Chương 3. Dừng nói và nghĩ


Tín tâm minh
Sách về cái không
Osho


Chương 3. Dừng nói và nghĩ


Phủ nhận thực tại của mọi điều là bỏ lỡ thực tại của chúng; khẳng định cái trống rỗng của mọi điều là bỏ lỡ thực tại của chúng.

Ông càng nói và nghĩ nhiều về nó, thì ông càng vẩn vơ lạc lối xa khỏi chân lí.

Dừng nói và nghĩ, và không có gì mà ông sẽ không có khả năng biết.

Thực tại bao giờ cũng có đó, chờ đợi ở ngay gần trái tim bạn, gần mắt bạn, gần tay bạn. Bạn có thể chạm vào nó, bạn có thể cảm thấy nó, bạn có thể sống nó - nhưng bạn không thể nghĩ về nó. Thấy là có thể, cảm là có thể, chạm là có thể, nhưng nghĩ là không thể.

Cố hiểu bản chất của suy nghĩ đi. Suy nghĩ bao giờ cũng là về, không bao giờ trực tiếp. Bạn có thể thấy thực tại đó nhưng bạn sẽ phải nghĩ về nó, và về là cái bẫy, bởi vì bất kì khi nào bạn ‘nghĩ về’ thì bạn lại chuyển ra xa. ‘Về’ có nghĩa gián tiếp. ‘Về’ có nghĩa bạn sẽ không thấy hoa này ở đây và bây giờ, bạn sẽ nghĩ về nó, và cái ‘về’ sẽ trở thành rào chắn. Qua cái ‘về’ đó bạn sẽ không bao giờ đạt tới hoa này.

Thấy là trực tiếp, chạm là trực tiếp, nghĩ là gián tiếp. Đó là lí do tại sao việc nghĩ lại làm lỡ. Người yêu có thể biết thực tại, thậm chí vũ công có thể biết nó, ca sĩ có thể cảm thấy nó, nhưng nhà tư tưởng thì cứ làm lỡ nó.

Tôi đã từng nghe về một triết gia Do Thái. Ông ta là một nông dân bình thường nhưng rất triết lí. Tên ông ta là Yossel. Ông ta sẽ nghĩ về mọi thứ, như các triết gia đều thế cả. Rất khó cho ông ta làm điều gì bởi vì suy nghĩ sẽ chiếm hết thời gian của ông ta, và đến lúc ông ta sẵn sàng thì cơ hội lại mất.

Có lần ông ta đi ra chợ, sang làng bên cạnh, để bán lúa mì. Ông ta bảo với vợ, “Ngay khi anh bán xong lúa mì, lập tức anh sẽ gửi cho em một bức điện tín.”

Ông ta bán xong lúa mì được lãi rất nhiều cho nên ông ta viết một bức điện tín, đến bưu điện, điền vào mẫu - và thế rồi bắt đầu nghĩ về nó.

Ông ta viết: “Lúa mì đã bán được lãi lắm. Sẽ về ngày mai. Yêu em và hôn em, Yossel.”

Thế rồi ông ta bắt đầu nghĩ và ông ta đã nghĩ thế này, “Vợ mình sẽ cho rằng mình điên mất. Sao lại phải ‘được lãi lắm’? Chẳng lẽ mình đi bán lỗ hay sao?” Thế là ông ta gạch đi từ ‘được lãi lắm’. Thế rồi ông ta trở nên bận tâm hơn, bởi vì nếu ông ta có thể bỏ lỡ và viết nhầm một từ thì ông ta có thể đã phạm phải lỗi khác nữa. Cho nên ông ta nhìn lại, bắt đầu nghĩ về từng từ.

Thế rồi ông ta nói, “Sao lại ‘sẽ về ngày mai’? Mình định về tháng sau chắc? Hay năm sau? Vợ mình biết thừa rằng mình sẽ về ngay khi lúa mì bán xong.” Thế là ông ta lại xoá đi từ ‘sẽ về ngày mai’.

