Chương 35: Quay vào trong tới cái thực
Chương 35: Quay vào trong tới cái thực
24 tháng 2 năm 1973, buổi tối ở Woodlands, Bombay
53. Ôi đấng linh thiêng, cảm xúc ngọt ngào, khi hát ca, khi ngắm nhìn, khi nếm trải, hãy nhận biết bạn đang tồn tại và khám phá sự sống vĩnh hằng.
54. Bất cứ ở đâu, trong bất cứ hoạt động nào thấy có sự mãn nguyện, hãy hiện thực hóa điều này.
55. Lúc sắp rơi vào giấc ngủ, khi sự tình táo bên ngoài đã biến mất nhưng giấc ngủ cồn chưa đến, tại thời điểm này bản thể được tiết lộ.
56. Những ảo ảnh dối lừa, những sắc màu bao quanh, ngay cả cái có thể phân chia lại là không thể chia.
Văn minh là một sự huấn luyện để trở thành không thực. Tantra là quá trình ngược lại - nó ngăn cản bạn trở nên không thực, và nếu bạn đã trở nên không thực thì nó chỉ cho bạn cách chạm tới thực tại ẩn chứa trong bạn, cách kết nối lại với nó, cách sống chân thực trở lại. Điều đầu tiên bạn phải hiểu là vì đâu mà chúng ta lại không ngừng trở nên không thực, và một khi bạn hiểu được quá trình này, thì nhiều điều ngay lập tức thay đổi. Chính sự hiểu biết trở thành sự biến đổi.
Con người sinh ra không bị phân chia, không là cơ thể cũng không là tâm trí, mà như một cá nhân. Con người là cả hai, cơ thể và tâm trí. Thậm chí nói rằng con người là cả hai cũng sai. Con người là thân-tâm. Cơ thể và tâm trí chỉ là hai khía cạnh của con người, chứ không phải là hai bộ phận - hai cực của một cái gì đó mà chúng ta có thể gọi là cuộc sống, là năng lượng hay là bất cứ thứ gì - X,Y,Z - cơ thể và tâm trí không phải là hai thứ.
Chính quá trình văn minh hóa, giáo dục, văn hóa, huấn luyện, bắt đầu với sự phân chia. Mọi người đều được dạy rằng mình là hai chứ không phải là một, và rồi, tất nhiên, con người bắt đầu bị đồng nhất với tâm trí mà không với cơ thể. Chính quá trình nghĩ trở thành trung tâm của bạn và quá trình nghĩ chỉ là phần ngoại vi. Nó không phải là trung tâm bởi vì bạn có thể tồn tại mà không cần nghĩ. Một khi bạn đã tồn tại mà không cần nghĩ: nghĩ không phải là một nhu cầu để tồn tại. Nếu bạn đi sâu vào thiền, bạn sẽ tồn tại, nhưng sẽ không có nghĩ. Khi bạn bất tỉnh, bạn sẽ tồn tại, nhưng sẽ không có nghĩ. Khi bạn ngủ say, bạn sẽ tồn tại, nhưng sẽ không có nghĩ. Nghĩ chỉ ở ngoại vi; con người bạn ở nơi nào đó khác - sâu hơn nghĩ. Nhưng bạn đang liên tục được dạy rằng bạn là cả hai, cơ thể và tâm trí, và thực ra bạn là tâm trí và bạn chiếm hữu cơ thể. Tâm trí trở thành người chủ và cơ thể trở thành nô lệ, và bạn không ngừng vật lộn chống lại cơ thể. Điều này tạo ra kẽ hở, khoảng trống, và khoảng trống đó là vấn đề. Mọi dạng loạn thần kinh đều nảy sinh từ khoảng trống đó; mọi lo lắng đều xuất phát từ khoảng trống đó.
Con người bạn bám rễ sâu vào cơ thể bạn, và cơ thể bạn không phải chỉ là một cái gì đó tách biệt với tồn tại. Nó là một phần của tồn tại. Cơ thể bạn là toàn bộ vũ trụ. Nó không phải là một cái gì đó hạn chế, giới hạn. Bạn có thể đã chưa quan sát điều đó, nhưng hãy cố quan sát nơi cơ thể bạn thực sự kết thúc - ở đâu! Bạn có nghĩ rằng cơ thể bạn kết thúc tại nơi da bạn kết thúc không?
Nếu mặt trời ở nơi xa thẳm không còn nữa, ngay lập tức ở đây bạn sẽ chết. Nếu các tia nắng ngừng rọi tới, ở đây bạn cũng sẽ không còn nữa. Cơ thể bạn không thể tồn tại khi không có mặt trời ở nơi xa thẳm đó. Bằng cách nào đó, mặt trời và bạn có mối liên hệ sâu sắc. Mặt trời phải được hàm chứa trong cơ thể bạn; nếu không bạn không thể tồn tại. Bạn là một phần của những tia nắng mặt trời.
Vào buổi sáng bạn thấy những bông hoa nở: sự nở ra của chúng thực ra là sự mọc lên của mặt trời. Ban đêm chúng sẽ khép lại: sự khép lại của chung là sự lặn xuống của mặt trời. Chúng chỉ là những tia được trải dài. Bạn tồn tại ở đây vì mặt trời tồn tại ở nơi xa thẳm. Da của bạn không thực sự là da của bạn. Da của bạn không ngừng trải rộng; thậm chí mặt trời cũng được hàm chứa trong đó. Bạn đang thở: bạn có thể thở vì có không khí, có khí quyển. Mỗi thời điểm bạn thở ra và hít vào, không khí cũng ra và vào.
Nếu không có không khí chỉ một khoảnh khắc, bạn sẽ chết. Hơi thở của bạn là sự sống của bạn. Nếu hơi thở của bạn là sự sống của bạn thì toàn bộ bầu không khí là một phần của bạn. Bạn không thể tồn tại thiếu nó. Cho nên cơ thể bạn thực sự kết thúc ở đâu? Giới hạn là đâu? Không có giới hạn! Nếu bạn quan sát, nếu bạn đi sâu, bạn sẽ thấy không có giới hạn. Hay, giới hạn của vũ trụ là giới hạn của cơ thể bạn. Toàn bộ vũ trụ có liên quan đến bạn, nên cơ thể bạn không chỉ là cơ thể bạn; nó là vũ trụ của bạn và bạn có nền tảng trong nó. Tâm trí bạn cũng không thể tồn tại khi không có cơ thể. Nó là một phần của cơ thể, là một quá trình của nó.
Phân chia là hủy hoại, và vì phân chia mà bạn buộc phải trở nên bị đồng nhất với tâm trí. Bạn suy nghĩ, và không có suy nghĩ thì không có sự phân chia. Bạn suy nghĩ, và bạn trở nên bị đồng nhất với việc nghĩ của bạn. Thế rồi bạn cảm thấy như thể bạn sở hữu cơ thể. Điều này hoàn toàn trái với sự thật. Bạn không sở hữu cơ thể; Cơ thể cũng đang không sở hữu bạn. Chúng không phải là hai thứ. Sự sống của bạn là hợp nhất, là sự hòa hợp sâu sắc giữa các cực đối lập. Các đối cực không bị phân chia mà liên kết cùng nhau. Chỉ khi đó chúng mới có thể trở thành những đối cực. Và sự đối lập là tốt. Nó tạo ra sự thu hút, thế cân bằng ổn định, nó tạo ra năng lượng. Đó là tính biện chứng.
Nếu bạn thực sự chỉ là cái một đơn điệu, không có các đối cực bên trong, bạn sẽ ngu đần và tê liệt. Chính hai đối cực này, cơ thể và tâm trí, mang đến cho bạn sự sống. Chúng vừa đối lập với nhau và cũng đồng thời bổ sung cho nhau - và cuối cùng, về cơ bản chúng là một. Một dòng năng lượng tuôn chảy trong cả hai. Nhưng khi chúng ta trở nên đồng nhất với quá trình nghĩ, chúng ta nghĩ rằng chúng ta được định tâm ở đầu. Nếu hai chân bạn bị cắt, bạn sẽ không cảm thấy rằng bạn bị cắt. Bạn sẽ nói, "Hai chân tôi bị cắt". Nhưng nếu đầu bạn bị cắt, bạn bị cắt. Bạn bị giết.
Nếu bạn nhắm mắt lại để cảm nhận nơi mình đang hiện hữu, ngay lập tức bạn sẽ cảm thấy bạn hiện hữu trong đầu mình. Bạn không ở đó - bởi vì khoảnh khắc đầu tiên bạn đến với cuộc sống trong dạ con của mẹ bạn, khoảnh khắc hai nguyên tử đực và cái gặp nhau, khi đó không có đầu. Nhưng sự sống đã bắt đầu. Bạn có đó, và không có đầu. Nhờ cuộc gặp gõ đầu tiên của hai tế bào sống mà bạn được tạo ra. Sau đó cái đầu mới xuất hiện, nhưng bản thể bạn đã có đó. Bản thể đó ở đâu? Nó không phải ở trong đầu bạn. Thực ra, nó không ở đâu cả - hoặc ở mọi nơi trong cơ thể bạn. Nó không ở đâu; bạn không thể chỉ ra nó ở đâu. Và lúc mà bạn chỉ ra nó, bạn bỏ lỡ toàn bộ vấn đề. Nó ở mọi nơi. Sự sống của bạn ở mọi nơi, nó lan tỏa khắp người bạn. Và không chỉ khắp người bạn; nếu bạn theo nó, bạn sẽ phải đi tới tận cùng vũ trụ. Nó ở khắp mọi nơi.
