Chương 09: Sụp đổ của kẻ ngốc

Yoga - Từ anpha tới ômêga
Yoga - The Alpha and the Omega
Osho 
Tập 03
 
Chương 09: Sụp đổ của kẻ ngốc


Trong trạng thái của nirvichara samadhi, đối thể được kinh nghiệm trong cảnh quan đầy đủ của nó, bởi vì trong trạng thái này, tri thức được thu trực tiếp, không dùng giác quan. Cảm nhận được thu trong nirvichara samadhi siêu việt lên trên mọi cảm nhận bình thường, cả về phạm vi và sự mãnh liệt. Khi việc kiểm soát này về các kiểm soát khác được siêu việt lên, samadhi không hạt mầm được đạt tới, và cùng với nó, tự do khỏi sống và chết.

Tri thức là gián tiếp, việc biết là trực tiếp. Tri thức là qua nhiều trung gian; nó không tin cậy. Việc biết là tức khắc, không qua trung gian nào. Chỉ việc biết mới có thể tin cậy.

Phân biệt này phải được ghi nhớ. Tri thức giống như sứ giả tới và nói cái gì đó cho bạn: sứ giả có thể đã hiểu lầm thông điệp; sứ giả có thể đã thêm cái gì đó của riêng mình vào trong thông điệp; sứ giả có thể đã bỏ đi cái gì đó khỏi thông điệp; sứ giả có thể đã quên cái gì đó từ thông điệp; sứ giả có thể đã thêm diễn giải riêng của người đó vào trong nó; hay sứ giả có thể đơn giản tinh ranh và lừa dối. Và bạn phải dựa vào sứ giả. Bạn không có cách tiếp cận trực tiếp nào tới nguồn của thông điệp - đây là tri thức.

Tri thức là không tin cậy, và không chỉ một sứ giả được tham gia vào tri thức, mà bốn. Con người ở sau nhiều cánh cửa đóng kín, bị cầm tù. Tri thức đầu tiên tới từ giác quan; thế rồi giác quan chuyển nó qua hệ thần kinh; nó lên tới não, và thế rồi não chuyển nó cho tâm trí; và thế rồi tâm trí chuyển nó cho bạn, cho tâm thức. Nó là quá trình bao la, và bạn không có cách tiếp cận trực tiếp nào tới nguồn của tri thức.

Chuyện xảy ra trong thế chiến hai: một người lính bị thương rất sâu ở ngón chân và cẳng chân, và ngón chân đang đau nặng. Đau nhiều tới mức người lính bị ngất đi. Bác sĩ giải phẫu quyết định cắt cả chân. Không thể cứu được nó đã bị hỏng thế, cho nên họ cắt nó đi. Người lính vẫn vô thức cho nên anh ta chẳng biết cái gì xảy ra.

Sáng hôm sau, khi người lính trở lại ý thức, anh ta lại kêu đau ở ngón chân. Bây giờ điều này là buồn cười: khi chân không còn tồn tại, ngón chân và cẳng chân đã hoàn toàn bị loại bỏ, làm sao đau có thể có trong ngón chân mà không tồn tại?

Y tá cười phá lên và cô ấy nói, “Anh đang tưởng tượng, hay anh trong ảo giác.” Cô ấy lật chăn lên và chỉ cho người lính rằng “Cả chân anh bị tháo ra rồi, cho nên không đau nào có thể tồn tại trong ngón chân được vì làm gì còn ngón chân.”

Nhưng người lính vẫn cứ khăng khăng. Anh ta nói, “Tôi có thể thấy rằng chân không có đó và tôi có thể hiểu quan điểm của các ông bà - và tôi lố bịch, nhưng tôi vẫn cứ nói đau lắm và không thể chịu nổi.”

Bác sĩ được mời tới; các nhà giải phẫu tư vấn lẫn nhau. Điều này là tuyệt đối ngớ ngẩn! Tâm trí đang giở thủ đoạn nào đó. Nhưng họ cố gắng hiểu điều đang xảy ra. Thế rồi toàn thân được chiếu tia X, và đây là điều họ đi tới: thần kinh đang mang thông điệp về đau ở ngón chân vẫn đang mang nó. Nó run rẩy theo cùng cách như nó phải run rẩy nếu có ngón chân và có đau ở đó.

Khi thần kinh đem thông điệp tới, tất nhiên não phải giải mã nó. Não không có cách nào để kiểm xem liệu thần kinh có mang thông điệp đúng, thông điệp sai, thực, không thực. Não không thể tới và kiểm tra thần kinh được. Não phải phụ thuộc vào thần kinh, và não giải mã nó cho tâm trí. Bây giờ tâm trí không có cách nào kiểm tra não cả - nó đơn giản tin vào điều đó - và tâm trí chuyển giao tri thức này cho tâm thức. Bây giờ tâm thức đang chịu đau vì ngón chân không tồn tại.

Đây là điều người Hindu gọi maya. “Thế giới không tồn tại,” người Hindu nói, “và ông đang chịu khổ khủng khiếp, khổ vì cái gì đó không tồn tại.” Đây là cách cơ chế của tri thức vận hành. Rất khó trong quá trình này để kiểm bất kì chỗ nào, trừ phi bạn có thể đi ra khỏi bản thân bạn. Tâm trí không thể làm điều đó được bởi vì tâm trí không thể tồn tại bên ngoài thân thể. Nó phải phụ thuộc vào não, nó được bắt rễ trong não. Não không thể làm được điều đó vì não được bắt rễ trong toàn thể hệ thần kinh; nó không thể đi ra được. Duy nhất tại một điểm tồn tại khả năng để kiểm tra, và đó là tại tâm thức.

Tâm thức không bị bắt rễ vào thân thể; thân thể chỉ là chỗ trú ngụ. Như bạn đi ra khỏi nhà và đi vào, tâm thức có thể đi ra khỏi nhà và đi vào. Duy nhất tâm thức có thể đi ra khỏi toàn thể cơ chế này và nhìn vào mọi sự, cái gì đang xảy ra.

Trong nirvichara samadhi điều này xảy ra - ý nghĩ dừng lại. Kết nối giữa tâm trí và tâm thức bị cắt đứt, bởi vì ý nghĩ là kết nối. Không có ý nghĩ bạn không có tâm trí nào, và khi bạn không có tâm trí nào kết nối với não bị phá vỡ. Và khi bạn không có tâm trí và kết nối với não bị phá vỡ, kết nối với hệ thống thần kinh bị phá vỡ. Tâm thức của bạn bây giờ có thể lưu thông ra và vào; mọi cửa đều mở. Trong nirvichara samadhi, khi ý nghĩ dừng lại, tâm thức tự do di chuyển và lưu thông. Nó trở thành như mây không gốc rễ nào, không nhà nào. Nó trở thành tự do với cái máy bạn đã sống cùng. Nó có thể đi ra, nó có thể đi vào; không có cản trở trên con đường của nó.

Bây giờ tri thức trực tiếp là có thể. Tri thức trực tiếp là việc biết. Bây giờ bạn có thể nhìn trực tiếp, không có bất kì sứ giả nào giữa bạn và nguồn tri thức. Nó là hiện tượng mênh mông khi tâm thức bạn đi ra và nhìn vào hoa. Bạn không thể hình dung được bởi vì nó không phải là một phần của tưởng tượng; bạn không thể tin được điều xảy ra! Khi tâm thức có thể nhìn thẳng vào hoa, lần đầu tiên hoa được biết - và không chỉ hoa, qua hoa toàn thể sự tồn tại. Trong một hòn đá cuội nhỏ, mọi thứ được ẩn kín; trong một chiếc lá nhỏ đang nhảy múa trong gió, cái toàn thể nhảy múa. Trong một đoá hoa nhỏ bên cạnh đường, cái toàn thể có nụ cười.

Khi bạn ra khỏi nhà tù giác quan, hệ thần kinh, não, tâm trí của bạn, hết tầng nọ tới tầng kia các bức tường, đột nhiên các cá nhân biến mất. Một năng lượng bao la trong hàng triệu dạng... và mọi dạng đều chỉ tới cái vô dạng, và mọi dạng đều tan chảy và hội nhập vào các dạng khác - một đại dương bao la của cái đẹp vô dạng, chân lí, tinh tuý. Người Hindu gọi nó là sat-chit-anand: cái đang hiện hữu, cái là đẹp, cái là tinh tuý, cái là phúc lạc. Đây là cảm nhận trực tiếp, aparokshanubhuti, việc biết trực tiếp.

