được giải bằng tâm trí.
Vấn đề sẽ được giải chỉ khi tâm trí chết, khi tâm trí đã làm mọi điều mà nó có thể làm và rồi bất lực và nói, 'Không còn gì có thể được nữa, mình nghỉ thôi.' Khi tâm trí nghỉ và bạn được bỏ lại một mình lần đầu tiên không có tâm trí - tâm thức có đó, việc chứng kiến có đó, nhưng việc suy nghĩ không có đó - vấn đề được giải quyết, bạn đã nghe thấy tiếng vỗ tay của một bàn tay.
Có một âm thanh, người Hindu đã gọi nó là omkar, aum - đây là âm thanh đó. Nếu bạn hoàn toàn im lặng bạn sẽ nghe thấy nó. Và nó không được tạo ra bởi bất kì sự va chạm nào của hai vật. Nó không được tạo ra bởi việc vỗ hai bàn tay, nó không qua xung đột. Nó là âm nhạc vũ trụ, nó là chính âm thanh của sự tồn tại. Nó không được tạo ra, nó có đó.
Người Hindu nói điều ngược lại: bởi vì âm thanh này mà vũ trụ được tạo ra. Vũ trụ này chỉ là biến đổi của âm thanh đó, cái vô thuỷ, vô chung... cơ sở của tất cả . Và cùng điều đó là kinh nghiệm của Phật tử, người Jaina giáo, người Sufi giáo, người Hassid giáo, tất cả những người đã biết, kinh nghiệm này là một; rằng có một âm thanh, một giai điệu - liên tục. Nếu bạn trở nên im lặng và tâm trí không có đó, bạn sẽ nghe thấy nó lần đầu tiên. Nó ở mọi nơi. Nó là chính cốt lõi của sự tồn tại. Và toàn thể sự tồn tại này chỉ là biến đổi của âm thanh đó.
Những nhà huyền môn này đã nói rằng thậm chí vật chất cũng không là gì ngoài omkar cô đặc, tảng đá không là gì ngoài aum cô đặc. Cũng như các nhà khoa học ngày nay nói rằng vật chất không là gì ngoài điện cô đặc, chỉ là rung động điện, các nhà huyền môn đã nói rằng vật chất không là gì ngoài âm thanh cô đặc, chỉ là rung động của âm thanh.
Bây giờ có khả năng tạo ra cây cầu giữa khoa học và những nhà huyền môn này. Nếu bạn hỏi các nhà khoa học, họ nói âm thanh không là gì ngoài rung động của điện. Nếu bạn hỏi các nhà huyền môn, họ nói điện không là gì ngoài những rung động của âm thanh. Đó là lí do tại sao người Hindu đã có những câu chuyện rằng qua âm nhạc bạn có thể tạo ra lửa; một sóng âm đặc biệt và lửa có thể được tạo ra - và bây giờ nó cũng là một chân lí khoa học nữa.
Liên tục tạo ra một âm thanh đặc biệt có thể làm sinh ra nhiều nhiệt - và tại đó, bạn có thể tự mình thử điều đó. Đêm lạnh, bạn đứng bên ngoài và chỉ làm omkar. Rung động aum bên trong bạn nhiều hết mức bạn có thể, làm cho từ ngón chân tới đầu bạn âm thanh aum đều rung động. Bỗng nhiên bạn sẽ cảm thấy cái lạnh đã biến mất, thân thể nóng lên. Và nếu bạn tiếp tục điều đó, chẳng mấy chốc, trong chính, chính đêm lạnh đó, đêm cóng đó, bạn sẽ bắt đầu vã mồ hôi. Đó là cách Mahavira đã sống trần trụi. Đó là cách ở Tây Tạng, nơi cái lạnh dưới không độ, các sư Phật giáo đã sống trần. Họ ngồi cả đêm dưới bầu trời, tuyết rơi, và họ vã mồ hôi. Họ tạo ra một âm thanh đặc biệt.
Nhưng âm thanh đó cũng không là omkar mà bạn tạo ra, bởi vì điều đó được tạo ra; điều đó, lần nữa, lại là tiếng vỗ tay của hai bàn tay. Có âm thanh không được tạo ra, hay, chính việc sáng tạo đang bắt nguồn từ âm thanh đó. Đó là lí do tại sao aum đã trở thành biểu tượng vũ trụ của thực tại tối thượng. Aum không phải là một từ, nó là một biểu tượng âm thanh. Mọi thứ đều được cô đặc trong nó, hay mọi thứ được biểu lộ qua nó.
Thầy của Mamiya nói, 'Ông chết đi là tốt hơn cả, còn hơn là bị gắn bó với thức ăn, của cải, mọi thứ... và âm thanh đó. Ông chết đi là tốt hơn cả.' Mamiya đã hiểu lầm điều đó.
Anh ta nghĩ đây có lẽ là một kĩ thuật. Anh ta nghĩ, 'Vậy mình có thể thao túng cái chết, vậy mình sẽ chết.' Nhưng làm sao bạn thao túng được cái chết? Nếu tâm trí là kẻ thao túng, bạn sống. Bạn có thể bắt chước, nhưng bạn sẽ sống.