Với việc đồng nhất rằng “Tôi là tâm trí tôi”, mọi thứ trở thành sai. Bạn trở nên không thực bởi vì sự đồng nhất này là sai. Điều này phải bị xóa bỏ. Các kỹ thuật tantra là để xóa bỏ sự đồng nhất này. Nỗ lực của tantra là để làm cho bạn trở nên không đầu, không tập trung vào đầu, làm cho bạn ở mọi nơi hoặc không ở nơi nào. Và tại sao mà nhân loại, mà con người lại trở nên sai lầm và không thực khi cùng với tâm trí? Bởi vì tâm trí là một hiện tượng phụ - một quá trình cần thiết, hữu dụng, nhưng là thứ yếu; là một quá trình bao gồm những ngôn từ, mà không bao gồm những thực tế. Từ ‘yêu’ không phải là yêu, từ ‘thượng đế’ không phải là Thượng đế. Nhưng tâm trí bạn bao gồm những ngôn từ, một quá trình nói, và thế thì chính tình yêu lại trở nên ít ý nghĩa hơn so với từ ‘yêu’. Đối với tâm trí, ngôn từ quan trọng hơn. Thượng đế trở nên ít ý nghĩa hơn so với từ ‘Thượng đế’. Đối với tâm trí, điều đó cũng tương tự. Những ngôn từ trở nên nhiều ý nghĩa hơn, quan trọng hơn. Chúng trở thành chủ yếu, và chúng ta bắt đầu sống với những ngôn từ. Và bạn càng sống với những ngôn từ thì bạn càng trở nên nông cạn, bạn sẽ liên tục bỏ lỡ thực tại phi ngôn từ. Thực tại chính là tồn tại.
Sống trong tâm trí cũng giống như sống trong một chiếc gương. Trong đêm, nếu bạn đi đến một hồ nước tĩnh lặng, không có những gợn sóng, mặt hồ này trở thành một chiếc gương. Bạn có thể nhìn thấy trăng trong hồ, nhưng trăng đó là giả - chỉ là một sự phản chiếu. Sự phản chiếu đến từ cái thực, nhưng sự phản chiếu không phải là thực. Tâm trí chỉ là một hiện tượng phản chiếu. Thực tại được phản chiếu trong nó, nhưng những sự phản chiếu không phải là thực. Và nếu bạn bị dính vào những sự phản chiếu, bạn sẽ bỏ lỡ hết thực tại. Chính vì vậy mà với tâm trí, với những phản chiếu tâm trí, mọi thứ đều dao động. Một con sóng nhẹ, một cơn gió nhẹ cũng sẽ làm xáo trộn tâm trí bạn. Thực tại không bị xáo trộn, nhưng tâm trí lại bị xáo trộn bởi bất cứ điều gì. Tâm trí chỉ là một hiện tượng phản chiếu, và chúng ta đang sống trong tâm trí.
Tantra nói hạ xuống. Hạ xuống từ ngai vàng của bạn, hạ xuống khỏi đầu của bạn. Hãy quên đi những phản chiếu và đi vào thực tại. Mọi kỹ thuật mà chúng ta đang thảo luận đều liên quan đến điều này: làm sao tách khỏi tâm trí để bạn có thể đi vào thực tại. Bây giờ chúng ta sẽ thảo luận các kỹ thuật:
Kỹ thuật đầu tiên:
Ôi đấng linh thiêng, cảm xúc ngọt ngào, khi hát ca, khi ngắm nhìn, khi nếm trải, hãy nhận biết người đang hiện hữu và khám phá sự sống vĩnh hằng.
Chúng ta đang sống, nhưng chúng ta không ý thức rằng chúng ta đang hiện hữu hoặc đang sống. Không có tự-nhớ. Khi bạn đang ăn, đang tắm hay đang đi bộ: bạn không nhận biết sự tồn tại của mình khi đang đi bộ. Mọi thứ đều tồn tại, chỉ có bạn là không. Cây cối, những ngôi nhà, giao thông, mọi thứ đều tồn tại. Bạn nhận biết hết mọi thứ quanh mình, nhưng bạn không biết chính con người mình - rằng bạn đang tồn tại. Bạn có thể biết toàn bộ thế gian, nhưng nếu bạn không nhận biết được bản thân mình thì sự nhận biết đó là giả. Tại sao? Bởi vì tâm trí bạn có thể phản chiếu mọi thứ, nhưng nó không thể phản chiếu bạn. Nếu bạn nhận ra chính mình thì bạn đã vượt lên tâm trí.
Sự tự-nhớ của bạn không thể được phản chiếu trong tâm trí bạn bởi vì bạn đang ở phía sau tâm trí. Nó chỉ có thể phản chiếu những thứ phía trước nó. Bạn chỉ có thể nhìn thấy những người khác, bạn không thể nhìn thấy chính mình. Đôi mắt của bạn có thể nhìn thấy mọi người, nhưng đôi mắt của bạn không thể nhìn thấy chính chúng. Nếu bạn muốn nhìn thấy mình, bạn sẽ cần một chiếc gương. Bạn chỉ có thể nhìn thấy mình trong chiếc gương này, nhưng thế thì bạn sẽ phải đứng trước gương. Nếu tâm trí bạn là một chiếc gương, nó có thể phản chiếu cả thế giới. Nó không thể phản chiếu bạn bởi vì bạn không thể đúng trước nó. Bạn luôn luôn ở phía sau, ẩn phía sau chiếc gương này.
Kỹ thuật này nói trong lúc đang làm bất cứ điều gì - hát ca, nhìn ngắm, nếm trải - hãy nhận biết rằng bạn đang tồn tại và hãy khám phá sự sống vĩnh hằng, và hãy khám phá bên trong bạn cái dòng chảy, cái năng lượng, cái sự sống vinh hằng đó. Nhưng chúng ta không nhận biết được chính mình.
Gurdjieff đã sử dụng tự-nhớ như là một kỹ thuật cơ bản ở phương Tây. Sự tự-nhớ có nguồn gốc từ câu kinh này. Toàn bộ hệ thống Gurdjieff dựa trên chỉ mỗi câu kinh này. Bất cứ điều gì bạn đang làm thì hãy nhớ đến chính mình. Điều đó rất khó. Nó có vẻ rất dễ, nhưng bạn sẽ liên tục quên. Thậm chí trong ba hay bốn giây, bạn không thể nhớ được mình. Bạn sẽ phải có một cảm giác rằng bạn đang nhớ lại, và đột nhiên bạn sẽ chuyển sang ý nghĩ khác. Ngay cả với ý nghĩ rằng “Được thôi, mình đang nhớ lại chính mình”, bạn cũng sẽ bị lỡ, bởi vì ý nghĩ này không phải là tự-nhớ. Khi tự-nhớ thì sẽ không có ý nghĩ; bạn sẽ hoàn toàn trống rỗng. Và tự-nhớ không phải là một quá trình trí não. Không phải là bạn nói, “Đúng, tôi tồn tại”. Khi nói “đúng, tôi tồn tại”, bạn đã bị lỡ. Đây là một vấn đề tâm trí, đây là một quá trình trí não: “Tôi tồn tại”.
Cảm nhận “tôi tồn tại”, chứ không phải câu nói “tôi tồn tại”. Đừng biến thành lời, chỉ cảm nhận rằng bạn tồn tại. Đừng nghĩ, mà hãy cảm nhận! Hãy thử điều đó. Điều đó khó, nhưng nếu bạn cứ kiên trì, nó xảy ra. Khi đi bộ, nhớ rằng bạn tồn tại, và cảm nhận về chính con người mình, chứ không về ý nghĩ nào, không về ý tưởng nào. Chỉ cảm nhận. Tôi chạm vào tay bạn hoặc tôi đặt tay mình lên đầu bạn: đừng diễn đạt việc đó thành lời. Chỉ cảm nhận cái chạm, và trong sự cảm nhận đó hãy cảm thấy không chỉ cái chạm, mà cảm thấy cả người được chạm nữa. Khi đó ý thức bạn trở thành mũi tên kép.
Bạn đang đi bộ dưới rặng cây: cơn gió thổi qua những ngọn cây, mặt trời đang mọc. Đây là thế giới quanh bạn; bạn nhận ra nó. Đứng lại một lát và bất chợt nhớ ra rằng bạn đang tồn tại, nhưng đừng dùng lời. Chỉ cảm thấy rằng bạn tồn tại. Thậm chí chỉ trong một khoảnh khắc, cảm giác không lời này sẽ mang đên cho bạn một sự thoáng qua - một sự thoáng qua mà không loại LSD nào có thể mang lại cho bạn, một sự thoáng qua về cái thực. Trong một khoảnh khắc, bạn bị quẳng trở lại trung tâm của con người mình. Bạn ở phía sau chiếc gương này; bạn đã siêu việt lên thế giới của những sự phản chiếu, bạn là tồn tại. Và bạn có thể thực hành điều đó bất cứ lúc nào. Không cần bất cứ không gian hay thời gian đặc biệt nào. Và bạn không thể nói, “Tôi không có thời gian”. Khi đang ăn bạn có the thực hành điều đó, khi đang tắm bạn có thể thực hành điều đó, khi đang hoạt động hay đang ngồi bạn có thể thực hành điều đó - bật cứ lúc nào. Bạn đang làm gì cũng không thành vấn đề, bạn có thể đột nhiên nhớ lại chính mình, và sau đó hãy cố gắng duy trì sự thoáng qua đó về con người bạn.