Bằng không, mọi việc biết của bạn là gián tiếp, phụ thuộc vào sứ giả, điều không rất tin cậy, không thể được. Chính bản chất của họ là không tin cậy. Tại sao? Tay bạn chạm vào cái gì đó... bây giờ tay là một thứ vô ý thức. Từ chính lúc bắt đầu phần vô thức của bạn nhận thông điệp này. Thông minh được ẩn kín đằng sau, và trên cửa một kẻ ngốc đang ngồi và kẻ ngốc này nhận thông điệp. Kẻ ngốc là người tiếp tân. Tay không có ý thức, và tay chạm vào cái gì đó và nhận thông điệp. Bây giờ thông điệp đi qua thần kinh. Thần kinh không có ý thức, chúng không có thông minh nào - cho nên bây giờ thông điệp được trao từ kẻ ngốc này tới kẻ ngốc khác. Từ kẻ ngốc thứ nhất tới thứ hai, nhiều điều phải đã thay đổi.

Ngay chỗ đầu tiên, kẻ ngốc không thể là đúng một trăm phần trăm bởi vì kẻ đó không thể hiểu được; hiểu biết không có đó. Tay là đờ đẫn, rất đờ đẫn. Nó tiến hành công việc theo cách máy móc, như robot. Thông điệp được chuyển giao; nhiều thứ đã thay đổi. Thần kinh lấy nó đưa lên não và não giải mã nó. Và não cũng không thông minh nhiều gì mấy, bởi vì não là một phần của thân thể, nó là đầu kia của tay.

Nếu bạn biết cái gì đó về sinh lí, bạn phải biết rằng tay phải được nối với bán cầu não trái và tay trái được nối với bán cầu não phải. Hai tay bạn là hai đầu nhận của não. Chúng vận hành cho não; chúng là não kéo dài. Tay phải của bạn mang thông điệp cho não trái, tay trái của bạn mang thông điệp cho não phải. Não cũng không tỉnh táo; não cũng giống như máy tính - cái gì đó được nạp

vào cho nó, nó giải mã; nó là cái máy. Sớm hay muộn chúng ta sẽ có khả năng làm ra não nhựa, bởi vì chúng sẽ rẻ và chúng bền bỉ hơn và chúng sẽ tạo ra ít rắc rối hơn - và chúng có thể vận hành rất dễ dàng và các bộ phận có thể được thay đổi: bạn thậm chí có các bộ phận dự phòng luôn theo bạn.

Não là cái máy. Và bằng việc khám phá ra máy tính điều đã trở thành hoàn toàn rõ ràng là não là cái máy, nó không có thông minh trong nó. Thế thì não tích luỹ toàn thể thông tin, giải mã nó, trao thông tin điệp cho tâm trí. Tâm trí bạn có chút ít thông minh, cái đó nữa cũng rất ít... bởi vì tâm trí bạn không tỉnh táo. Tay bạn máy móc, não bạn máy móc, hệ thần kinh của bạn máy móc, và tâm trí bạn ngủ, dường như say. Cho nên từ kẻ ngốc này sang kẻ ngốc khác, thế rồi chung cuộc thông điệp đạt tới người say!

Gurdjieff thường tổ chức những bữa ăn tối thật lớn cho các đệ tử của ông ấy, và việc nâng cốc đầu tiên bao giờ cũng dành cho những kẻ ngốc. Đây là những kẻ ngốc....

Và thế rồi kẻ say này, nửa ngủ, nửa thức, diễn giải điều đó theo quá khứ, bởi vì không có cách khác. Tâm trí diễn giải hiện tại theo quá khứ. Mọi thứ đều đi sai bởi vì hiện tại là mới và tâm trí bao giờ cũng cũ. Nhưng không có cách khác; tâm trí không thể làm được cái gì khác. Nó đã tích luỹ nhiều tri thức trong quá khứ qua cũng những kẻ ngốc này - không tin cậy như bất kì cái gì - và quá khứ đó được mang tới hiện tại, và hiện tại được hiểu qua quá khứ. Mọi thứ đi sai. Gần như không thể nào biết được cái gì qua quá trình này.

Đó là lí do tại sao người Hindus gọi toàn thế giới, cái được biết qua quá trình này là maya, ảo tưởng, nó là tựa như mơ. Bạn vẫn chưa biết tới thực tại. Bốn sứ giả này sẽ không cho phép bạn, và bạn không biết cách né tránh những sứ giả này hay cách thoát ra chỗ mở. Tình huống là gần như bạn bị khép kín trong xà lim tối và bạn đang nhìn ra chỉ qua lỗ khoá - và lỗ khoá là không thụ động, lỗ khoá là chủ động, nó diễn giải. Nó nói, “Không, bạn sai rồi; cái này không phải vậy, cái này giống thế này cơ.” Tay bạn diễn giải, hệ thần kinh bạn diễn giải, não bạn diễn giải, và chung cuộc người say diễn giải. Và diễn giải đó được trao cho bạn và bạn sống qua diễn giải đó. Đây là trạng thái của tâm trí dốt nát, trạng thái của không chứng ngộ.

Trong nirvichara samadhi, toàn thể trạng thái này bị tan tành. Bạn đột nhiên đi ra khỏi toàn thể cơ chế này. Bạn không dựa vào nó, bạn đơn giản vứt bỏ toàn thể cơ chế. Bạn đi thẳng tới cội nguồn của tri thức; bạn nhìn trực tiếp vào hoa.

Điều này là có thể. Điều này là có thể chỉ ở trạng thái cao nhất của thiền, nirvichara, khi các ý nghĩ dừng lại. Ý nghĩ là mắt xích. Khi các ý nghĩ dừng lại, toàn thể cơ chế dừng lại và bạn là tách rời. Đột nhiên bạn không còn bị cầm tù. Bạn không nhìn qua lỗ khoá. Bạn đã thoát vào trong thế giới dưới bầu trời mở. Bạn nhìn vào mọi thứ như chúng vậy và bạn sẽ thấy rằng mọi thứ không tồn tại; chúng là diễn giải của bạn. Chỉ các hiện hữu tồn tại; không có vật nào trong thế giới. Ngay cả tảng đá cũng là một hiện hữu, dù ngủ say thế nào, ngáy - nhưng đã là một hiện hữu vì cội nguồn tối thượng là một hiện hữu. Mọi bộ phận của nó đều là các hiện hữu, linh hồn. Cây là một hiện hữu, chim là một hiện hữu, đá là một hiện hữu. Đột nhiên, thế giới vật biến mất. ‘Vật’ là diễn giải của những kẻ ngốc và tâm trí say. Bởi vì quá trình này mọi thứ trở thành đờ đẫn. Bởi vì quá trình này chỉ bề mặt là được chạm tới. Bởi vì quá trình này bạn bỏ lỡ thực tại; bạn sống trong mơ.

Bạn có thể tạo ra mơ theo cách này. Một ngày nào đó thử xem: vợ bạn đang ngủ, hay chồng bạn, hay con bạn - lấy một miếng nước đá cọ vào chân của người ngủ. Làm chút xíu thôi, đừng quá nhiều, bằng không người đó sẽ tỉnh lại - chỉ chút xíu và chút xíu và bỏ nó đi. Ngay lập tức bạn sẽ thấy mắt trong tròng mắt chuyển động nhanh, điều các nhà tâm lí gọi là REM, chuyển động mắt nhanh. Khi mắt chuyển động nhanh, mơ đã bắt đầu, bởi vì người này thấy cái gì đó, đó là lí do tại sao mắt chuyển động nhanh thế. Thế rồi, ngay giữa giấc mơ, bạn đánh thức người này và hỏi người đó thấy gì. Hoặc người đó đã thấy người đó đang đi qua sông rất lạnh, lạnh như băng, hoặc người đó đang bước đi trên tuyết, hay người đó đã tới đỉnh Gourishankar: người đó sẽ mơ cái gì đó như thế. Bạn tạo ra mơ bởi vì bạn đã lừa kẻ ngốc thứ nhất, bạn chạm nước đá vào chân. Ngay lập tức kẻ ngốc này bắt đầu làm việc; kẻ ngốc thứ hai được trao cho thông điệp này, kẻ ngốc thứ ba giải mã, kẻ thứ tư, người say - cũng đnag ngủ bây giờ - lập tức bắt đầu mơ.

Bạn có thể tạo ra mơ; bạn có thể tạo ra nhiều lần, một cách không chủ ý. Cả hai tay bạn để trên ngực và bạn đang nằm trên giường và bạn cảm thấy rằng ai đó đang ngồi trên ngực bạn, một con quỉ. Khi bạn mở mắt ra không ai có đó - mỗi tay của bạn, hay chiếc gối.