Ngay cả tự tử cũng không phải là tự tử; bởi vì bạn đã thao túng nó, bạn sẽ ở đâu đó. nhưng bạn không thể tự tử được, tự tử là không thể được. Bạn đi và bạn treo cổ mình - bạn đang làm điều đó, tâm trí có đó. Tâm trí sẽ đưa bạn tới một cuộc sống mới, tới một bụng mẹ mới. Bạn không thể tự tử được - chỉ có một cách tự tử đã được biết tới và đó là samadhi, nhưng thế thì tâm trí không phải là kẻ thao túng. Đó là lí do tại sao phật chết và đơn giản chết, và không bao giờ được sinh ra nữa. Đó là lí do tại sao chúng ta nói khi một người đạt tới samadhi, chứng ngộ cuối cùng, người đó không được sinh ra nữa. Bởi tâm trí đã qua rồi, ai có thể dẫn vào một ham muốn mới, ai có thể dẫn vào thúc đẩy mới, ai có thể dẫn vào thân thể mới? Tâm trí đã bị bỏ đi.
Chỉ có một cái chết và đó là cái chết của tâm trí. Nhưng tâm trí không thể làm được điều đó, bởi vì nếu bạn làm điều đó qua tâm trí, tâm trí vẫn còn là người làm và sống sót.
Lần sau Mamiya tới trước thầy, anh ta lại được thầy hỏi anh ta có gì để trình ra...
Bởi vì những câu hỏi này không phải là cái gì đó bạn có thể trả lời; bạn phải trình ra câu trả lời qua mắt bạn, qua chính sự hiện hữu của bạn, khuôn mặt bạn. Câu trả lời phải được chỉ ra qua bạn: bạn phải trở thành câu trả lời. Bạn không thể cho câu trả lời, bởi vì nếu bạn cho, tâm trí sẽ cho - bạn có thể là câu trả lời.
Cho nên ... anh ta lại được thầy hỏi anh ta có gì để trình ra về tiếng vỗ tay của một bàn tay. Mamiya lập tức ngã lăn ra dường như đã chết.
Anh ta bắt chước. Anh ta nghĩ: 'Thầy đã nói, 'Chết đi!' - tốt hơn cả là chết đi.' Cho nên anh ta đã nghĩ, điều này rất tốt, cho nên anh ta sụp xuống. Nhưng tâm trí lại đang làm việc; chính tâm trí đã kết luận hãy làm điều này
Nhìn lên Mamiya đáp, 'A, a, a... tôi vẫn chưa giải được câu hỏi đó.'
'Cái gì?' thầy gầm lên, 'Người chết không nói. Cút ngay!'
Chỉ tâm trí mới nói. Nếu Mamiya vẫn còn im lặng... Nhưng làm sao anh ta có thể còn im lặng được?... Bởi vì anh ta chỉ bắt chước, anh ta không thực sự im lặng. Bạn không thể lừa được thầy cho dù bạn chết. Bắt chước không thể lừa dối được.
'Ông chết khá lắm,' thầy nói, 'nhưng về tiếng vỗ tay đó sao?'
Nhìn lên Mamiya đáp, 'Ô, tôi vẫn chưa giải được câu hỏi đó.'
Điều này là tuyệt diệu, bởi vì thầy đang nói, 'Nếu ông chết, thế thì vấn đề được giải. Thế thì còn âm thanh đó sao? Ông phải đã nghe thấy nó.' Bởi vì khi tâm trí không hiện hữu, điều đó nhất định được nghe thấy. Không có khả năng nào là bạn đã không nghe thấy nó nếu tâm trí không có đó. Khi tâm trí không có đó, nó bao giờ cũng có đó. Chính bởi vì tâm trí, rối loạn của tâm trí mà bạn không thể nghe thấy nó được. Nó bao giờ cũng có đó, nhịp điệu này bao giờ cũng có đó. Nếu tâm trí nghỉ cho dù một khoảnh khắc nó vẫn có đó, bạn có thể biết nó - bạn không bao giờ bỏ lỡ được nó.
Cho nên thầy nói, 'Ông chết khá lắm,' thầy nói, 'nhưng về tiếng vỗ tay đó sao?'
Thầy nói, 'Người chết không thể nói được.'
Khi tâm trí biến mất và thầy hỏi, 'Về tiếng vỗ đó sao?' không câu trả lời nào tới cả. Toàn bộ sự hiện hữu là câu trả lời. Đệ tử vẫn còn im lặng, anh ta đang biểu lộ bản thân mình. Bây giờ không có nhu cầu, và thầy sẽ thấy... không câu trả lời nào thực sự là cần. Nếu bạn trả lời, mọi câu hỏi đều sai.
Điều đó đã xảy ra nhiều lần với cùng một công án này - tiếng vỗ tay của một bàn tay. Nó đã xảy ra với Rinzai; ông ấy đã được nêu cho cùng công án này để làm việc. Và thế rồi ông ấy đã làm việc và làm việc cần mẫn, còn thầy cứ thúc dục ông ấy, tiến tới đi. Rồi một ngày điều đó xảy ra - tâm trí biến mất, âm thanh này được nghe thấy.
Rinzai tới và thầy hỏi, 'Về tiếng vỗ đó sao?' Rinzai đánh thầy. Và thầy nói, 'Được rồi, vậy là ông đã nghe thấy!' - bởi vì câu hỏi này là ngu xuẩn! Và thầy nói, 'Ta đã chờ đợi lúc ông sẽ làm khuây khoả ta bởi việc đánh ông. Bây giờ ông có thể đánh ta. Bây giờ không còn rắc rối, bây giờ ta không cần đánh ông - kết thúc rồi! Bây giờ ông đi và dạy cho người khác về tiếng vỗ tay của một bàn tay.'
Không câu trả lời nào là cần cả; bạn phải biểu lộ qua hiện hữu của mình. Nhưng điều này chỉ có thể xảy ra khi tâm trí đã biến mất - không nước, không trăng.
Đủ cho hôm nay.
Nhận xét
Đăng nhận xét