Điều đó sẽ khó. Thời điểm này bạn sẽ cảm thấy nó có đó, thời điểm tiếp theo bạn sẽ xao lãng. Ý nghĩ nào đó sẽ xen vào, sự phàn chiếu nào đó sẽ đến với bạn, và bạn sẽ trở nên vướng bận với sự phản chiếu này. Nhưng đừng buồn và đừng thất vọng. Điều này như thể bởi vì chúng ta đã quan tâm đến những sự phản chiếu trong nhiều kiếp liên tục. Điều này đã trở thành một cơ cấu như robot. Ngay lập lức, tự động, chúng ta bị ném tới sự phản chiếu. Nhưng nếu trong một khoảnh khắc bạn có sự thoáng qua này, thế là đủ cho sự khởi đầu. Và tại sao lại đủ? Bởi vì bạn sẽ không bao giờ có hai khoảnh khắc đồng thời. Chỉ luôn luôn có một khoảnh khắc cùng với bạn. Và nếu bạn có thể có sự thoáng qua trong một khoảnh khắc, bạn có thể giữ nguyên trong nó. Chỉ nỗ lực là cần đến - một nỗ lực không ngừng là cần đến.
Chỉ một khoảnh khắc được trao cho bạn. Bạn không thể có hai khoảnh khắc đồng thời, nên đừng lo lắng về hai khoảnh khắc. Bạn sẽ luôn luôn có duy nhất một khoảnh khắc. Và nếu bạn có thể nhận biết trong một khoảnh khắc, bạn có thể nhận biết cả cuộc đời mình. Bây giờ chỉ nỗ lực là cần đến, và điều này có thể được thực hành cả ngày. Bất cứ khi nào bạn nhớ thì hãy nhớ về chính mình.
Ôi đấng linh thiêng, cảm xúc ngọt ngào, khi hát ca, khi ngắm nhìn, khi nếm trải, hãy nhận biết bạn đang tồn tại và khám phá sự sống vĩnh hằng. Khi câu kinh nói, “Hãy nhận biết bạn đang tồn tại”, bạn sẽ làm gì? Bạn sẽ nhớ rằng, “Tên tôi là Ram” hay “Jesus” hay một cái gì đó khác? Bạn sẽ nhớ rằng bạn thuộc về một gia đình như thế và như thế, thuộc về một tôn giáo và truyền thống như thế và như thể? Thuộc về một quốc gia và đẳng cấp xã hội và tín ngưỡng như thế và như thế? Bạn sẽ nhớ rằng bạn là một người cộng sản hay một người Hindu hay một người Cơ đốc? Bạn sẽ nhớ gì?
Câu kinh nói hãy nhận biết bạn đang tồn tại; nó đơn giản chỉ nói, “Bạn tồn tại”. Không cần tên gọi, không cần quốc gia. Hãy chỉ đơn thuần là sự tồn tại: bạn đang tồn tại! Đừng nói với chính mình bạn là ai. Đừng trả lời rằng, “Tôi là thế này và thế kia”. Hãy chỉ đơn thuần là sự tồn tại, rằng bạn đang tồn tại.
Nhưng điều đó trở nên khó khăn bởi vì chúng ta không bao giờ nhớ đến sự tồn tại đơn thuần. Chúng ta luôn luôn nhớ một cái gì đó chỉ là một cái nhãn, mà không phải chính sự tồn tại. Bất cứ khi nào bạn nghĩ về mình, bạn nghĩ về tên bạn, tôn giáo, quốc gia, nhiều thứ, nhưng không bao giờ nghĩ về sự tồn tại đơn thuần mà bạn đang là.
Bạn có thể thực hành điều này: ngồi thư giãn trên ghế hay bên gốc cây, quên hết mọi thứ và hãy chỉ cảm nhận “sự tồn tại của bạn”. Không Cơ Đốc giáo, không Hindu giáo, không Phật giáo, không Ấn Độ, không Anh, không Đức - chỉ đơn giản bạn đang tồn tại. Hãy có sự cảm nhận về nó, và bạn sẽ dễ dàng nhớ điều câu kinh này nói: Hãy nhận biết bạn đang tồn tại và khảm phá sự sống vĩnh hằng. Và thời điểm bạn nhận biết rằng bạn đang tồn tại, bạn được quẳng vào dòng chảy của sự sống vĩnh hằng. Cái giả sẽ chết; chỉ cái thực sẽ giữ nguyên.
Đó là lý do tại sao chúng ta quá sợ hãi cái chết: bởi vì cái không thực sẽ chết. Cái không thực không thể tồn tại mãi, và chúng ta lại gắn bó với cái không thực, bị đồng nhất với cái không thực. Như là một người Hindu bạn sẽ phải chết; như là Ram hay Krishna bạn sẽ phải chết; như là một người cộng sản, như là một người vô thần, như là một người hữu thần, bạn sẽ phải chết; như là một cái tên và hình tướng bạn sẽ phải chết. Và nếu bạn gắn bó với tên gọi và hình tướng, rõ ràng nỗi sợ chết sẽ đến với bạn, nhưng cái thực, tính hiện sinh, cái nền tảng trong bạn, là bất tử. Một khi những hình tướng và những tên gọi bị lãng quên, một khi bạn có cái nhìn nội tại tới cái không có tên gọi và không có hình tướng, bạn đã đi vào vĩnh hăng.
Hãy nhận biết bạn đang tồn tại và khám phá sự sống vĩnh hằng: Kỹ thuật này là một trong những kỹ thuật hữu ích nhất, và nó đã được nhiều người thầy, nhiều bậc thầy sử dụng trong nhiều thiên niên kỷ. Đức Phật đã sử dụng nó, Mahavira đã sử dụng nó, Jesus đã sử dụng nó, và trong thời hiện đại Gurdjieff đã sử dụng nó. Đây là một kỹ thuật tiềm năng nhất trong tất cả các kỹ thuật. Hãy thử nó. Nó sẽ mất thời gian; sẽ mất nhiều tháng.
Khi Ouspensky đang học với Gurdjieff, ông đã rất nỗ lực, nỗ lực hết sức mình trong ba tháng liền để có được một sự thoáng qua về nhớ lại chính mình là gì. Ouspensky đã sống trong một ngôi nhà hẻo lánh chỉ để thực hành điều này suốt ba tháng liên tục - tự-nhớ. Có ba mươi người bắt đầu thử nghiệm đó, và cuối tuần đầu tiên, hai mươi bảy người đã bỏ cuộc; chỉ còn lại ba người. Cả ngày họ cố nhớ lại - không làm gì khác, chỉ nhớ lại rằng “Tôi tồn tại”. Hai mươi bảy người đã cảm thấy họ sắp hóa điên. Họ đã cảm thấy rằng lúc này sự điên khùng đang rất gàn, nên họ đã bỏ cuộc. Họ không bao giờ quay trở lại; họ không bao giờ gặp lại Gurdjieff nữa.
Tại sao? Sự thực là, như chúng ta đang tồn tại, chúng ta là điên khùng. Không nhớ lại chúng ta là ai, chúng ta là gì, thì chúng ta là điên khùng, nhưng sự điên khùng này lại được coi là lành mạnh. Một khi bạn cố quay trở lại, một khi bạn cố kết nối với cái thực, nó nhìn sẽ như điên khùng, như mất trí. So với những gì chúng ta đang là, nó chỉ là ngược lại, là đối nghịch. Nếu bạn cảm thấy rằng đây mới là lành mạnh, thì điều đó lại có vẻ là điên rồ.
Nhưng có ba người vẫn kiên trì. Một trong số đó là P.D. Ouspensky. Trong ba tháng họ vẫn kiên trì. Chỉ sau tháng đầu tiên họ đã bắt đầu có được những sự thoáng qua về bản thể đơn thuần - về “tôi đang tồn tại”. Sau tháng thứ hai, ngay cả “tôi” cũng bị bỏ rơi, và họ bắt đầu có những sự thoáng qua về sự “tồn tại ” - chỉ tồn tại, thậm chí không phải có "tôi", bởi vì “tôi” cũng là một cái nhãn. Bản thể tinh khiết không phải là “ta” và “ngươi ”; nó chỉ là sự tồn tại.
Và vào tháng thứ ba, ngay cả cảm nhận về sự “tồn tại” cũng đã tan biến, bởi vì cái cảm nhận về sự tồn tại đó vẫn còn là một từ ngữ. Rồi thậm chí từ đó cũng tan biến. Khi đó bạn tồn tại, và rồi bạn biết những gì là bạn. Trước khi thời điểm đó xuất hiện bạn không thể hỏi, “Ta là ai?” Hoặc bạn có thể liên tục hỏi, “Ta là ai?”, cứ liên tục tìm hiểu, “Ta là ai? Ta là ai?”, và với tất cả những câu trả lời do tâm trí sẽ đưa ra, bạn đều nhận thấy là sai, không thích đáng. Bạn vẫn cứ liên tục hỏi, “Ta là ai? Ta là ai? Ta là ai?”, và một thời điểm xuất hiện khi bạn không thể hỏi câu hỏi này nữa. Mọi câu trả lời đều biến mất, và khi đó chính câu hỏi cũng rơi rụng và biến mất. Và khi câu hỏi, “Ta là ai?” biến mất, thì bạn biết mình là ai.
Gurdjieff đã thử từ một góc độ: chỉ cố nhớ rằng bạn tồn tại. Raman Maharshi đã thử từ một góc độ khác. Ông đã biến điều đó thành một công án thiền để hỏi, để tìm hiểu, “Ta là ai?” Và không tin bất cứ câu trả lời nào mà tâm trí có thể đưa ra. Tâm trí sẽ nói, “Bạn đang hỏi điều vô nghĩa gì vậy? Bạn là cái này, bạn là cái kia, bạn là một người đàn ông, bạn là một người đàn bà, bạn có giáo dục và vô giáo dục, giàu hay nghèo”. Tâm trí sẽ đưa ra những câu trả lời, nhưng vẫn cứ hỏi. Đừng chấp nhận bất cứ câu trả lời nào, bởi tất cả những câu trả lời do tâm trí đưa ra đều là sai. Chúng xuất phát từ phần không thực của bạn. Chúng đến từ những ngôn từ, chúng đến từ các kinh sách, chúng đến từ sự huấn luyện, chúng đến từ xa hội, chúng đến từ những người khác. Hãy tiếp tục hỏi. Hãy để cho mũi tên “Ta là ai?” xuyên sâu hơn. Một thời điểm sẽ xuất hiện khi mà sẽ không có câu trả lời nào xuất hiện.