Cùng điều này đang xảy ra trong khi bạn thức. Điều đó không tạo ra khác biệt gì bởi vì toàn thể cơ chế là như nhau; dù mắt có mở hay đóng cũng không mấy khác biệt vì không thể có kiểm tra trên quá trình này. Cho dù bạn muốn kiểm tra, bạn sẽ phải trải qua toàn thể quá trình này. Làm sao bạn có thể kiểm tra được chừng nào bạn chưa bước ra và nhìn điều đang xảy ra?

Khả năng này là toàn thể thế giới tâm linh: rằng tâm thức chung cuộc có thể bước ra. Vứt toàn thể cơ chế này đi, nhìn thẳng vào sự việc: ‘vật’ biến mất. Đó là lí do tại sao người Hindu nói thế giới này là không thật, và với người biết thực, nó biến mất. Không phải là đá sẽ không có đó và cây sẽ không có đó, chúng sẽ có đó thậm chí nhiều hơn thế, nhưng chúng sẽ không còn là cây, không còn là đá nữa; chúng sẽ là những hiện hữu. Tâm trí bạn biến mọi hiện hữu thành vật: vợ bạn là một vật để được dùng; chồng bạn là một vật để được sở hữu; người hầu của bạn là một vật để bị khai thác; ông chủ của bạn là một vật để bị lừa. Tâm trí, bởi vì toàn thể quá trình ngu ngốc này, biến mọi hiện hữu thành vật. Khi bạn thoát ra khỏi tâm trí và có cái nhìn dưới bầu trời mở, đột nhiên chẳng có gì chút nào. ‘Tính vật’ biến mất.

Khi ý nghĩ mất đi, điều thứ hai mất theo là 'vật'. Đột nhiên toàn thế giới đầy những hiện hữu, hiện hữu đẹp, hiện hữu tối cao, bởi vì tất cả chúng đều tham gia vào hiện hữu tối thượng của Thượng đế. Các định nghĩa biến mất - bạn không thể tách rời. Mọi tách rời tồn tại bởi vì cơ chế này. Đột nhiên bạn thấy cây bắt nguồn từ đất, không tách rời; gặp gỡ với trời, không tách rời; mọi thứ được gắn với nhau, mọi người đều là thành viên của mọi người khác. Toàn thể thế giới trở thành một mạng tâm thức, hàng triệu và hàng triệu tâm thức, chói sáng, rực sáng từ bên trong, mọi nhà đều được sáng. Thân thể biến mất bởi vì thân thể thuộc vào thế giới các vật. Hình dạng có đó, nhưng chúng không còn là vật chất; chúng là hình dạng của năng lượng động, chuyển động, và chúng cứ thay đổi. Đó là điều đang xảy ra.

Bạn là đứa trẻ, bây giờ bạn là thanh niên, bây giờ bạn là người già. Điều gì đang xảy ra? Bạn không có hình dạng cố định. Hình dạng liên tục tuôn chảy và thay đổi.

Đứa trẻ đang trở thành thanh niên, thanh niên đang trở thành người già, người già đang đi vào cái chết.

Thế rồi bạn đột nhiên thấy: sinh không phải là sinh, chết không phải là chết... thay đổi hình dạng thôi, và cái vô hình còn lại như cũ. Bạn có thể thấy rằng tính vô hình chói sáng bao giờ cũng còn lại như cũ, di chuyển giữa hàng triệu hình dạng - thay đổi, vậy mà không thay đổi; di chuyển, vậy mà không di chuyển; trở thành mọi thứ khác và vậy mà vẫn còn như cũ. Và đó là cái đẹp và điều bí ẩn; thế thì cuộc sống là một - đại dương bao la của cuộc sống. Thế thì bạn không thấy các sinh linh sống và sinh linh chết, không đâu, bởi vì chết không tồn tại. Chính bởi vì cơ chế này; diễn giải sai.

Bất sinh bất diệt tồn tại. Duy nhất cái tồn tại là bất sinh và bất diệt, vĩnh hằng. Nhưng đây là cách nó có vẻ như vậy khi bạn đi ra khỏi tâm trí.

Bây giờ cố xuyên thấu vào lời kinh của Patanjali.

Trong trạng thái của nirvichara samadhi, đối thể được kinh nghiệm trong cảnh quan đầy đủ của nó, bởi vì trong trạng thái này, tri thức được thu trực tiếp, không dùng giác quan.

Khi giác quan không được dùng, khi lỗ khoá không được dùng để nhìn lên bầu trời... bởi vì lỗ khoá sẽ cho cái khung riêng của nó cho bầu trời và phá huỷ mọi thứ - trời sẽ không lớn hơn lỗ khoá, không thể được. Làm sao cảnh quan của bạn có thể lớn hơn mắt bạn? Làm sao cái chạm của bạn có thể lớn tay bạn, và làm sao âm thanh có thể sâu sắc hơn tai bạn? - không thể được! Mắt, tai, mũi là những lỗ khoá; qua chúng bạn nhìn vào thực tại. Và đột nhiên bạn nhảy ra khỏi bản thân bạn. Trong nirvichara, lần đầu tiên cái bao la, cái vô hạn được biết tới. Bây giờ cảnh quan đầy đủ được đạt tới. Cái bắt đầu không có đó, cái kết thúc không có đó. Không có biên giới trong sự tồn tại. Nó là vô tận; không có giới hạn nào. Mọi giới hạn đều thuộc về giác quan của bạn, chúng được giác quan trao cho. Bản thân sự tồn tại là vô hạn; theo mọi hướng bạn cứ đi và đi mãi, không có kết thúc cho nó.

Khi cảnh quan đầy đủ được đạt tới, thế thì lần đầu tiên bản ngã tinh vi nhất mà vẫn níu bám lấy bạn biến mất. Bởi vì sự tồn tại bao la thế - làm sao bạn có thể níu bám lấy bản ngã yếu ớt nhỏ bé?

Chuyện xảy ra:

Một bản ngã rất lớn, một người rất giầu, một chính khách tới Socrates. Ông ấy có lâu đài lớn nhất và đẹp nhất ở Athens, thực ra, ở toàn Hi Lạp. Và bạn có thể thấy khi một kẻ bản ngã bước, bạn có thể thấy khi kẻ bản ngã nói điều gì đó, bản ngã bao giờ cũng có đó, trộn lẫn trong mọi thứ. Ông ta bước theo cách kiêu kì. Ông ta tới Socrates, nói với Socrates theo cách kiêu kì.

Socrates nói trong vài phút và ông ấy nói, “Đợi đã. Bây giờ có một điều khẩn thiết mà trước hết cần được giải quyết, thế rồi chúng ta sẽ nói” - và ông ấy bảo một đệ tử đem tới bản đồ thế giới. Người giầu, chính khách này, kẻ bản ngã, không thể hiểu được kiểu khẩn thiết nào đột nhiên nảy sinh thế, và ông ta không thể thấy ra được việc đem tới bản đồ thế giới. Nhưng ngay khi ông ấy nhận ra vấn đề đã có đó.

Socrates hỏi, “Hi Lạp ở đâu trong bản đồ thế giới lớn này? - một chỗ nhỏ bé. Athens ở đâu? - chỉ một điểm.”

Và thế rồi Socrates hỏi, “Lâu đài của ông ở đâu? Athens là một điểm. Lâu đài của ông ở đâu và ông ở đâu? Và bản đồ này mới chỉ là về đất, và đất chưa là gì cả.”

Mặt trời lớn hơn sáu mươi nghìn lần và mặt trời của chúng ta là mặt trời thường thôi. Mặt trời hàng triệu lần lớn hơn có đó trong vũ trụ. Trái đất của chúng ta ở đâu nếu chúng ta làm bản đồ của hệ mặt trời? - và hệ mặt trời của chúng ta là hệ mặt trời rất thường thôi. Trong một thiên hà, hàng triệu mặt trời và hàng triệu hệ mặt trời. Trái đất của chúng ta sẽ ở đâu nếu chúng ta làm bản đồ thiên hà mà chúng ta đang thuộc vào? Có nhiều triệu thiên hà. Hệ mặt trời của chúng ta sẽ ở đâu? Mặt trời của chúng ta sẽ ở đâu?”

Và bây giờ các nhà khoa học nói không có kết thúc - các thiên hà rồi các thiên hà vẫn tiếp tục. Bất kì khi nào chúng ta di chuyển, dường không không có kết thúc cho nó. Với sự bao la thế, làm sao bạn có thể níu bám lấy bản ngã? Nó đơn giản biến mất như giọt sương trong sáng khi mặt trời mọc. Khi cái bao la nảy sinh và cảnh quan là toàn bộ, bản ngã của bạn đơn giản biến mất, như giọt sương.