Thế rồi ông ta nghĩ, “Vợ mình đã biết rằng mình đi bán lúa mì, vậy sao phải viết, ‘lúa mì đã bán’?” Ông ta xoá nốt chữ đó nữa.

Và thế rồi ông ta bắt đầu cười. Ông ta nói, “Mình đang viết cho vợ mình cơ mà. Sao mình lại phải viết ‘yêu em và hôn em’? Mình có viết cho vợ ai khác đâu? Và đấy có phải là ngày sinh nhật của cô ấy hay ngày Yom Kippur hay cái gì đâu?” Ông ta xoá nốt chữ đó.

Bây giờ chỉ còn lại mỗi tên ông ấy: Yossel. Ông ấy tự nói với mình, “Yossel, mình điên chắc? Vợ mình đã biết tên mình rồi.” Thế là ông ta xé bức điện tín đi, sung sướng rằng ông ta đã tiết kiệm nhiều tiền và sự ngu xuẩn.

Nhưng đây là cách thức điều đó xảy ra: nếu bạn cứ nghĩ ‘về’, bạn bỏ lỡ toàn bộ cuộc sống - mọi thứ đều bị xoá dần đi. Đến cuối bạn cũng bị xoá nốt: không chỉ lời bị xoá đi, bạn đến cuối cũng bị xoá nốt. Suy nghĩ trở thành giống như làn khói; mọi thứ đi vào trong nó và mọi thứ kết thúc. Và hành động trở thành không thể được - thậm chí việc gửi một bức điện tín cũng không thể được. Hành động trở thành không thể được bởi vì hành động là trực tiếp còn suy nghĩ là gián tiếp. Chúng chưa bao giờ gặp nhau.

Đây là vấn đề trong thế giới này: người nghĩ, họ không bao giờ hành động; còn người không nghĩ, họ cứ hành động. Thế giới này trong khổ sở. Người ngu, họ cứ hành động bởi vì họ chẳng bao giờ nghĩ, họ nhẩy vào mọi việc. Những người như Hitler và Napoleon và Mao, họ cứ làm mọi thứ, còn người khôn ngoan, cái gọi là các nhà tư tưởng - Aristotle, hay Kant, hay Hegel - họ cứ nghĩ, họ chẳng bao giờ làm gì cả.

Vấn đề cho người đang tìm kiếm là cách thức dừng cái vòng luẩn quẩn của suy nghĩ, nhưng nhận biết. Bởi vì người ngu cũng không nghĩ, nhưng họ không nhận biết. Nhận biết: năng lượng chuyển vào trong suy nghĩ nên trở thành nhận biết. Ý thức đi vào cái vòng luẩn quẩn với suy nghĩ nên được giữ lại, làm thuần khiết. Suy nghĩ nên dừng lại, vòng xoáy của ý thức nên dừng lại, nhưng không phải là ý thức. Ý thức nên ngày càng kết tinh lại. Và hành động nên có đó, hành động không nên dừng.

Nhận biết cộng với hành động, và bạn sẽ đạt tới thực tại ngay lập tức. Và không chỉ bạn - bạn sẽ tạo ra tình huống trong đó người khác cũng có thể đạt tới thực tại. Bạn sẽ trở thành nơi chốn, bầu không khí bao quanh mà mọi sự sẽ bắt đầu xảy ra. Đó là điều đã xảy ra với một Phật, với một Tăng Xán, với một Trang Tử.

Nhớ lấy: hành động là tốt, suy nghĩ là cái vòng luẩn quẩn; nó chẳng bao giờ dẫn đến đâu cả. Cho nên suy nghĩ phải dừng nhưng hành động không dừng. Có những người cứ nghĩ mãi: hành động sẽ dừng. Đó là cách điều đó xảy ra khi một người từ bỏ cuộc sống, đi vào rừng sâu hay Himalaya. Người ấy từ bỏ thế giới này nơi hành động là cần thiết. Người ấy đang từ bỏ bản thân thực tại, bởi vì thông qua hành động mà bạn đi tới tiếp xúc với thực tại. Thấy là hành động, đi là hành động, nhẩy múa là hành động, vẽ là hành động. Bất kì cái gì bạn làm, bạn đều đi tới tiếp xúc với thực tại. Bạn phải trở nên ngày càng nhậy cảm hơn trong việc làm của mình. Làm không phải là từ bỏ.