Đó chính là thời điểm thích hợp. Bây giờ bạn đang đến gần câu trả lời. Khi không có câu trả lời nào xuất hiện, bạn gần với câu trả lời bởi vì tâm trí đang trở nên im lặng - hoặc bạn đã đi xa khỏi tâm trí. Khi mà sẽ không có câu trả lời nào và xung quanh bạn một sự trống rỗng sẽ được tạo ra, thì việc hỏi của bạn có vẻ sẽ ngớ ngẩn. Bạn đang hỏi ai? Không có ai để trả lời. Đột nhiên, việc hỏi của bạn sẽ dừng lại. Với việc hỏi, phần cuối cùng của tâm trí đã tan biến bởi vì câu hỏi này cũng là của tâm trí. Những câu trả lời đó là của tâm trí và câu hỏi này cũng là của tâm trí. Cả hai đều đã tan biến, nên bây giờ bạn tồn tại.
Hãy thử điều này. Nếu bạn kiên trì thì rất có khả năng kỹ thuật này có thể mang đến cho bạn một sự thoáng qua về cái thực - và cái thực này là sự sống vĩnh hăng.
Kỹ thuật thứ hai:
Bất cứ ở đâu, trong bất cứ hoạt động nào thấy có sự mãn nguyện, hãy hiện thực hóa điều này.
Bạn cảm thấy khát nên bạn uống nước. Đã có được một sự thỏa mãn tinh tế. Hãy quên nước, hãy quên cơn khát. Giữ nguyên với sự thỏa mãn tinh tế mà bạn đang cảm thấy. Hãy tràn đầy cùng nó; hãy đơn thuần cảm thấy thỏa mãn.
Nhưng tâm trí con người lại tinh quái. Nó chỉ cảm thấy bất mãn, không bằng lòng. Nó không bao giờ cảm thấy mãn nguyện; nó không bao giờ cảm thấy bằng lòng. Nếu bạn bất mãn, bạn sẽ cảm thấy nó và bạn sẽ bị chìm trong nó. Khi bạn khát, bạn cảm thấy nó: bạn bị chìm trong cơn khát; bạn sẽ cảm thấy nó ở cổ họng. Nếu cơn khát tăng lên, bạn cảm thấy nó trong khắp cơ thể mình, và một thời điểm sẽ xuất hiện, khi đó không phải là bạn khát, mà bạn sẽ cảm thấy rằng bạn đã trở thành cơn khát. Nếu bạn đang ở trên sa mạc và không còn hy vọng có được nước, bạn sẽ không cảm thấy rằng bạn đang khát; mà bạn sẽ cảm thấy rằng bạn đã trở thành cơn khát.
Sự bất mãn được cảm nhận, đau khổ được cảm nhận, nỗi đau được cảm nhận. Bất cứ khi nào bạn đau khổ, bạn trở thành nỗi đau khổ đó. Chính vì vậy mà toàn bộ cuộc sống trở thành một địa ngục. Bạn chưa bao giờ cảm thấy điều tích cực; bạn luôn cảm thấy điều tiêu cực. Cuộc sống không phải là một sự đau khổ như chúng ta đã tạo ra nó; Sự đau khổ chỉ là sự diễn giải của chúng ta. Một vị Phật luôn hạnh phúc ở đây và bây giờ, trong chính cuộc đời này. Vị Krishna đang nhảy múa và thổi sáo. Trong chính cuộc đời này, ở đây và bây giờ, chúng ta thì đau khổ, còn Krishna lại đang nhảy múa. Cuộc sống không là đau khổ cũng không là hạnh phúc. Hạnh phúc và đau khổ là những diễn giải của chúng ta, những thái độ của chúng ta, những cách tiếp cận của chúng ta, cách chúng ta nhìn nhận nó. Đó là tâm trí bạn - cách nó nhìn nhận vấn đề.
Hãy nhớ lại và phân tích cuộc đời của bạn xem. Bạn đã bao giờ chú trọng những khoảnh khắc hạnh phúc, mãn nguyện, bằng lòng, những thoáng qua phúc lạc chưa? Bạn đã không hề chú trọng, nhưng bạn đã chú trọng đến nỗi đau, sự thống khổ, sự chịu đựng của mình, và bạn không ngừng tích lũy. Bạn là một địa ngục được tích lũy, và đây là sự lựa chọn của bạn. Không có ai khác đang bắt bạn xuống địa ngục này; đây là sự lựa chọn của bạn. Tâm trí chọn điều tiêu cực, tích lũy nó và tự trở nên tiêu cực. Và khi đó, đây là nỗi đau khổ tự kéo dài. Càng có nhiều tiêu cực trong tâm trí bạn, bạn càng trở nên tiêu cực, và càng nhiều tiêu cực được tích lũy. Đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu, và điều này đã tồn tại trong nhiều kiếp. Bạn bỏ lỡ mọi thứ do cách tiếp cận tiêu cực của mình.
Kỹ thuật này mang đến cho bạn một cách tiếp cận tích cực, một sự đảo ngược hoàn toàn với tâm trí thông thường và quá trình của nó. Bất cứ khi nào thấy có sự mãn nguyện, trong bất cứ hoạt động nào, thì hãy hiện thực hóa điều này, cảm nhận nó, trở thành một với nó. Đừng coi nó chỉ như là sự tình cờ. Sự mãn nguyện này có thể trở thành một sự thoáng qua về một tồn tại tích cực hơn.
Mọi thứ chỉ là một ô cửa. Nếu bạn trở nên đồng nhất với nỗi đau, bạn đang nhìn từ một ô cửa. Và ô cửa đau đớn này, ô cửa khổ đau này, chỉ mở ra tới địa ngục. Nếu bạn hòa làm một với một khoảnh khắc mãn nguyện, khoảnh khắc phúc lạc, khoảnh khắc mê say, bạn đang mở ô cửa khác. Tồn tại vẫn như vậy, nhưng ô cửa của bạn thì khác.
Bất cứ ở đâu, trong bất cứ hoạt động nào thấy có sự mãn nguyên, hãy hiện thực hóa nó - bất cứ ở đâu! Vô điều kiện: bất cứ ở đâu! Bạn nhìn thấy một người bạn và bạn cảm thấy hạnh phúc; bạn gặp người thân yêu hay người tình và bạn cảm thấy hạnh phúc: hãy hiện thực hóa điều này. Hãy hạnh phúc với thời điểm đó, và biến hạnh phúc đó thành một ô cửa. Thế thì bạn đang biến đổi tâm trí, và bạn sẽ bắt đầu tích lũy hạnh phúc. Tâm trí bạn sẽ trở nên tích cực, và vẫn thế giới này nhưng lại có vẻ khác đi.
Một nhà sư Zen, Bokuju, được cho là đã nói, “Thế gian vẫn như vậy, nhưng không có gì giữ nguyên, bởi vì tâm trí thay đổi. Mọi thứ vẫn giữ nguyên như vậy, nhưng không có gì như cũ, bởi vì tôi không còn như cũ nữa”.
Bạn cứ cố thay đổi thế gian, và dù bạn có làm gì thì thế gian sẽ vẫn giữ nguyên bởi vì bạn vẫn như thế. Bạn có thể có ngôi nhà to hơn, bạn có thể có chiếc xe hơi to hơn, bạn có thể có người vợ hay người chồng đẹp hơn, nhưng sẽ không có gì thay đổi. Ngôi nhà lớn hơn sẽ không là lớn hơn. Người vợ hay người chồng đẹp sẽ không là đẹp hơn. Chiếc xe hơi to hơn sẽ vẫn là chiếc xe hơi nhỏ hơn bởi vì bạn vẫn vậy. Tâm trí bạn, cách tiếp cận của bạn, cách bạn nhìn vẫn như vậy. Bạn liên tục thay đổi mọi thứ mà lại không thay đổi chính mình. Cho nên chỉ là một người đau khổ rời túp lều và đi tới lâu đài, nhưng người đau khổ này vẫn giữ nguyên. Anh ta đã đau khổ trong một túp lều; bây giờ anh ta sẽ đau khổ trong một lâu đài. Nỗi đau khổ này có thể như cung điện, nhưng anh ta sẽ đau khổ.
Bạn cứ mang bên mình nỗi đau khổ của mình, và cho dù bạn có đi bất cứ nơi đâu, bạn vẫn sẽ cùng với chính mình. Thế nên, về cơ bản không có sự thay đổi bên ngoài nào là một sự thay đổi; đó chỉ là một biểu hiện bên ngoài. Bạn đơn giản cảm thấy rằng đã có một sự thay đổi, nhưng không có sự thay đổi nào. Chỉ có thể có một sự thay đổi, một cuộc cách mạng, một sự biến đổi, và đó là tâm trí bạn biến đổi từ tiêu cực thành tích cực. Nếu cái nhìn của bạn tập trung vào đau khổ, thì bạn sống trong địa ngục; nếu cái nhìn của bạn tập trung vào hạnh phúc, thì chính địa ngục này trở thành thiên đường. Hãy thử điều này! Điều này sẽ thay đổi chính phẩm chất cuộc sống của bạn.