Nó thậm chí không lớn thế; nó là quan niệm sai được cho bởi những sứ giả ngốc. Bởi vì cái lỗ tí hon của các giác quan, bạn dường như là quá lớn, một cách so sánh. Khi bạn tới dưới bầu trời, đột nhiên bản ngã biến mất. Nó đã là việc bịa đặt của lỗ khoá vì lỗ khoá nhỏ thế, và qua lỗ khoá này toàn thế giới đã là nhỏ thế, bạn lớn thế đằng sau nó. Dưới trời nó đơn giản biến mất.

Socrates nói, “Lâu đài của ông ở đâu trên bản đồ này? Ông ở đâu?”

Người này có thể hiểu ra vấn đề, nhưng ông ta hỏi, “Sự khẩn thiết trong nó là gì?”

Socrates nói, “Có khẩn thiết, bởi vì không hiểu điều này không có khả năng nào của bất kì đối thoại nào; ông làm phí thời gian của ta và của ông. Bây giờ nếu ông đã hiểu ra vấn đề, thế thì có khả năng cho đối thoại. Ông có thể gác bản ngã này sang bên; không thành vấn đề.”

Dưới bầu trời bao la bản ngã bạn đơn giản không liên quan. Nó rơi rụng đi theo cách riêng của nó. Ngay cả việc vứt nó đi cũng có vẻ ngu xuẩn; thậm chí không đáng làm điều đó. Bất kì khi nào cảnh quan là đầy đủ, bạn biến mất: đây là vấn đề cần được hiểu. Bạn có bởi vì cảnh quan hạn hẹp. Cảnh quan càng hạn hẹp, bản ngã càng lớn hơn; người càng mù, bản ngã càng lớn... không cảnh quan, có bản ngã hoàn hảo. Khi cảnh quan tăng lên, bản ngã ngày càng nhỏ đi. Khi cảnh quan là hoàn hảo, bản ngã đơn giản không được tìm thấy.

Đây là toàn thể nỗ lực của tôi ở đây - để làm cho cảnh quan đầy đủ tới mức bản ngã biến mất. Đó là lí do tại sao từ nhiều hướng tôi cứ nện vào bức tường tâm trí bạn, để cho ít nhất lúc ban đầu vài lỗ khoá thêm có thể được tạo ra. Qua Phật một lỗ khoá mới mở ra, qua Patanjali lỗ khác, qua Tilopa lại lỗ khác. Đó là điều tôi đang làm. Tôi không muốn bạn trở thành một tín đồ của Phật, Tilopa hay Patanjali, không, bởi vì tín đồ không bao giờ có thể có cảnh quan lớn hơn - học thuyết của ông ấy là lỗ khoá của người đó.

Nói về bao nhiêu quan điểm thế, tôi đang cố làm gì? Tôi đang cố làm chỉ điều này: cho bạn cảnh quan lớn hơn. Nhiều lỗ khoá trong bức tường và bạn có thể nhìn về phương đông và bạn có thể nhìn về phương tây, bạn có thể nhìn về phương nam và bạn có thể nhìn về phương bắc; và nhìn về phương đông bạn không nói, “Đây là hướng duy nhất,” bạn biết có các hướng khác. Nhìn vào phương đông, bạn không nói, “Đây là học thuyết duy nhất đúng,” bởi vì thế thì cảnh quan trở nên hẹp. Tôi nói về nhiều học thuyết thế để cho bạn có thể được tự do với mọi hướng và mọi học thuyết.

Tự do tới qua hiểu biết. Bạn càng hiểu, bạn càng trở nên tự do. Và dần dần, khi bạn đi tới biết rằng qua nhiều lỗ khoá thế, lỗ khoá cũ của bạn đã trở nên lạc hậu, không có nghĩa gì mấy, thế thì một thôi thúc nảy sinh trong bạn: cái gì sẽ xảy ra nếu bạn phá vỡ tất cả những bức tường này và đơn giản chạy ra? Ngay cả một lỗ mới và toàn thể cảnh quan thay đổi và bạn đi tới biết những điều mà bạn chưa bao giờ biết - thậm chí không tưởng tượng được, thậm chí không mơ được. Điều gì sẽ xảy ra khi tất cả các bức tường biến mất và bạn trực tiếp mặt đối mặt với thực tại dưới trời mở?

Khi tôi nói dưới trời mở, nhớ rằng trời không phải là vật, nó là tính không. Nó ở mọi nơi, nhưng bạn không thể tìm thấy nó ở bất kì đâu; nó là tính không. Nó đơn giản là tính bao la. Cho nên tôi chưa bao giờ nói Thượng đế là bao la - Thượng đế là tính bao la. Sự tồn tại không bao la, bởi vì ngay cả sự tồn tại bao la cũng sẽ có những giới hạn. Dù bao la tới đâu, ở đâu đó biên giới phải có đó. Sự tồn tại là tính bao la.

Đó là quan niệm Hindu về brahman. Brahman ngụ ý: chỉ là cái cứ mở rộng mãi. Chính từ ‘brahman’ nghĩa là cái cứ mở rộng mãi. Việc mở rộng là brahman. Trong tiếng Anh không có từ nào; bạn không thể gọi brahman là Thượng đế được bởi vì Thượng đế rất bị giới hạn, một khái niệm. Brahman không phải là Thượng đế. Đó là lí do tại sao ở Ấn Độ chúng ta không có quan niệm về một Thượng đế, mà nhiều thượng đế. Thượng đế có nhiều; brahman có một. Và với brahman... chính từ này đơn giản nghĩa là tính bao la, việc mở rộng; bạn không thể vét cạn nó.

Đó là nghĩa khi tôi nói dưới trời, trời mở: không tường nào bao quanh nó, không học thuyết, không ý nghĩa, không ý nghĩ, không tâm trí; bạn đơn giản ra ngoài cơ chế, lần đầu tiên trần trụi, mặt đối mặt với thực tại. Thế thì cảnh quan đầy đủ của nó... một đối thể được kinh nghiệm trong cảnh quan đầy đủ của nó, và kinh nghiệm một đối thể trong cảnh quan đầy đủ của nó nghĩa là các đối thể đơn giản biến mất và trở thành tính bao la. Nó có thể là việc hội tụ năng lượng.

Điều đó cũng giống như... đi và nhìn vào giếng. Một lượng nước có đó trong giếng; nếu bạn kéo nước lên, nhiều nước nữa được cung cấp vào qua dòng mạch ẩn kín. Bạn không thấy mạch nước. Bạn cứ lấy nước ra và nước mới liên tục chảy vào. Giếng chỉ là một lỗ mở tới đại dương. Nhiều mạch ẩn kín đang đem nước từ khắp xung quanh tới. Nếu bạn đi vào trong giếng, giếng là cái không; thực sự những mạch đó mới là vật, vật thực. Giếng không phải là tích trữ, bởi vì trong tích trữ không có luồng mạch. Tích trữ là chết; giếng là sống động. Tích trữ là vật; giếng là người. Bây giờ đi cùng với luồng mạch, đi sâu hơn vào luồng mạch và chung cuộc bạn sẽ đạt tới đại dương. Và nếu bạn đi qua mọi luồng mạch, thế thì từ mọi hướng đại dương đang tuôn chảy vào giếng: nó tất cả là một.

Nếu bạn nhìn vào một đối thể với cảnh quan đầy đủ, đối thể được nối từ mọi phần của nó với cái vô hạn; nó không thể tồn tại mà không có cái đó. Không đối thể nào tồn tại độc lập. Không có tính cá nhân; tính cá nhân chỉ là diễn giải. Mọi nơi cái toàn thể đều tồn tại. Nếu bạn làm bộ phận thành toàn thể, bạn bị lầm lạc. Đó là quan điểm của dốt nát - thế thì bạn làm bộ phận dường như nó là cái toàn thể. Khi bạn nhìn vào bộ phận và cái toàn thể xuất hiện trong nó, đây là quan điểm của tâm thức đã thức tỉnh.

...đối thể được kinh nghiệm trong cảnh quan đầy đủ của nó, bởi vì trong trạng thái này, tri thức được thu trực tiếp, không dùng giác quan.

Không trung gian nào được dùng; thế thì nhiều điều mới đột nhiên trở thành có thể. Những điều mới này là siddhis, quyền năng. Khi bạn không bị phụ thuộc vào giác quan, viễn cảm trở thành khả năng đơn giản. Chính bởi vì các giác quan, viễn cảm là không thể được. Thấu thị trở thành đơn giản có thể. Chính bởi vì các giác quan, thấu thị là không thể được. Phép màu trở thành việc bình thường. Bạn có thể đọc ý nghĩ của bất kì ai; không cần người đó nói, không cần người đó trao đổi về nó. Với cảnh quan đầy đủ, mọi thứ trở nên được khải lộ, mọi tấm màn được vén lên. Bây giờ không còn tấm màn nào, toàn thể thực tại ở trước bạn. Việc vật chất hoá các thứ trở thành có thể. Bất kì cái gì bạn muốn, lập tức nó xảy ra; hành động không được cần tới. Hành động được cần bởi vì thân thể.