Hành động nên là toàn bộ ở đó, bởi vì đó là bước chuyển để bạn đi vào trong thực tại và thực tại đi vào trong bạn. Cố hiểu, bởi vì đây là điều rất cơ bản - cơ bản với tôi: từ bỏ suy nghĩ, không từ bỏ hành động.

Có những người cứ suy nghĩ mãi, và có những người cứ từ bỏ hành động. Nhưng trên Himalaya họ sẽ làm gì? Thế thì không đi vào trong hành động, toàn bộ năng lượng sẽ đi vào trong suy nghĩ. Họ sẽ trở thành các triết gia lớn. Nhưng triết học là mảnh đất của kẻ ngu: bạn sống trong từ ngữ, không trong thực tại. Tình yêu biến mất, chỉ từ ‘tình yêu’ là còn lại. Thượng đế biến mất - bởi vì ngài có đó trên cánh đồng, trong bãi chợ, trên thế giới này - nhưng từ ‘Thượng đế’ còn lại. Hành động biến mất, chỉ khái niệm là được mang theo. Đầu bạn trở thành toàn bộ con người bạn.

Tránh điều này ra. Đừng bao giờ từ bỏ hành động, chỉ từ bỏ suy nghĩ. Nhưng nếu bạn từ bỏ suy nghĩ có khả năng bạn có thể trở thành vô ý thức - hay bạn có thể trở thành kẻ ngu. Bạn có thể bắt đầu làm bất kì điều gì, bất kì cái gì, bởi vì bây giờ bạn không biết phải làm gì, và bạn không nghĩ. Bạn có thể phát rồ. Suy nghĩ cần vứt bỏ, nhưng đừng trở nên vô nhận biết hơn, vô ý thức hơn. Bạn phải trở nên ý thức nhiều hơn.

Đây là toàn bộ nghệ thuật thiền: cách đi sâu vào trong hành động, cách từ bỏ suy nghĩ, và cách chuyển năng lượng mà trước đây đã đi vào trong suy nghĩ, nay đi vào trong nhận biết.

Việc này sẽ rất là tinh tế và tinh vi, bởi vì nếu bạn lỡ một bước, bạn sẽ rơi vào dốt nát vô hạn.

Dễ dàng vứt bỏ suy nghĩ, nhưng thế thì bạn lại đi ngủ. Hàng ngày trong giấc ngủ sâu điều đó xảy ra: bạn từ bỏ, suy nghĩ dừng lại - nhưng thế thì bạn không còn đó nữa, ý thức bị loại bỏ. Ý thức của bạn đã trở nên quá gắn bó, quá liên kết với suy nghĩ, cho nên bất kì khi nào suy nghĩ dừng lại, bạn rơi vào cơn mê.

Và đây là vấn đề. Người ta phải từ bỏ suy nghĩ và không rơi vào cơn mê, bởi vì cơn mê sẽ không đưa bạn tới thực tại. Nếu bạn rơi vào vô thức bạn không đi vào trong thực tại, bạn đơn giản ngủ say: ý thức đã hoà vào trong vô ý thức. Chính điều ngược lại mới phải đạt tới: vô thức hoà vào trong ý thức. Nếu ý thức rơi vào vô thức, bạn rơi vào trong cơn mê, còn nếu vô thức rơi vào trong ý thức và trở thành bản thân ý thức, bạn trở nên chứng ngộ, bạn trở thành vị Phật, một Tăng Xán.

Và rất dễ để giúp cho ý thức rơi vào trong vô thức, bởi vì nó là một mảnh rất nhỏ. Một phần mười con người bạn là ý thức, chín phần mười con người bạn là vô thức. Chỉ một mảnh nhỏ mới trở thành ý thức, và mảnh đó nữa cũng thường xuyên vẩn vơ. Bất kì khoảnh khắc nào nó cũng có thể đổ xuống, điều đó rất dễ dàng.