Nhưng bạn lại quan tâm đến định lượng. Bạn quan tâm đến cách làm sao giàu hơn - về định lượng, chứ không về định tính. Bạn có thể có hai ngôi nhà, hai chiếc xe hơi, một ngân khoản kếch xù, nhiều thứ. Định lượng thay đổi: nó trở nên nhiều hơn và nhiều hơn. Nhưng phẩm chất của bạn vẫn giữ nguyên, và sự giàu có không thuộc về những thứ vật chất. Sự giàu có thuộc về phẩm chất của tâm trí bạn, thuộc về cuộc sống của bạn. Liên quan đến phẩm chất thì ngay cả một người nghèo cũng có thể là một người giàu, và thậm chí một người giàu có cũng có thể là một người nghèo. Hầu hết trường hợp luôn luôn là thế này, vì người nào quan tâm đến những thứ vật chất và định lượng thì hoàn toàn không biết rằng có một chiều hướng khác trong mình - chiều hướng phẩm chất. Và chiều hướng đó thay đổi chỉ khi tâm trí bạn là tích cực.
Từ sáng mai, hãy nhớ điều này trong suốt cả ngày: bất cứ khi nào bạn cảm thấy một cái gì đó đẹp, mãn nguyện, một cái gì đó vui sướng - và có nhiều khoảnh khắc trong hai mươi bốn giờ - hãy nhận biết nó. Có nhiều khoảnh khắc thiên đường ngay bên bạn, nhưng bạn lại quá bị thu hút và dính líu đến địa ngục đến mức bạn liên tục bỏ lỡ nó. Mặt trời mọc, những bông hoa nở, những chú chim đang ca hót và ngọn gió nhẹ thổi qua rặng cây. Nó đang diễn ra! Một đứa trẻ nhỏ nhìn bạn với ánh mắt hồn nhiên, và một cảm giác vui vẻ tinh tế lan sang bạn; hay ai đó mỉm cười và bạn cảm thấy vui.
Hãy nhìn xung quanh xem và cố tìm ra niềm vui sướng; hãy tràn ngập niêm vui. Trong khoảnh khắc đó hãy quên đi mọi thứ. Hãy ngập tràn trong nó, nếm trải nó, và cho phép nó lan tỏa tới toàn bộ con người bạn. Hãy là một với nó. Hương thơm của nó sẽ theo bạn. Nó sẽ tiếp tục ngân lên trong bạn cả ngày, và cảm giác về âm vang đó, tiếng vọng đó sẽ giúp bạn trở nên tích cực hơn.
Điều này được đọng lại. Nếu bạn bắt đầu vào buổi sáng, buổi tối bạn sẽ cởi mở hơn với những vì sao, với trăng, với màn đêm, với cả bóng tối. Hãy thực nghiệm điều đó hai mươi bốn giờ, chỉ để cảm nhận xem nó như thế nào. Một khi bạn có thể cảm thấy rằng sự tích cực đưa bạn tới một thế giới khác bởi bạn đã khác đi, thì bạn sẽ không rời nó. Toàn bộ sự chú trọng sẽ thay đổi từ tiêu cực sang tích cực. Thế rồi bạn nhìn thế giới theo một cách mới khác.
Tôi nhớ lại một giai thoại. Một trong những môn đệ của Đức Phật rời người thầy của mình. Tên của người môn đệ đó là Purnakashayapa. Ông đã hỏi Phật, “Tôi đi đâu? Tôi phải đi đâu để giảng thông điệp của thầy?”
Phật nói, “Ông có thể tự mình chọn ở đâu mà”.
Thấy vậy ông ấy nói, “Tôi sẽ đi đến một nơi hẻo lánh của Bihar” - đó là Sukha - “Tôi sẽ đi tới tỉnh Sukha”.
Phật nói, “Tốt hơn là ông nên thay đổi sự lựa chọn của mình, bởi vì người ở tỉnh đó rất bạo lực, hung hãn, tinh quái, và không có ai từng dám tới đó để giảng cho họ về phi-bạo lực, tình yêu, lòng từ bi. Thế nên hãy thay đổi sự lựa chọn của ông”.
Nhưng Purnakashyapa nói, “Hãy cho phép tôi tới đó, bởi vì chưa có ai đã tới đó, và một người nào đó phải tới đó”.
Phật nói, “Vậy tôi sẽ hỏi ông ba câu hỏi trước khi tôi cho phép ông đi. Nếu người ở tỉnh đó xi nhục ông, khiêu khích ông, ông sẽ cảm thấy thế nào?”.
Purnakashyapa nói, “Tôi sẽ cảm thấy họ rất tốt nếu họ chỉ đơn thuần là xúc phạm tôi. Vậy là họ không đánh tôi. Họ là những người tốt; họ có thể đánh tôi mà”.
Phật nói, “Thế thì câu hỏi thứ hai: nếu họ bắt đầu đánh ông, ông sẽ cảm thấy thế nào?”
Purnakashyapa nói, “Tôi sẽ cảm thấy họ là những người rất tốt. Họ có thể đã giết tôi, nhưng họ chỉ đang đánh tôi”.
Thế rồi Phật nói, “Bây giờ là câu hỏi thứ ba: nếu họ thực sự hại ông và kết liễu ông, vậy lúc ông đang hấp hối, ông sẽ cảm thấy thế nào?”
Purnakashyapa nói, “Tôi sẽ cám ơn thầy và họ. Nếu họ giết tôi, họ sẽ giúp tôi tự do khỏi cuộc sống mà có thể có nhiều lỗi lầm. Họ sẽ giúp tôi tự do nên tôi sẽ cảm thấy biết ơn”.
Thế nên Phật nói, “Bây giờ ông có thể đi bất cứ đâu. Với ông cả thế giới này là thiên đường. Bây giờ không còn vấn đề nào. Thế giới này là một thiên đường, nên ông có thể đi bất cứ đâu”.
Với tâm trí của Purnakashyapa, không có gì sai với thế gian. Với tâm trí bạn, không gì có thể là đúng. Với tâm trí tiêu cực, mọi thứ đều sai - không phải là mọi thứ đều sai; mà bởi vì một tâm trí tiêu cực chỉ có thể nhìn thấy những sự sai sót.
Bất cứ ở đâu, trong bất cứ hoạt động nào thay có sự mãn nguyện, hãy hiện thực hóa điều này: Đây là một quá trình rất mong manh, nhưng cũng rất ngọt ngào, và bạn càng thực hành nó nhiều, nó càng trở nên ngọt ngào hơn. Bạn sẽ được đong đầy với vị ngọt và hương thơm mới. Chỉ tìm kiếm cái đẹp; quên đi cái xấu. Thế rồi đến lúc cái xấu cũng trở thành cái đẹp. Chỉ quan tâm đến phút giây hạnh phúc, và sẽ tới lúc không có gì để bạn có thể gọi là bất hạnh. Khi đó không còn giây phút bất hạnh nào nữa. Hãy quan tâm tới hạnh phúc, và sớm hay muộn sẽ không còn đau khổ. Mọi thứ sẽ hóa đẹp bởi một tâm trí tích cực.
Kỹ thuật thứ ba:
Lúc sắp rơi vào giấc ngủ, khi sự tỉnh táo bên ngoài đã biến mất nhưng giấc ngủ còn chưa đến, tại thời điểm này bản thể được tiết lộ.
Có một số điểm ngoặt trong ý thức bạn. Ở những điểm ngoặt này bạn ở gần trung tâm của mình hơn so với những thời điểm khác. Bạn sang số, và bất cứ khi nào bạn sang số, bạn cũng phải trả về số không. Số không đó gần hơn. Vào buổi sáng, khi giấc ngủ đang tan biến, và bạn vừa thức giấc, nhung vẫn chưa tỉnh hẳn, chỉ đang ở lưng chừng, bạn đang ở số không.
Có một thời điểm, khi đó bạn không ngủ nhưng cũng không thức, chỉ mơ mơ màng màng. Khi đó, bạn đang ở số không. Từ ngủ tới thức, ý thức bạn thay đổi toàn bộ cơ chế. Nó chuyển từ cơ chế này sang cơ chế khác. Giữa hai cơ chế này không có cơ chế nào; chỉ có một khoảng trống. Thông qua khoảng trống đó bạn có thể có một sự thoáng qua về bản thể mình. Trong đêm, điều tương tự xảy ra khi bạn lại chuyển từ cơ chế thức sang cơ chế ngủ, từ ý thức tới vô thức. Chỉ trong một khoảnh khắc không có cơ chế nào điều khiển bạn, bởi vì bạn phải thực hiện cú nhảy từ cơ chế này sang cơ chế khác. Nếu bạn có thể tỉnh táo, nếu bạn có thể trở nên nhận biết tại khoảng giữa hai cơ chế này, nếu bạn có thể nhớ lại chính mình tại khoảng giữa hai cơ chế này, thì bạn sẽ có một sự thoáng qua về con người thực của bạn.
Làm sao thực hiện được điều đó? Trong khi đi ngủ, hãy thư giãn. Nhắm mắt lại, che căn phòng lại cho tối. Chỉ nhắm mắt lại và bắt đầu chờ đợi. Giấc ngủ đang đến; chỉ chờ, đừng làm bất cứ điều gì, chỉ chờ! Cơ thể bạn đang thư giãn, cơ thể bạn trở nên nặng nề: hãy cảm nhận nó. Hãy cảm nhận nó. Giấc ngủ cũng có cơ chế riêng của nó, nó bắt đầu làm việc. Ý thức tỉnh táo của bạn đang biến dần. Nên nhớ, thời điểm này sẽ rất tinh tế và thời điểm này sẽ như nguyên tử. Nếu bạn bỏ qua, bạn bị lỡ. Nó không phải là một chu kỳ dài - chỉ một khoảnh khắc, một khoảng trống rất nhỏ, và bạn sẽ thay đổi từ thức tới ngủ. Chỉ chờ, hoàn toàn nhận biết. Tiếp tục chờ. Điều này sẽ mất thời gian. Sẽ mất ít nhất ba tháng. Chỉ khi đó, vào một ngày bạn có thể có sự thoáng qua về thời điểm mà nó ở ngay trung gian. Cho nên đừng vội vã. Bạn không thể thực hiện điều đó ngay bây giờ; bạn không thể thực hiện điều đó tối nay. Nhưng bạn phải bắt đầu và bạn cỏ thể phải chờ nhiều tháng.