Đó là điều Lão Tử ngụ ý khi ông ấy nói, “Hiền nhân sống trong bất hoạt và mọi thứ xảy ra.” Hàng triệu thứ xảy ra quanh hiền nhân mà không có việc làm của ông ấy về cái gì. Ông ấy nhìn bạn và đột nhiên có biến đổi - đột nhiên bạn không còn là thân thể; trong khi ông ấy nhìn bạn đã trở thành tâm thức.

Tất nhiên điều này không thể thường hằng với bạn, bởi vì khi cái nhìn của ông ấy đã dời đi, bạn lại là thân thể. Chỉ bằng việc ở gần ông ấy bạn trở thành công dân của thế giới không biết nào đó. Bạn nếm mùi vị của cái không biết qua ông ấy bởi vì bản thân ông ấy bây giờ là bầu trời bao la. Không làm gì, nhiều thứ xảy ra. Nhưng khi những thứ này trở thành có thể... ham muốn của hiền nhân này đã biến mất trước khi những thứ này trở thành có thể, cho nên hiền nhân chưa bao giờ làm phép màu nào. Và những người làm phép màu đều không là hiền nhân, bởi vì người làm có đó, và phép màu của họ không thể là phép màu được; phép màu đó là ảo thuật bình thường của họ. Họ đang lừa mọi người và lừa họ.

Phép màu xảy ra - không thể được làm. Nó xảy ra gần hiền nhân. Không phải là ông ấy tạo ra đồng hồ Thuỵ Sĩ đâu... hiền nhân tạo ra đồng hồ được làm tại Thuỵ Sĩ là kẻ ngu. Bạn đang làm gì? Thực ra không có phép màu, bởi vì không Satya Sai Baba nào sẵn sàng làm phép màu của ông ta dưới quan sát khoa học. Ông ta không thể làm được, bởi vì đồng hồ được làm tại Thuỵ Sĩ phải được mua từ chợ, phải được giấu trong áo dài hay búi tóc kiểu da đen! Dưới quan sát khoa học không Satya Sai Baba nào sẵn sàng làm bất kì cái gì, và nếu những người này thực sự thật, họ trước hết phải làm điều đó trước quan sát khoa học. Đây chỉ là ảo thuật thông thường. Khi nhà ảo thuật làm nó bạn nghĩ, “Chỉ là thủ đoạn,” còn khi một Baba làm nó, đột nhiên nó trở thành phép màu. Thủ đoạn là như nhau.

Phép màu xảy ra chỉ khi nirvichara samadhi được đạt tới và bạn ra khỏi thân thể bạn; nhưng chúng chưa bao giờ được làm. Đó là phẩm chất cơ sở của phép màu - nó chưa bao giờ được làm. Nó xảy ra, và khi nó xảy ra, nó không bao giờ tạo ra đồng hồ chế tạo tại Thuỵ Sĩ. Đạt tới nirvichara samadhi và thế rồi tạo ra đồng hồ chế tạo tại Thuỵ Sĩ không có nghĩa gì! Nó biến đổi sự hiện hữu; nó giúp người khác đạt tới chỗ cao nhất.

Qua hiền nhân bạn có thể trở nên có nhiều tính quan sát hơn, nhưng bạn sẽ không có được đồng hồ được làm tại Thuỵ Sĩ! Tính quan sát xảy ra; ông ấy làm cho bạn thức tỉnh hơn, tỉnh táo hơn. Ông ấy không cho bạn thời gian, ông ấy cho bạn vô thời gian. Nhưng những điều này xảy ra, không ai làm chúng, bởi vì người làm đã gần như mất rồi. Chỉ thế thì nirvichara samadhi mới là có thể. Với người làm, làm sao bạn có thể dừng được suy nghĩ? - người làm là người nghĩ. Thực ra, trước khi bạn làm bất kì cái gì bạn phải nghĩ; người nghĩ tới trước, người làm tới sau. Khi người nghĩ và người làm cả hai đều mất rồi và chỉ việc chứng kiến, chỉ tâm thức còn lại, thế thì nhiều điều đơn giản trở thành có thể, chúng xảy ra.

Khi vị Phật di chuyển, nhiều điều xảy ra, nhưng chúng là không hữu hình thế. Chỉ vài người sẽ có khả năng hiểu cái gì đang xảy ra, bởi vì họ thuộc vào một thế giới rất không biết. Bạn không có ngôn ngữ nào cho nó, không khái niệm về bó, và bạn không thể thấy được nó chừng nào nó chưa xảy ra cho bạn.

...trong trạng thái này, tri thức được thu trực tiếp, không dùng giác quan.

Tâm trí đã mất đi, và với tâm trí mọi kẻ trợ giúp, mọi kẻ ngốc cũng mất đi. Họ không hoạt động, họ không làm sao lãng bạn, họ không quấy nhiễu cảm nhận của bạn, họ không tạo ra bất kì kiểu cản trở nào - họ không phóng chiếu, họ không diễn giải. Toàn thể điều đó không còn đó. Đơn giản, tâm thức có đó trước thực tại, và khi điều này xảy ra, tâm thức đối diện tâm thức, bởi vì không có vật chất.

Biểu dụ hay nhất mà tôi đã bắt gặp là một gương đối diện với gương khác. Cái gì sẽ xảy ra khi một gương đối diện với một gương khác? Gương này soi gương kia; gương kia soi gương này, và không có gì trong gương, chỉ việc soi gương được phản xạ cả triệu lần vào nhau. Toàn thế giới trở thành hàng triệu gương... và bạn cũng là một gương, và mọi gương đều trống rỗng, bởi vì không cái gì khác có đó để phản xạ, thậm chí không một khung của gương. Chỉ tấm gương - hai gương đối diện lẫn nhau. Đó là khoảnh khắc ân huệ nhất, phúc lạc nhất; ân huệ giáng xuống, hoa mưa xuống, cái toàn thể mở hội rằng một người nữa đã đạt tới, một lữ khách nữa đã về tới nhà.

Cảm nhận được thu trong nirvichara samadhi siêu việt lên trên mọi cảm nhận bình thường, cả về phạm vi và sự mãnh liệt.

Hai từ này là rất có nghĩa: ‘phạm vi’ và ‘mãnh liệt’. Khi bạn nhìn thế giới qua giác quan, não và tâm trí, thế giới là rất đờ đẫn. Nó không có chói sáng trong nó, bụi bặm, và chẳng mấy chốc nó trở thành chán và người ta cảm thấy ngán: cùng cây, cùng người, cùng hành động - mọi thứ chỉ là đường mòn. Nó không phải vậy.

Thỉnh thoảng với LSD, hay cần sa hay hashish, đột nhiên cây trở nên xanh hơn. Bạn chưa bao giờ biết tới nó, đó là cây xanh thế hay hoa hồng đỏ thế.

Khi Aldous Huxley lần đầu tiên dùng LSD, ông ấy đang ngồi trước chiếc ghế. Đột nhiên, chiếc ghế trở thành một trong những thứ đẹp nhất trên thế giới, và chiếc ghế đó đã còn ở trong phòng ông ấy trong nhiều năm và ông ấy chưa bao giờ nhìn vào nó. Nó giống như chiếc lăng kính; nhiều bóng, nhiều mầu bắt nguồn từ nó; nó giống như kim cương. Chiếc ghế đó không còn là cùng chiếc ghế đó. Huxley bị mê mải với chiếc ghế. Ông ấy không thể tin được điều xảy ra khi ai đó dùng ma tuý.

Ma tuý là nỗ lực bạo hành để đánh thức kẻ ngốc: cho nên bạn làm họ choáng, và họ chỉ mở mắt ra một chút, và họ nhìn...“Vâng!” Và vậy mà thế giới trở nên đẹp thế, đẹp không thể tin được - và thế thì bạn bị móc vào, bởi vì thế thì bạn nghĩ rằng chính vì ma tuý mà thế giới đẹp thế. Bây giờ, khi bạn trở lại và cuộc hành trình qua rồi, thế giới thậm chí sẽ trông bẩn hơn và đờ đẫn hơn bao giờ, bởi vì bây giờ bạn có so sánh trong tâm trí. Với những khoảnh khắc nào đó nó đã trở thành hiện tượng đẹp; bản thân nó đã là thiên đường. Ngay cả một người như Aldous Huxley cũng bị nhầm lẫn, và ông ấy đã bắt đầu nghĩ rằng đây là samadhi Patanjali đã nói tới, và Kabir đã đạt tới, và Phật, và tất cả các nhà huyền môn của thế giới. Đây là samadhi....