Đó là cách nó xảy ra trong sự say: bạn uống rượu, ý thức rơi vào trong vô thức. Do đó, có sự hấp dẫn của rượu trong tất cả các thời đại, tất cả các hoàn cảnh và tất cả các nước. Và đây là điều xảy ra khi bạn dùng ma tuý: ý thức rơi vào trong vô ý thức.

Điều đó là đẹp bởi vì suy nghĩ dừng lại. Ngủ là đẹp và bạn có nhiều, nhiều mơ. Và nếu bạn là tay mơ giỏi thế thì ma tuý sẽ cho bạn những mơ đẹp - không tưởng, đậm mầu sắc hơn bất kì mơ nào có thể có, chói sáng hơn. Bạn đi vào trong thiên đường, vào vùng đất mơ, nhưng bạn không đi vào trong thực tại.

LSD, cần sa, ma tuý hay bất kì thuốc nào, chỉ cho bạn giấc ngủ ngon, và trong giấc ngủ ngon đó bạn mơ. Những mơ đó đầy mầu sắc, và cuộc sống bạn nghèo nàn thế và cuộc sống bạn khổ sở đến mức bạn thậm chí muốn sống với mơ hơn là sống trong cuộc đời khổ sở này. Cuộc sống này tựa như cơn ác mộng. Cho dù ma tuý chỉ cho bạn mơ chói sáng, đầy mầu sắc, ba chiều, thì sao không lấy nó? - bởi vì cái gì có đó trong cuộc sống này? Bởi vì cuộc sống là đống lộn xộn thế nên bạn chọn mơ.

Ma tuý, rượu cồn, hay các loại chất gây say khác, chúng bao giờ cũng được người tôn giáo dùng, nhưng qua chúng bạn chưa bao giờ đi vào trong thực tại cả. Qua chúng bạn rơi vào trong trạng thái đờ đẫn, vào trong cơn mê, và trong cơn mê đó bạn có thể có những mơ.

Và nếu bạn đã nghĩ quá nhiều về Thượng đế, bạn có thể thấy Thượng đế, bởi vì bạn có thể phóng chiếu mơ riêng của mình. Mơ có thể được hướng dẫn và chỉ dẫn. Nếu bạn đã nghĩ quá nhiều về Christ, thế thì trong khi dưới ảnh hưởng của ma túy, Christ sẽ xuất hiện cho bạn. Đây là tâm trí riêng của bạn đang chơi trò láu cá. Nếu bạn gắn bó quá nhiều với Krishna thế thì ngài sẽ đứng đó với cây sáo trên môi, ca hát và nhẩy múa. Nếu người Hindu, người sùng kính Krishna, dùng LSD, người đó sẽ thấy Krishna, và người Ki tô giáo sẽ thấy Jesus, Phật tử sẽ thấy Phật - nhưng những điều này đều là phóng chiếu của tâm trí.

Thực tại là khổ sở, nhưng đừng khao khát mơ, bởi vì nếu bạn khao khát theo mơ thế thì chỉ có một cách: làm sao giúp cho ý thức trở thành vô ý thức lần nữa. Một phần nhỏ đã thoát ra khỏi vô thức, và đó là cái đẹp của con người; khổ sở và cực lạc có cả hai, nhưng đó là cái đẹp của con người - rằng con người đã trở thành một hòn đảo trong vô thức bao la. Hòn đảo này phải phát triển ngày càng cao hơn để cho nó trở thành lục địa. Qua ma tuý nó sẽ lại đi ngầm dưới nước, bạn sẽ lại sống cuộc sống của con vật hay cây cối - đẹp trong bản thân chúng nhưng không xứng với bạn, bởi vì bạn đang làm mất đi nhiều thế. Và bạn có thể đạt tới thực tại; hòn đảo đó có thể trở thành lục địa.