Thông thường, trong vòng ba tháng, vào một ngày nó xảy ra. Nó đang xảy ra hàng ngày, nhưng sự nhận biết của bạn và cuộc gặp với khoảng trống không thể được lên kế hoạch. Nó là một sự kiện. Bạn cứ chờ đợi, và vào một ngày nó xảy ra. Một ngày nào đó, bỗng nhiên bạn trở nên nhận ra rằng bạn không thức cũng không ngủ - một hiện tượng rất khác thường. Thậm chí bạn có thể trở nên sợ hãi, bởi vì bạn đã biết chỉ hai điều: bạn biết khi nào bạn ngủ, bạn biết khi nào bạn thức. Nhưng bạn không biết điểm thứ ba trong con người mình khi đó bạn không là cả hai. Với sự ảnh hưởng đầu tiên của nó, có thể bạn trở nên sợ sệt và kinh hãi. Đừng kinh hãi và đừng sợ sệt. Bất cứ điều gì quá mới, chưa biết trước đó, thì buộc phải gây ra một nỗi sợ nào đó, bởi khi bạn trải nghiệm đi trải nghiệm lại thời điểm đó, nó cũng sẽ mang đến cho bạn một cảm giác khác nữa: rằng bạn không sống cũng không chết, không cái này cũng không cái kia. Đấy chỉ là một vực rỗng.
Hai cơ chế này giống như hai ngọn đồi; bạn nhảy từ đỉnh này sang đỉnh kia. Nếu bạn giữ nguyên ở giữa, bạn rơi vào vực thẳm, và vực thẳm này không có đáy: bạn cứ rơi mãi. Các vị Sufi đã sử dụng kỹ thuật này, và trước khi họ trao kỹ thuật này cho một người tìm kiếm, họ đưa ra một bài thực hành khác vì sự an toàn. Bất cứ khi nào kỹ thuật này được đưa ra bởi hệ thống Sufi, trước đó một bài thực hành khác cũng được đưa ra, và đó là hãy nhắm mắt và tưởng tượng rằng bạn đang rơi xuống một cái giếng sâu - tối đen, sâu thẳm và không có đáy. Chỉ tưởng tượng đang rơi vào một cái giếng sâu - rơi và rơi, rơi mãi. Không có đáy, bạn không thể chạm tới đáy. Lúc này sự rơi này không thể dừng lại ở bất cứ đâu. Bạn có thể dừng lại; bạn có thể mở mắt ra và nói không rơi nữa, nhưng sự rơi này tự nó không thể dừng lại. Nếu bạn tiếp tục, giếng này là không đáy, và nó càng lúc càng tối hơn.
Trong các hệ thống Sufi, bài thực hành giếng này - bài thực hành giếng không đáy, tối đen này - là bài thực hành đầu tiên. Nó tốt, hữu ích. Nếu bạn đã thực hành nó và bạn đã nhận ra vẻ đẹp của nó, sự tĩnh lặng của nó, thì bạn càng đi sâu hơn xuống giếng bạn càng trở nên tĩnh lặng hơn. Thế gian bị bỏ lại xa phía sau, và bạn cảm thấy rằng mình đã đi xa, rất xa, xa mãi. Sự tĩnh lặng lớn lên cùng bóng tối, và độ sâu không đáy. Nỗi sợ xuất hiện với tâm trí bạn, nhưng bạn biết rằng đây chỉ là sự tưởng tượng nên bạn có thể tiếp tục.
Thông qua bài thực hành này, bạn trở nên có khả năng về kỹ thuật này, và sau đó, khi bạn rơi vào khoảng trống giữa thức và ngủ, thì đó không phải là sự tưởng tượng; nó là một thực tế thực sự. Và nó là không đáy, vực thẳm này là không đáy. Chính vì vậy mà Đức Phật đã gọi cái không này là sự trống rỗng - shunya. Với nó không có kết thúc. Một khi bạn biết nó, bạn cũng trở nên vô hạn. Trong lúc thức khó mà có được sự thoáng qua này. Và tất nhiên, trong lúc bạn đang ngủ nó lại càng không thể, bởi vì khi đó cơ chế ngủ đang hoạt động, và khó tách bạn ra khỏi cơ chế này. Nhưng có một thời điểm vào buổi tối và một thời điểm khác vào buổi sáng - trong hai mươi bốn giờ có hai thời điểm này - khi đó rất dễ, nhưng người ta phải chờ đợi.
Lúc sắp rơi vào giấc ngủ, khi sự tỉnh táo bên ngoài đã biến mất nhưng giấc ngủ còn chưa đến, tại thời điểm này bản thể được tiết lộ: Khi đó bạn biết mình là ai, con người thực của bạn là gì, sự sống đích thực của bạn là gì. Chúng ta là giả trong lúc chúng ta thức, và bạn biết rõ điều đó. Bạn là giả khi bạn đang thức. Bạn cười trong khi những giọt lệ của bạn có lẽ còn thực hơn. Những giọt nước mắt của bạn cũng không đáng tin. Chúng có thể chỉ là mẽ ngoài, nghi thức, bổn phận. Nụ cười của bạn là giả, và những người nghiên cứu về khuôn mặt có thể nói rằng nụ cười của bạn chỉ là một kiểu cười được tô vẽ. Nó không có chiều sâu; nụ cười này chỉ trên nét mặt bạn, chỉ trên đôi môi bạn. Nó không ở nơi nào trong con người ban. Nó không có gốc rễ, không có cành nhánh. Nó được áp đặt. Nụ cười này đang không lan tỏa từ bên trong ra bên ngoài; nụ cười này là sự gượng ép bên ngoài.
Dù bạn nói hay làm gì thì cũng đều là giả, và công việc giả tạo trong cuộc sống mà bạn đang làm một cách chủ tâm này là điều không cần thiết! Có lẽ bạn hoàn toàn không nhận biết - và bạn là như thế! Nếu không sẽ rất khó khi cứ phải làm những điều giả dối vô nghĩa như thế. Nó là tự động. Cái giả này diễn ra trong khi bạn thức, và nó tiếp tục ngay cả lúc bạn đang ngủ - tất nhiên là theo một cách khác. Những giấc mơ của bạn cũng chỉ mang tính biểu tượng, chúng không thực. Thật ngạc nhiên là ngay cả trong giấc mơ của mình bạn cũng không thực, ngay cả trong mơ bạn cũng sợ hãi, và bạn tạo ra những biểu tượng.
Ngày nay phân tâm học vẫn tiếp tục làm công việc phân tích giấc mơ của bạn. Họ có một công việc rất lợi lộc, bởi vì bạn không thể phân tích những giấc mơ của mình. Chúng chỉ mang tính biểu tượng, chúng không thực. Họ chỉ nói một cái gì đó theo cách ẩn dụ. Nếu bạn muốn sát hại mẹ bạn và thoát khỏi bà ấy, bạn sẽ không giết bà thậm chí trong giấc mơ của bạn. Bạn sẽ giết ai đó khác nhìn giống mẹ bạn. Bạn sẽ giết dì bạn hay ai đó khác, chứ không phải mẹ bạn. Ngay cả trong giấc mơ bạn cũng không thể là thực. Khi đó phân tâm học được cần đến; một nghề được cần đến để diễn giải - nhưng bạn có thể mô tả toàn bộ vấn đề theo cách mà thậm chí phân tâm học cũng bị đánh lừa.
Những giấc mơ của bạn cũng hoàn toàn là giả. Nếu bạn là thực trong lúc thức thì những giấc mơ của bạn sẽ là thực. Chúng sẽ không là biểu tượng. Nếu bạn muốn giết mẹ mình thì bạn sẽ thấy một giấc mơ bạn giết mẹ mình, và sẽ không cần đến người diễn giải để chỉ cho bạn thấy giấc mơ của bạn có ý nghĩa gì. Nhưng chúng ta quá giả dối. Trong mơ bạn chỉ có một mình, nhưng vẫn sợ thế gian và xã hội.
Giết mẹ là một tội ác ghê tởm nhất, và tôi tự hỏi bạn đã bao giờ nghĩ rằng tại sao giết một người mẹ lại là tội ác ghê tởm nhất. Nó là tội ác ghê tởm nhất bởi vì mọi người đều cảm thấy một sự thù hằn sâu đậm đối với mẹ mình. Đó là tội ác ghê tởm nhất, và nó được dạy, tâm trí bạn được huấn luyện rằng ngay cả nghĩ đến việc làm tổn hại mẹ bạn cũng là một tội ác. Bà ấy đã sinh ra bạn. Trên khắp thế giới, trong mọi xã hội, điều đó được dạy. Không có một xã hội nào trên trái đất mà không đồng ý rằng giết mẹ là tội ác ghê tởm nhất. Bà ấy đã sinh ra bạn và bạn lại giết bà?