Ma tuý có thể cho bạn cảm giác giả về samadhi, nhưng bạn vẫn trong tù. Chỉ bởi vì cơn choáng ma tuý cơ chế của bạn vẫn vận hành với tỉnh táo, nhưng tỉnh táo này sẽ không được lâu. Nếu bạn dùng nó ngày càng nhiều hơn, thế thì số lượng của ma tuý phải được nâng lên ngày càng cao hơn, bởi vì với cùng lượng bạn không thể gây choáng cho kẻ ngốc lần nữa. Họ trở nên được điều chỉnh với nó, thế thì ngày càng nhiều lượng hơn là được cần tới. Ma tuý chỉ làm việc giống thế này.

Một lần Mulla Nasruddin mua một con la và nó không chịu đi. Anh ta làm mọi thứ... và người mà anh ta đã mua la đã bảo anh ta đừng đánh con la vì nó rất nhạy cảm. Thế là anh ta cầu nguyện, theo đuổi và làm mọi thứ, bất kì cái gì anh ta có thể làm: nó chẳng chuyển động, nó không nghe.

Thế là anh ta gọi người này lại. Anh ta nói, “Ông đưa cho tôi kiểu la gì vậy?”

Người này tới với chiếc gậy và đánh rõ đau vào đầu la.

Nasruddin nói, “Thế này thì quá thể! - ông đã bảo tôi không được đánh nó.”

Người này nói, “Tôi không đánh. Chỉ làm cho nó chú ý thôi....” Và lập tức la bắt đầu đi.

Những kẻ ngốc có đó: LSD đánh như chiếc gậy. Trong vài khoảnh khắc bạn thu được sự chú ý của họ, bạn đã gây choáng cho họ. Toàn thế giới trở nên đẹp. Nhưng điều này là cái không, tuyệt đối không. Nếu bạn có thể đạt tới một khoảnh khắc của nirvichara, thế thì bạn sẽ có khả năng biết. Thế giới trở thành hàng triệu lần đẹp hơn bất kì LSD nào có thể cho bạn thoáng nhìn. Và điều đó không phải vì bạn đánh vào đầu la, nó đơn giản vì bạn không còn bên trong la nữa, bạn đã ra ngoài, bạn đã vứt bỏ những kẻ ngốc. Bạn đối diện với thực tại bằng tính trần trụi toàn bộ của bạn.

Không có ý nghĩ, bạn trần trụi. Không có ý nghĩ, bạn là ai? - người Hindu, người Mô ha mét giáo, người Ki tô giáo, người cộng sản? Bạn là ai khi không có ý nghĩ? - đàn ông, đàn bà? Bạn là ai khi không có ý nghĩ? - tôn giáo, phi tôn giáo? Bạn là không ai cả khi không có ý nghĩ. Mọi quần áo đã bị bỏ đi. Bạn đơn giản là sự trần trụi, thuần khiết, trống rỗng. Thế thì cảm nhận là rõ ràng, và với sự rõ ràng đó phạm vi và sự mãnh liệt tới. Bây giờ bạn có thể nhìn vào việc mở rộng bao la của sự tồn tại. Bây giờ không có rào chắn cho cảm nhận của bạn; mắt bạn đã trở thành vô hạn.

Và mãnh liệt: bạn có thể nhìn vào bất kì biến cố nào, bất kì người nào, bởi vì mọi sự không còn đó nữa. Bây giờ ngay cả hoa là người, và cây là bạn, và đá là linh hồn đang ngủ. Bây giờ sự mãnh liệt xảy ra; bạn có thể nhìn xuyên thấu. Khi bạn có thể nhìn xuyên thấu hoa, thế thì bạn sẽ có khả năng hiểu điều các nhà huyền môn đã từng nói, và các nhà thơ.

Tennyson nói, “Nếu tôi có thể hiểu một đoá hoa, một đoá hoa nhỏ trong tính toàn bộ của nó, tôi đã hiểu tất cả.” Đúng, tuyệt đối đúng! Nếu bạn có thể hiểu bộ phận bạn sẽ hiểu cái toàn thể, bởi vì bộ phận là cái toàn thể: và khi bạn cố hiểu bộ phận, dần dần, một cách không chủ ý, bạn sẽ đi tới cái toàn thể, bởi vì bộ phận là phần hữu cơ của cái toàn thể.

Một lần một nhà huyền môn vĩ đại, Eckehart, được hỏi, “Sao ông không viết tiểu sử của ông? Tự tiểu sử của ông sẽ rất, rất hữu ích cho mọi người.”

Ông ấy nói, “Khó lắm, không thể được - bởi vì nếu tôi viết tự tiểu sử của tôi nó sẽ là tự tiểu sử của cái toàn thể, bởi vì mọi thứ đều có liên quan. Và điều đó sẽ quá nhiều... và làm sao người ta có thể viết được tự tiểu sử của cái toàn thể?”

Đó là lí do tại sao những người đã biết bao giờ cũng chống lại; họ chưa bao giờ viết tự tiểu sử - ngoại trừ người này Paramahansa Yogananda, người đã viết Tự tiểu sử của nhà Yogi. Ông ấy không phải là nhà yogi chút nào. Bằng không nhà yogi không thể viết được tự tiểu sử - điều đó là không thể được, đơn giản không thể được, bởi vì khi ai đó đã đạt tới nirvichara samadhi thế thì người đó là một yogi, và thế thì, tính bao la vô cùng....

Bây giờ người đó đã trở thành tất cả. Nếu bạn thực sự muốn viết tự tiểu sử, nó sẽ là tự tiểu sử của cái toàn thể từ lúc bắt đầu - và không có bắt đầu; tới lúc cuối - và không có lúc cuối.

Trong tôi, nếu tôi đã trở nên nhận biết, cái toàn thể lên cực đỉnh. Tôi không bắt đầu với việc sinh, tôi bắt đầu từ chính lúc bắt đầu, và không có bắt đầu; và tôi sẽ cứ đi tới chính tận cùng, và không có tận cùng. Tôi được tham dự sâu sắc với cái toàn thể. Vài năm này mà tôi đang ở đây không phải là cái toàn thể. Tôi đã có trước khi tôi được sinh ra, và tôi sẽ có đó sau khi tôi chết. Cho nên làm sao viết nó ra được? Điều đó sẽ là mảnh mẩu, một trang, không phải là tự tiểu sử - và một trang tuyệt đối là ngớ ngẩn và ra ngoài ngữ cảnh vì các trang khác sẽ bị thiếu.

Vài người bạn tới tôi và họ cũng nói, “Sao không? Thầy nên viết cái gì đó về thầy.” Tôi biết khó khăn của Meister Eckehart. Điều đó là không thể được bởi vì bắt đầu từ đâu? - mọi bắt đầu sẽ là tuỳ tiện và giả; và kết thúc ở đâu? - mọi kết thúc sẽ là tuỳ tiện và giả. Và giữa hai điều giả - bắt đầu giả và kết thúc giả - làm sao cái thực có thể được quản lí? Không thể được. Yogananda đã làm cái gì đó mà không thể được. Ông ấy đã làm cái gì đó mà một chính khách có thể làm, nhưng nhà yogi không thể làm.

Sự mãnh liệt trở thành nhiều tới mức bạn nhìn vào hòn sỏi và, qua hòn sỏi, con đường đang đi vào trong cái toàn thể, và qua hòn sỏi bạn có thể đi vào trong chỗ cao nhất của điều bí ẩn. Mọi nơi đều là cánh cửa; và bạn gõ và mọi nơi bạn đều được chấp nhận, đón chào. Từ bất kì đâu bạn đi vào, bạn đi vào trong vô hạn, bởi vì mọi cánh cửa đều là của cái toàn thể. Các cá nhân có thể có đó như cánh cửa. Yêu một người và bạn đi vào vô hạn. Nhìn đoá hoa và ngôi đền đã mở ra. Nằm xuống trên cát và mọi hạt cát đều là bao la như cái toàn thể. Đây là toán học cao hơn của tôn giáo.

Toán học thông thường nói bộ phận không bao giờ có thể là toàn thể. Đây là một trong những châm ngôn của toán học thông thường mà bắt đầu trong các đại học: bộ phận không bao giờ có thể là toàn thể; và bộ phận bao giờ cũng nhỏ hơn toàn thể; và bộ phận không bao giờ có thể lớn hơn toàn thể. Đây là những châm ngôn đơn giản của toán học, và mọi người sẽ đồng ý điều này là như vậy.