Nhưng không chỉ ma tuý - còn có những phương tiện tinh vi khác cũng giúp cho ý thức trở thành vô ý thức. Qua âm nhạc điều đó có thể được thực hiện, qua tụng niệm điều đó có thể được thực hiện. Nếu bạn cứ lặp lại một câu mật chú liên tục, bạn sẽ rơi vào giấc ngủ, bởi vì bất kì cái gì đơn điệu đều đưa tới cơn mê.

Chúng là những phương tiện tinh vi, không giống ma tuý trên bề mặt. Trong mọi chùa chiền, đền đài, nhà thờ, việc đó vẫn tiếp diễn - mà chùa chiền và nhà thờ thì chống lại ma tuý, và họ không biết họ đang làm gì. Họ cũng dùng ma tuý tinh vi, không thô thiển như LSD hay cần sa nhưng cũng vẫn là ma tuý - bởi vì khi bạn tụng một từ nào đó liên tục, nó đem lại cho bạn giấc ngủ, nó không thể trao cho bạn bất kì cái gì khác. Bạn thảnh thơi. Chính việc tụng niệm đem lại cho bạn cái chán sâu sắc. Cùng từ ấy - Ram, Ram, Ram - bạn cứ tiếp diễn, tiếp diễn mãi... Bạn sẽ làm gì? Bởi vì tâm trí vẫn còn tỉnh táo, chỉ nếu cái gì đó mới đang xảy ra, thế thì tâm trí mới tỉnh táo. Nếu không có cái gì mới xảy ra, chỉ Ram, Ram, Ram, tụng niệm, và bạn biết rằng nó sẽ xảy ra lặp đi lặp lại, vô hạn, tâm trí bắt đầu cảm thấy buồn ngủ.

Mọi người mẹ đều biết điều này: bất kì khi nào đứa trẻ không muốn ngủ, cô ấy sẽ lặp lại một điệp khúc, rất đơn giản, hai hay ba từ, và cô ấy sẽ lặp lại mãi, bài ru con. Nó trở thành mật chú và đứa trẻ đi vào giấc ngủ. Và tâm trí cũng vậy - dù bạn là đứa trẻ hay người già cũng chẳng có gì khác biệt - tâm trí đi vào giấc ngủ qua bài hát ru, nhưng tiến trình thì là một.

Suy nghĩ phải bị dừng lại, nhưng không bằng cách trở thành vô thức. Suy nghĩ phải bị dừng lại bằng việc trở nên ý thức hơn, tỉnh táo hơn, nhận biết hơn, để cho năng lượng vốn đi vào trong suy nghĩ nay đi vào trong tâm thức, và việc chứng kiến nẩy sinh trong bạn. Cho nên nhớ lấy, suy nghĩ phải bị dừng lại không qua tụng niệm, mà qua trở thành nhân chứng cho tiến trình suy nghĩ - nhìn vào nó, quan sát nó, người quan sát trên đồi, nhìn, thấy...

Nếu bạn thấy sâu và xuyên thấu vào lời, chúng bắt đầu biến mất. Lỗ hổng tới, một khoảng hở. Mây biến mất và người ta thấy bầu trời xanh. Bạn tỉnh táo, nhạy cảm, không trong cơn mê. Nhiều vô thức hơn đã bị rút vào trong tâm thức; ngọn lửa của bạn lớn hơn, sống động hơn, và bạn có thể thấy nhiều hơn, bạn có thể động chạm nhiều hơn, bạn có thể nếm trải nhiều hơn. Và hành động của bạn mang phẩm chất mới, phẩm chất của điều thiêng liêng.

Bất kì khi nào vị phật chạm tới bạn, cái chạm đó khác. Bạn cũng chạm, đôi khi bạn cũng cảm thấy khác biệt. Bạn chạm vào một người chỉ một cách tình cờ, và thế thì bạn không đi qua bàn tay. Thế thì bàn tay là chết, đóng kín; bạn đơn giản nói lời chào với bàn tay chết. Bạn có thể cảm thấy nó, rằng bàn tay này đã đưa ra nhưng mà vẫn chưa được đưa ra. Nó mang tính ngoại giao. Bàn tay không sống động, không ấm áp, không gặp gỡ và hội nhập với bạn. Đôi khi, trong tình yêu bàn tay được trao, nó là sự hội nhập, năng lượng tuôn chảy qua nó, nó là lối mở. Qua bàn tay mà bản thể tới gặp bạn. Nó ấm áp, nó sống động, nó tin cậy bạn.