Nhưng tại sao lại có lời dạy này? Có khả năng từ sâu bên trong rằng mọi người chống lại mẹ mình là một sự cần thiết - bởi vì bà ấy không chỉ sinh ra bạn, bà cũng còn là công cụ biến bạn thành giả; bà cũng đã là công cụ ép buộc bạn sống không thực. Dù bạn cố là gì thì chính mẹ bạn đã làm cho bạn thành như thế. Nếu bạn là một địa ngục, bà có một phần trong nó, phần lớn nhất. Nếu bạn đau khổ, mẹ bạn cũng hiện diện ở nơi nào đó, ẩn chứa bên trong bạn bởi vì mẹ là người đã sinh ra bạn, đã nuôi dưỡng bạn - hoặc, thực ra là bà đã kéo bạn “rơi khỏi” thực tại của bạn. Bà đã biến bạn thành giả. Cái không thật đầu tiên đã xảy ra giữa bạn và mẹ bạn; lời nói dối đầu tiên đã xảy ra giữa bạn và mẹ bạn - lời nói dối đầu tiên!
Ngay cả khi không có ngôn ngữ và đứa trẻ không thể nói, nó vẫn có thể nói dối. Sớm hay muộn đứa trẻ cũng trở nên nhận ra rằng nhiều cảm xúc của nó không được mẹ mình chấp nhận. Gương mặt bà, ánh mắt bà, hành vi của bà, tâm trạng bà, mọi thứ đều cho thấy có một cái gì đó trong nó không được chấp nhận, không được đánh giá đúng. Thế rồi nó bắt đầu kìm nén. Một cái gì đó sai. Chưa có ngôn ngữ; tâm trí nó còn chưa hoạt động. Nhưng toàn bộ cơ thể nó bắt đầu kìm nén. Thế rồi nó bắt đầu cảm thấy rằng đôi khi mẹ khen nó vì một điều gì đó. Nó phụ thuộc vào người mẹ, cuộc đời nó phụ thuộc vào người mẹ. Nếu người mẹ bỏ nó, nó sẽ không còn nữa. Toàn bộ sự sống của nó tập trung vào người mẹ.
Mọi thứ người mẹ thể hiện, làm, nói, hành xử, đều có ý nghĩa. Nếu đứa trẻ cười, và người mẹ ôm chặt lấy nó, yêu nó, truyền cho nó hơi âm, cho nó bú, nó đang học được mánh lới chính trị. Nó sẽ cười trong lúc nó không có gì để cười, bởi vì bây giờ nó biết mình có thể thuyết phục được người mẹ. Nó sẽ cười một nụ cười giả. Khi đó kẻ dối trá ra đời; kẻ chính trị đã hình thành. Bây giờ nó biết làm sao để giả dối, và nó học được điều này từ mối quan hệ giữa nó với mẹ nó. Đây là mối quan hệ đầu tiên với thế gian. Khi nó trở nên nhận thức được nỗi đau khổ của mình, địa ngục của mình, những rối loạn của mình, nó sẽ nhận ra rằng mẹ nó ẩn ở đâu đó trong những chuyện này.
Rất có khả năng rằng có thể bạn cảm thấy không thân thiện với mẹ mình. Chính vì vậy mà mọi nền văn hóa đều cho rằng rằng giết mẹ là một tội ác ghê tởm nhất. Thậm chí trong ý nghĩ, trong giấc mơ, bạn cũng không thể giết mẹ mình. Tôi đang không nói rằng bạn nên giết bà ấy, tôi chỉ đang nói rằng những giấc mơ của bạn cũng là giả - biểu tượng, không thực. Bạn quá giả dối đến mức bạn không thể mơ một giấc mơ thực.
Đây là hai bộ mặt giả của chúng ta: một là khi bạn đang thức, một là khi bạn đang ngủ. Nhưng giữa hai bộ mặt giả này có một ô cửa rất nhỏ, một khoảng trống. Trong khoảng trống đó bạn có thể có một sự thoáng qua về bộ mặt nguyên thủy của mình, khi đó bạn chưa liên quan tới mẹ bạn, và với xã hội thông qua người mẹ; khi đó bạn một mình với chính mình; khi đó bạn tồn tại - không là cái này và cái kia, không có sự phân chia. Chỉ có cái thực; không có cái không thực. Bạn có thể có một sự thoáng qua về bộ mặt đó, bộ mặt hồn nhiên đó tại khoảng trống giữa hai cơ chế này.
Thông thường, chúng ta không quan tâm đến những giấc mơ, chúng ta quan tâm đến những lúc chúng ta thức. Nhưng phân tâm học lại quan tâm nhiều đến những giấc mơ của bạn, mà không quan tâm đến những lúc bạn thức, bởi vì nó cảm thấy rằng trong khi thức bạn là một kẻ nói dối nhiều hơn. Trong những giấc mơ một cái gì đó có thể nắm bắt được. Bạn ít nhận biết hơn khi bạn đang ngủ, và bạn đang không ép buộc mọi thứ, bạn đang không thao túng. Khi đó một cái gì đó thực có thể được nắm bắt. Bạn có thể là một người độc thân, một thầy tu trong lúc bạn thức, nhưng bạn đã kìm nén sự ham muốn tình dục. Thế thì nó sẽ tự áp đặt lên những giấc mơ của bạn; những giấc mơ của bạn sẽ trở nên dục tính. Thật khó tìm thấy một thầy tu mà không có những giấc mơ tình dục - đúng hơn là không thể. Bạn có thể tìm thấy một kẻ tội phạm không có những giấc mơ tình dục, nhưng bạn không thể tìm ra một người mộ đạo mà lại không có những giấc mơ tình dục. Một người trác táng có thể không có những giấc mơ tình dục, nhưng cái gọi là những vị thánh thì không thể, bởi vì bất cứ điều gì bạn nén xuống trong khi bạn đang thức thì sẽ hiện lên trong những giấc mơ của bạn, và sẽ tô điểm cho những giấc mơ của bạn.
Các nhà phân tâm học không quan tâm đến đến cuộc sống khi thức của bạn, bởi vì họ biết nó là hoàn toàn giả. Nếu có thể thoáng thấy một cái gì đó thực, thì nó chỉ có thể thoáng hiện trong những giấc mơ của bạn. Nhưng tantra nói rằng thậm chí những giấc mơ cũng không thực lắm. Chúng thực hơn - và điều này có vẻ sẽ mâu thuẫn, bởi vì chúng ta nghĩ rằng những giấc mơ là không thực - chúng chỉ thực hơn so với những lúc bạn thức, bởi vì khi đó bạn ít cảnh giác hơn. Sự giám sát đang ngủ, và nhiều điều có thể xuất hiện, và cái bị kìm nén có thể tự bộc lộ - tất nhiên chúng chỉ có tính biểu tượng, nhưng những biểu tượng cũng có thể được phân tích.
Và trên khắp thế giới những biểu tượng của con người đều như nhau. Bạn có thể nói một ngôn ngữ khác trong lúc thức, nhưng trong lúc mơ bạn nói cùng một thứ ngôn ngữ. Trên khắp thế giới, ngôn ngữ mơ này là duy nhất. Nếu tình dục bị kìm nén, thì những biểu tượng tương tự sẽ hiện ra. Nếu sự thôi thúc về thực phẩm, về ăn uống, về cơn đói bị kìm nén, thì những biểu tượng tương tự sẽ xuất hiện. Ngôn ngữ mơ chỉ có một, nhưng trong những giấc mơ vẫn có những vấn đề, bởi vì chúng là biểu tượng. Và vị Freud có thể diễn giải chúng theo cách khác, vị Jung theo cách khác và vị Adler theo cách khác nữa. Và nếu bạn được một trăm nhà phân tâm học phân tích thì sẽ có một trăm diễn giải. Bạn sẽ bị bối rối hơn trước đó, bối rối hơn với một trăm sự giải thích về một vấn đề.
Tantra nói bạn chỉ thực khi đang không thức cũng như đang không ngủ. Bạn chỉ thực khi ở giữa. Cho nên đừng quan tâm tới thức, và đừng quan tâm tới mơ và ngủ. Hãy quan tâm tới khoảng trống; hãy nhận biết về khoảng trống. Trong lúc trải qua trạng thái này tới trạng thái khác thì có một sự thoáng qua. Và một khi bạn biết khi nào thì khoảng trống xuất hiện, bạn trở thành người làm chủ nó. Bạn có được chìa khóa; bất cứ lúc nào bạn cũng có thể mở khoảng trống đó ra và đi vào nó. Một chiều hướng khác của con người, chiều hướng thực, mở ra.
Kỹ thuật thứ tư, kỹ thuật cuối cùng:
Những ảo tưởng đánh lừa, những sắc màu bao quanh, ngay cả cái có thể phân chia lại là không thể chia.
Đây là một kỹ thuật hiếm hoi, không được sử dụng nhiều, nhưng một trong những bậc thầy vĩ đại nhất Ấn Độ, Shankara, đã sử dụng nó, và Shankara đã đặt toàn bộ triết lý của mình trên nền kỹ thuật này. Bạn biết triết lý của ông về maya - ảo tưởng. Shankara nói mọi thứ đều là ảo tưởng. Bất cứ điều gì bạn đang nhìn thấy, đang nghe thấy, đang cảm thấy, tất cả đều là ảo tưởng.
Nó không thực bởi vì cái thực không thể được tiếp xúc bởi các giác quan. Bạn đang nghe tôi và tôi đang nhìn thấy bạn đang nghe tôi: đó có thể chỉ là một giấc mơ, và không có cách nào để xét xem nó có phải là một giấc mơ hay không. Có thể tôi chỉ đang mơ rằng bạn đang nghe tôi ở đây. Làm sao tôi biết rằng đây là thực hay mơ? Không có cách nào.
Có câu chuyện kể rằng vào một đêm Trang Tử đã mơ mình trở thành một con bướm. Vào buổi sáng ông rất buồn - và ông không phải là một người hay buồn, ông không bao giờ biết đến buồn. Các môn đệ của ông tập trung lại và nói, “Thưa Bậc thầy, thưa Trang Tử, sao thầy lại buồn thế?”
Trang Tử nói, “Vì một giấc mơ”.