Nhưng thế rồi có toán học cao hơn, khi bạn đã đi ra khỏi các giác quan - thế giới của toán học cao hơn - và đây là những châm ngôn: bộ phận bao giờ cũng là toàn thể; bộ phận không bao giờ, không bao giờ nhỏ hơn toàn thể; và điều ngớ ngẩn của các ngớ ngẩn, thỉnh thoảng bộ phận là lớn hơn toàn thể.

Bây giờ tôi không thể giải thích điều đó được cho bạn. Không ai có thể giải thích được, nhưng đây là những châm ngôn. Một khi bạn ra khỏi nhà tù của bạn, bạn sẽ thấy rằng đây là cách mọi sự là vậy. Hòn sỏi là bộ phận, bộ phận rất nhỏ, nhưng nếu bạn nhìn vào nó với tâm trí vô ý nghĩ, với tâm thức đơn giản, trực tiếp, đột nhiên hòn sỏi đã trở thành cái toàn thể - bởi vì chỉ cái một tồn tại. Bởi vì không bộ phận nào thực ra là bộ phận, hay tách rời: bộ phận tuỳ thuộc vào toàn thể, toàn thể tuỳ thuộc vào bộ phận. Không chỉ có chuyện khi mặt trời mọc lên, hoa nở; cách khác cũng đúng - khi hoa nở, mặt trời mọc lên. Nếu không có hoa, mặt trời mọc lên cho ai? Không chỉ là mặt trời mọc lên, chim hót; cách khác cũng là đúng như thế này - bởi vì chim hót, mặt trời mọc lên. Bằng không, cho ai...? Mọi thứ đều liên thuộc; mọi thứ đều có quan hệ tới mọi thứ khác; mọi thứ xoắn xuýt với mọi thứ khác. Ngay cả một chiếc lá biến mất cái toàn thể sẽ thiếu nó; thế thì cái toàn thể sẽ không là cái toàn thể.

Trong một trong những lời nguyện của mình, Meister Eckehart đã nói... và đây là một trong những người hiếm hoi nhất mà Ki tô giáo đã tạo ra. Thực ra, ông ấy có vẻ là người lạ trong thế giới của người Ki tô giáo. Ông ấy đáng phải được sinh ra ở Nhật Bản như một Thiền sư, sáng suốt của ông ấy sáng tỏ thế, sâu sắc thế, vượt ra ngoài giáo điều thế.

Ông ấy nói trong một trong những lời nguyện của ông ấy, “Vâng, tôi phụ thuộc vào ngài, Thượng đế, nhưng ngài cũng phụ thuộc vào tôi. Nếu như tôi không ở đây, ai sẽ tôn thờ và ai sẽ cầu nguyện? Ngài chắc phải đã thiếu tôi.” Và ông ấy đúng: điều đó không phải là từ bản ngã nào, nó là sự kiện đơn giản. Tôi biết Thượng đế phải đã gật đầu vài khoảnh khắc đó, “Ông đúng, Eckehart, bởi vì nếu ông không có đó ta chắc đã không ở đây.”

Người tôn thờ và cái được tôn thờ tồn tại cùng nhau; người yêu và người được yêu tồn tại cùng nhau. Người ta không thể tồn tại mà không có người kia, và đây là bí ẩn của sự tồn tại: mọi thứ tồn tại cùng nhau. Tính cùng nhau này là Thượng đế. Thượng đế không phải là người; chính sự cùng nhau này của tất cả, là Thượng đế.

Cảm nhận được thu trong nirvichara samadhi siêu việt lên trên mọi cảm nhận bình thường, cả về phạm vi và sự mãnh liệt.

Từ mọi nơi, tính bao la mở ra, và từ mọi nơi, chiều sâu.... Nhìn vào trong hoa, và có vực thẳm. Bạn có thể rơi vào trong hoa và biến mất. Điều đó đã xảy ra. Điều đó sẽ là ngớ ngẩn, nhưng nó đúng. Điều đó là tuỳ bạn tin vào nó hay không.

Chuyện xảy ra, ở Trung Quốc, rằng hoàng đế đòi một hoạ sĩ lớn tới và vẽ trong cung điện. Hoạ sĩ tới và anh ta vẽ cảnh Himalayas, rất đẹp. Anh ta mất nhiều năm, và anh ta không cho phép bất kì ai tới xem chừng nào nó còn chưa được hoàn thành.

Thế rồi một hôm anh ta bảo hoàng đế, “Bây giờ bức tranh sẵn sàng rồi và bệ hạ có thể tới.”

Hoàng đế tới cùng các quan thượng thư và tướng lĩnh và triều đình, và họ đơn giản bị kinh ngạc. Họ chưa bao giờ thấy cái gì giống điều đó, nó thực thế. Đỉnh núi đích xác là thực, và có đường đi uốn lượn quanh co quanh đỉnh núi biến mất ở đâu đó. Hoàng đế hỏi, “Con đường này dẫn tới đâu?”

Hoạ sĩ nói, “Thần chưa từng đi trên nó, vậy làm sao thần biết được?”

Nhưng hoàng đế cứ khăng khăng rằng đó không phải và câu hỏi về đi: “Ông đã vẽ nó mà!”

Thế là hoạ sĩ nói, “Bệ hạ đợi cho. Để tôi tới và xem.”

Và tương truyền là anh ta đi và biến mất vào trong tranh và không bao giờ quay lại để kể câu chuyện nó dẫn tới đâu.

Điều đó không thể xảy ra được, điều đó tôi biết; nhưng trong nirvichara nó xảy ra. Trong hoa là vực thẳm.

Bởi vì sự mãnh liệt của bạn, bạn nhìn vào trong hoa và có chiều sâu, và bạn có thể rơi vào trong hoa và biến mất mãi mãi. Bạn nhìn vào khuôn mặt đẹp với nirvichara và có vực thẳm trong cái đẹp, và bạn có thể bị mất mãi mãi và mãi mãi; bạn có thể rơi vào trong nó. Mọi thứ trở thành cánh cửa, mọi thứ! Với sự mãnh liệt của cái nhìn của bạn, mọi cánh cửa đều mở cho bạn.

Khi việc kiểm soát này về các kiểm soát khác được siêu việt lên, samadhi không hạt mầm được đạt tới, và cùng với nó, tự do khỏi sống và chết.

Đây là chỗ mọi con đường lên tới cao trào, mọi chư Phật gặp gỡ: Mật tông và Yoga, Thiền và Hasid, Sufi và Baul - mọi con đường. Các con đường có thể khác - chúng là vậy - nhưng bây giờ điều này tới, đỉnh; ở đây mọi con đường biến mất.

Khi việc kiểm soát này của mọi kiểm soát khác được siêu việt lên... bởi vì Patanjali nói rằng nó vẫn là một trạng thái bị kiểm soát. Ý nghĩ đã biến mất: bây giờ bạn có thể cảm nhận sự tồn tại, nhưng dầu vậy người cảm nhận và cái cảm nhận, đối thể và chủ thể.... Với thân thể, tri thức là gián tiếp. Bây giờ nó là trực tiếp, nhưng dầu vậy người biết là khác với cái được biết. Rào chắn cuối cùng tồn tại, sự phân chia. Khi ngay cả điều này cũng bị mất đi, khi kiểm soát này được siêu việt lên và hoạ sĩ biến mất trong bức tranh và người yêu biến mất trong tình yêu, đối thể và chủ thể biến mất. Không có người biết và không có cái được biết.

Khi việc kiểm soát này về các kiểm soát khác được siêu việt lên...

Đây là kiểm soát cuối cùng, nirvichara samadhi, samadhi nơi ý nghĩ đã dừng lại. Đây là kiểm soát cuối cùng. Bạn vẫn còn, không như bản ngã, nhưng như cái ta. Bạn vẫn tách rời khỏi cái được biết - chỉ còn một tấm màm rất trong suốt, nhưng nó có đó - và nếu bạn níu bám lấy điều này bạn sẽ được sinh ra, bởi vì phân chia đã không được siêu việt lên; bạn vẫn chưa đạt tới bất nhị. Hạt mầm của nhị nguyên vẫn có đó, và hạt mầm đó sẽ mọc ra trong những kiếp sống mới và bánh xe của sống và chết sẽ cứ quay tiếp.

Khi việc kiểm soát này về các kiểm soát khác được siêu việt lên...

Thế thì bạn đạt tới nirvichara samadhi, vô hạt mầm.

...và cùng với nó, tự do khỏi sống và chết.

Thế thì bánh xe dừng lại cho bạn. Thế thì không có thời gian, không có không gian. Sống và chết cả hai biến mất như giấc mơ. Làm sao siêu việt lên trên kiểm soát cuối cùng này? - đó là điều khó khăn nhất. Đạt tới nirvichara là rất gian truân, nhưng không cái gì so sánh được với việc bỏ kiểm soát cuối cùng bởi vì điều đó rất tinh tế. Làm sao làm nó? ‘Làm sao’ là không liên quan ở giai đoạn đó. Người ta phải đơn giản sống, quan sát, tận hưởng, phải chùng lỏng và tự nhiên.

Đây là chỗ Tilopa trở nên có nghĩa. Bởi vì những người này thích Tilopa đều là Thiền nhân, họ nói về mục đích: người ta sống chùng lỏng và tự nhiên, không làm gì, không làm gì để siêu việt kiểm soát. Bởi vì nếu bạn làm cái gì đó, điều đó sẽ lại là kiểm soát. Việc làm của bạn sẽ là hoàn tác. Chùng lỏng và tự nhiên - đó là điểm mà bức tranh thứ mười trong loạt bức tranh chăn bò trở nên có nghĩa: trở lại thế giới, và không chỉ trở lại trong thế giới... còn mang cả chai rượu. Tận hưởng, mở hội, là bình thường - đó là nghĩa. Không cái gì có thể được làm bây giờ. Mọi điều có thể được làm, bạn đã làm. Bây giờ bạn đơn giản trở nên chùng lỏng và tự nhiên và quên mọi thứ về yoga, kiểm soát, sadhana, tìm, kiếm. Quên mọi thứ về điều đó, vì bây giờ bạn làm cái gì đó thế thì kiểm soát sẽ tiếp tục, và với kiểm soát không có tự do. Bạn phải đợi, và chỉ chùng lỏng và tự nhiên.

Ai đó hỏi Lin Chi, “Từ giờ trở đi thầy định làm gì?” Ông ấy nói, “Chẻ củi, lấy nước từ giếng - không gì khác.” Chẻ củi, lấy nước từ giếng....

Lin Chi phải đã ở giai đoạn này khi ông ấy trả lời điều này. Ông ấy đã đi tới kiểm soát cuối cùng. Bây giờ chả còn gì để được làm, cho nên ông ấy chẻ củi. Mùa đông đang tới và củi sẽ được cần tới, và mọi người nó trời sẽ lạnh mùa đông này, cho nên ông ấy chẻ củi; và tất nhiên ông ấy cảm thấy khát, cho nên ông ấy lấy nước, nước cho vườn, cho rau cỏ. Tuyệt đối bình thường... không tìm, không kiếm, không đi đâu cả.

Đây là trạng thái nơi Basho nói, “Ngồi yên tĩnh, ngồi im lặng, không làm gì, xuân tới và cỏ tự nó mọc lên.” Bên ngoài điều này, lời không thể giải thích được. Người ta phải đạt tới nirvichara và thế rồi đợi cho samadhi vô hạt mầm. Nó tới theo cách riêng của nó, cũng như cỏ tự nó mọc lên. Thế thì kiểm soát cuối cùng được siêu việt lên và không có ai siêu việt lên nó. Nó đơn giản được siêu việt. Không có ai siêu việt nó bởi vì nếu ai đó có đó để siêu việt lên nó, kiểm soát lại có đó. Cho nên bạn không thể làm được gì về nó.

Đó là lí do tại sao Patanjali đơn giản kết thúc: nó là samadhi, cả hai. Ở đây chấm dứt chương về samadhis - không cái gì thêm để nói. Ông ấy không nói gì về cách làm nó. Không có 'làm sao' cho nó.

Đây là điểm mà Krishnamurti trở nên cáu, khi mọi người hỏi, “Làm sao?” Không có vấn đề, không phương pháp, không kĩ thuật, bởi vì nếu bất kì kĩ thuật nào là có thể ở đây, thế thì kiểm soát sẽ còn lại. Kiểm soát bị siêu việt, nhưng không có ai siêu việt. Vẫn còn chùng lỏng và tự nhiên, chẻ củi và lấy nước, ngồi im lặng xuân tới, cỏ tự nó mọc lên.

Cho nên bạn không bận tâm tới samadhi vô hạt mầm. Bạn đơn giản nghĩ về nirvichara samadhi, ‘samadhi nơi các ý nghĩ dừng lại’. Mãi cho tới đó, việc tìm kiếm vẫn tiếp tục. Bên ngoài điều đó, là mảnh đất của vô tìm kiếm. Khi bạn đã trở thành nirvichara - thế thì, chỉ thế thì, bạn sẽ hiểu bây giờ phải làm gì. Mọi điều có thể được làm bạn đã làm.

Rào chắn cuối có đó. Rào chắn cuối cùng đó được tạo ra bởi việc làm của bạn. Rào chắn cuối cùng được tạo ra; nó rất trong suốt. Dường như là bạn đang ngồi đằng sau bức tường kính, rất đẹp và kính thuần khiết, và bạn có thể thấy mọi thứ rõ ràng như không có tường. Nhưng tường có đó, và nếu bạn cố đi qua nó bạn sẽ bị va vào đau điếng và bị ném lại.

Cho nên nirvichara samadhi không phải là điều cuối cùng, nó là áp chót. Và 'áp chót' đó là mục đích. Bên ngoài điều đó, đọc Basho, Tilopa, Lin Chi đi; ngồi im lặng và để cho cỏ tự nó mọc lên. Bên ngoài điều đó, bạn có thể sống trong chợ, bởi vì chợ là đẹp như tu viện. Bên ngoài điều đó, bạn có thể làm bất kì cái gì bạn cảm thấy thích làm - bạn có thể làm việc riêng của bạn - nhưng

không trước đó. Bạn có thể thảnh thơi, việc tìm kiếm qua rồi. Trong thảnh thơi đó một khoảnh khắc của hài hoà bên trong với vũ trụ tới và bức tường biến mất bởi vì nó được tạo ra bởi việc làm của bạn; khi bạn không làm, nó biến mất. Nó được nuôi dưỡng bởi việc làm của bạn. Khi bạn không làm, nó biến mất, và khi việc làm đã biến mất và bạn đã siêu việt lên trên mọi kiểm soát, thế thì không có sống và không có chết bởi vì sống là của người làm, chết là của người làm.

Bây giờ bạn không còn nữa; bạn đã tan biến. Bạn đã tan biến như hạt muối bị ném vào đại dương tan biến, và bạn không thể tìm được chỗ nào nó đã mất đi. Bạn có thể tìm được hạt muối đã bị tan vào trong đại dương không? Nó đã trở thành một với đại dương. Bạn có thể nếm đại dương, nhưng bạn không thể tìm được hạt muối.

Đó là lí do tại sao, khi mọi người cứ hỏi đi hỏi lại Phật, “Điều gì sẽ xảy ra khi vị Phật chết? Điều gì xảy ra khi vị Phật chết?” - Phật vẫn còn im lặng; ông ấy chưa bao giờ trả lời nó. Nó đã là câu hỏi rất dai dẳng “Cái gì xảy ra cho vị Phật?” Phật vẫn còn im lặng bởi vì Phật dường như có, với bạn. Với bản thân ông ấy, ông ấy không còn nữa. Bên trong, ông ấy không còn nữa. Bên trong, bên ngoài đã trở thành một; bộ phận và cái toàn thể đã trở thành một; người sùng kính và Thượng đế đã trở thành một; người yêu được tan biến vào trong người được yêu.

Thế thì cái gì còn lại? - yêu còn lại: người yêu không còn nữa, người được yêu không còn nữa; người biết không còn nữa, cái được biết không còn nữa - việc biết còn lại. Tâm thức đơn giản còn lại mà không có trung tâm cho nó, bao la như sự tồn tại, sâu như sự tồn tại, bí ẩn như sự tồn tại. Nhưng không cái gì có thể được làm.

Khi bạn đi tới điểm này một ngày nào đó... nếu bạn tìm chăm chỉ bạn sẽ tới. Nếu bạn tìm chăm chỉ bạn sẽ đi tới nirvichara samadhi - thế thì đừng mang thói quen cũ về làm, thế thì đừng mang hình mẫu cũ về làm, thế thì đừng hỏi “Làm sao?” Thế thì đơn giản chùng lỏng và tự nhiên và để mọi sự là vậy.

Chấp nhận bất kì cái gì xảy ra; mở hội bất kì cái gì xảy ra. Chẻ củi, gánh nước, ngồi im lặng và để cỏ mọc lên.

Đủ cho hôm nay.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Đứa trẻ nổi loạn - Osho

Tự truyện - Cuộc đời luận sư Osho