Các môn đệ cười và nói, “Chỉ vì một giấc mơ mà thầy buồn sao - thầy đã luôn dạy chúng tôi không được buồn, ngay cả nếu cả thế gian này làm cho mình buồn? Và chỉ một giấc mơ đã làm cho thầy buồn sao? Thầy đang nói gì vậy?”.
Trang Tử nói, “Đó là một giấc mơ mà nó làm cho tôi rất, rất bối rối, buồn, đau khổ. Tôi đã mơ rằng tôi đã trở thành một con bướm”.
Các môn đệ nói, “Vậy điều gì gây bối rối đến thế?”
Trang Tử nói, “Bây giờ đây chính là điều rắc rối: nếu Trang Tử có thể mơ rằng ông có thể trở thành một con bướm, tại sao lại không ngược lại? Con bướm đó có thể mơ rằng nó đã trở thành một Trang Tử. Thế nên giờ đây tôi mới bối rối. Cái gì đúng và cái gì sai? Đâu là thực và đâu là không thực? Có phải Trang Tử là người đã mơ trở thành con bướm hay lúc này con bướm đã đi ngủ và đã mơ rằng nó đã trở thành một Trang Tử? Nếu điều này là có thể thì điều kia cũng là có thể”. Và người ta nói rằng Trang Tử không bao giờ có thể giải quyết được vấn đề rắc rối này. Nó còn nguyên trong suốt cuộc đời ông.
Làm sao để xác quyết rằng tôi không trong mơ khi đang nói chuyện với bạn? Làm sao quyết định được rằng tôi đang nói khi bạn đang không mơ? Với các giác quan thì không thể có quyết định nào, bởi vì trong lúc mơ, giấc mơ có vẻ như thực - thực như bất cứ thứ gì. Khi bạn mơ, bạn luôn cảm thấy nó là thực. Khi những giấc mơ có thể được cảm thấy như là thực, vậy sao thực tại lại không thể được cảm thấy như là mơ?
Shankara nói, với các giác quan thì không thể biết sự vật trước bạn là thực hay không thực. Và nếu không thể biết nó là thực hay không thực, Shankara gọi nó là maya: nó là ảo tưởng. Ảo tưởng không có nghĩa là không thực. Ảo tưởng có nghĩa là không thể quyết định nó là thực hay không thực - nên nhớ điều này.
Trong các ngôn ngữ phương Tây, maya đã được dịch rất sai, và theo những thuật ngữ phương Tây, nó cho cảm giác rằng “ảo tưởng” có nghĩa là “không thực”. Không phải vậy! “Ảo tưởng” có nghĩa là không thể quyết định điều này là thực hay không. Sự bối rối này là maya.
Cả thế giới này là maya, một sự bối rối. Bạn không thể quyết định; bạn không thể dứt khoát về nó. Nó đang luôn né tránh bạn, đang luôn thay đổi, đang biến thành một cái gì đó khác. Nó là sự tưởng tượng, một thứ như mơ. Kỹ thuật này liên quan với triết lý này. Những ảo tưởng dối lừa hay, cái thứ đánh lừa là ảo tưởng - những sắc màu bao quanh, ngay cả cái có thể phân chia lại là không thể chia: trong thế giới ảo tưởng này không có gì là chắc chắn. Cả thế giới này giống như những cầu vồng. Chúng có vẻ như thế nhưng lại không phải thế. Nếu bạn ở rất xa, chúng là thế, nhưng nếu bạn đển gần hơn, chúng tan biến. Bạn đến gần hơn, chúng không còn nữa. Nếu bạn tới một điểm nơi mà bạn đã nhìn thấy một cầu vồng, thì nó không còn nữa.
Cả thế giới này giống như những sắc màu cầu vồng, và nó là vậy. Khi bạn ở rất xa, mọi thứ đều là hy vọng; khi bạn đến gần hơn hy vọng biến mất. Và khi bạn chạm tới mục tiêu, chỉ còn lại tro tàn - chỉ là một cầu vồng chết. Những sắc màu đã biến mất, và những thứ chúng đã biểu hiện thì không còn nữa. Khi bạn cảm thấy chúng tồn tại, chúng không còn.
Ngay cả cái có thể phân chia lại là không thể chia: Toàn bộ toán học của bạn, toàn bộ hệ thống tính toán của bạn, mọi khái niệm của bạn, mọi triết lý của bạn, trở nên phù phiếm. Nếu bạn cố hiểu ảo tưởng này thì chính nỗ lực lại làm cho bạn bối rối hơn. Không cố gì chắc chắn; mọi thứ đều không chắc chắn - một dòng chảy thay đổi liên tục, bạn không thể quyết định cái này hay cái kia là thật hay giả. Điều gì sẽ xảy ra? Nếu bạn có thái độ này, điều gì sẽ xảy ra? Nếu bạn thực sự đi sâu vào thái độ này rằng mọi thứ không thể được quyết định đều là ảo tưởng, thì bạn sẽ tự động quay vào chính mình ngay lập tức. Thế rồi chỉ có một điểm duy nhất, nơi bạn có thể có một trung tâm là bên trong con người bạn. Điều đó là chắc chắn.
Cố gắng hiểu điều này: Trong đêm tôi có thể mơ rằng tôi đã trở thành một con bướm, và tôi không thể quyết định trong giấc mơ đó răng điều này là thực hay không thực. Vào buổi sáng, tôi có thể bị bối rối giống như Trang Tử, thay vì con bướm có thể đã mơ. Đây là hai giấc mơ, và không có cách nào so sánh giấc mơ nào là thực và giấc mơ nào là không thực.
Nhưng Trang Tử đang quên một điều - người mơ. Ông chỉ đang nghĩ về những giấc mơ, đang so sánh những giấc mơ và quên mất người mơ - cái người mơ rằng Trang Tử đã trở thành một con bướm, người đang nghĩ rằng có thể điều đó là hoàn toàn ngược lại: con bướm này đang mơ rằng nó đã trở thành Trang Tử. Ai là người quan sát này? Ai đã ngủ và bây giờ thức? Bạn có thể là không thực, bạn có thể là một giấc mơ với tôi, nhưng “tôi” không thể là một giấc mơ với chính mình, bởi vì ngay cả để tồn tại một giấc mơ thì phải cần đến một người mơ thật. Ngay cả với một giấc mơ giả thì cũng cần đến một người mơ thật. Ngay cả một giấc mơ cũng không thể tồn tại mà không có một người mơ thật. Thế nên hãy quên đi giấc mơ. Kỹ thuật này nói hãy quên đi giấc mơ. Cả thế giới là ảo tưởng, nhưng bạn thì không. Vì vậy đừng chạy theo thế giới, không thể có được sự chắc chắn nào ở đó. Và hiện nay thậm chí nghiên cứu khoa học dường như đã chứng minh được điều này.
Khoa học đã luôn chắc chắn trong suốt ba thế kỷ qua, và Shankara có vẻ chỉ là một tâm trí triết học, thi ca. Trong suốt ba thế kỷ khoa học đã chắc chắn, nhưng hiện naỵ, trong vòng hai thập niên cuối này, khoa học đã trở nên không chắc chắn. Bây giờ các nhà khoa học vĩ đại nhất nói không có gì là chắc chắn, và với vật chất chúng ta sẽ không bao giờ chắc chắn được. Mọi thứ đã lại trở nên không chắc chắn. Mọi thứ dường như là một dòng chảy thay đổi liên tục. Chỉ bên ngoài là có vẻ chắc chắn. Bạn càng đi sâu hơn, mọi thứ càng trở nên không chắc chắn, không xác định. Shankara nói, và tantra đã luôn luôn nói, thế gian này là ảo tưởng. Thậm chí trước khi Shankara ra đời, tantra đã giảng một kỹ thuật - rằng cả thế gian này là ảo tưởng, vì thế hãy nghĩ về nó như là một giấc mơ. Nếu bạn có thể nghĩ về nó như là một giấc mơ - và nếu bạn nghĩ như thế, sẽ tới lúc bạn nhận ra nó như là một giấc mơ - khi đó toàn bộ sự tập trung của ý thức bạn sẽ quay vào trong, bởi vì có một sự thôi thúc sâu sắc phải tìm ra sự thật, cái thực.
Nếu cả thế gian này là không thực, thì không có nơi trú ẩn trong nó. Thế thì bạn đang chạy theo, đang đuổi theo những cái bóng, và đang lãng phí thời gian, sự sống và năng lượng. Khi đó hãy chuyển hướng vào bên trong. Một điều là chắc chắn: “Ta tồn tại”. Ngay cả nếu cả thế gian là ảo tưởng, vẫn có một điều chắc chắn: có một người biết đây là ảo tưởng. Kiến thức có thể là ảo tưởng, cái biết có thể là ảo tưởng, nhưng người biết thì không thể. Đây là điều chắc chắn duy nhất, đá tảng duy nhất mà bạn có thể đứng trên nó.
Kỹ thuật này nói hãy nhìn vào thế giới: nó là một giấc mơ, ảo tưởng, và không có gì như nó biểu hiện. Nó chỉ là một cầu vồng. Hãy đi sâu vào cảm nhận này. Bạn sẽ bị ném tới chính mình. Với việc đi vào chính bản thể của mình, bạn đến với một sự thật nào đó, một cái gì đó không thể nghi ngờ, một cái gì đó tuyệt đối.
Khoa học không bao giờ có thể là tuyệt đối. Nó sẽ là tương đối. Chỉ có tôn giáo mới có thể là tuyệt đối, bởi nó không tìm kiếm giấc mơ, nó tìm kiếm người mơ; nó không tìm kiếm cái được quan sát, mà tìm kiếm người quan sát, người nhìn, người nhận biết.
Nhận xét
Đăng nhận xét