Khi vị phật chạm vào bạn, điều đó khác biệt hoàn toàn, phẩm chất đã thay đổi - bởi vì bất kì khi nào tâm thức là toàn bộ, tuyệt đối, mọi hành động đều trở thành toàn bộ. Khi ông ấy chạm, ông ấy trở thành cái chạm toàn bộ, và bạn sẽ cảm thấy rằng bạn được sáng lên qua cái chạm của ông ấy - năng lượng đã chuyển vào trong bạn. Nếu bạn không sẵn sàng, thậm chí bạn có thể bị giật. Nếu bạn sẵn sàng thế thì bạn sẽ vui sướng, bạn sẽ sung sướng trong nó.

Khi vị phật nhìn vào bạn, ông ấy trở thành chỉ là đôi mắt; ngoài ra không thể có được, bởi vì ông ấy không bị phân chia bên trong. Khi bạn nhìn, bạn nhìn và bạn làm nhiều điều khác nữa. Suy nghĩ tiếp diễn, bạn tiếp diễn, bị phân chia. Mắt bạn không toàn bộ.

Khi vị phật nhìn bạn, mắt ông ấy là toàn bộ. Chúng sẽ giống như mặt trời thiêu đốt. Chúng sẽ thấm nhuần bạn, chúng sẽ tạo ra lỗ hổng bên trong con người bạn, chúng sẽ đi thẳng vào tim bạn. Bạn sẽ không bao giờ là như cũ nữa - nếu bạn cho phép nó. Ngược lại, bạn có thể vẫn còn đóng kín và ông ấy không thấm nhuần vào bạn được. Thậm chí ông ấy chạm, thì ông ấy cũng chạm vào xác chết - bạn có thể vẫn còn khép kín.

Bất kì khi nào tâm thức có đó, và hành động, tâm thức và hành động trở thành cái toàn bộ.

Bây giờ cố theo những lời này, chúng rất hay.

Phủ nhận thực tại của mọi điều là bỏ lỡ thực tại của chúng; khẳng định cái trống rỗng của mọi điều là bỏ lỡ thực tại của chúng.

Phủ nhận thực tại của mọi điều... Đã từng có các triết gia người phủ nhận thực tại của mọi vật. Nhìn xem, chúng ta có thể làm cùng điều này theo hai cách...

Có một câu chuyện hay. Ngày xưa chuyện đã xảy ra:

Akbar, vị hoàng đế Moghul vĩ đại, vẽ một đường thẳng trên tường, và ông ta bảo với những người trí

huệ của mình không được chạm vào nó nhưng làm cho nó nhỏ hơn. Họ đều phân vân và họ nghĩ, “Điều ấy không thể được!”

Thế rồi một trong những người trí huệ của ông ấy, Birbal, vẽ một đường thẳng khác gần nó, một đường lớn hơn, mà không chạm vào đường thứ nhất. Khi đường lớn hơn này được vẽ ra, đường thứ nhất trở thành nhỏ hơn.

Nếu bạn vẽ một đường nhỏ thế thì đường thứ nhất sẽ trở thành lớn hơn, cho nên có hai cách. Hoặc là bạn làm cho con người bạn lớn hơn - thế thì thế giới trở thành nhỏ hơn, nhỏ hơn, nhỏ hơn nữa... một khoảnh khắc tới khi con người bạn trở thành toàn bộ, thành Brahman, thế giới biến mất, thế thì không còn thế giới nữa. Thế rồi còn có một cách khác, và cách khác này chỉ là một thủ đoạn: bạn cứ nói thế giới này là ảo tưởng, maya, nó không có đó. Bạn cứ phủ nhận thực tại của thế giới này và cứ tự thuyết phục bản thân mình rằng nó không có, nó không hiện hữu, nó không thật, nó là thứ mơ. Cho nên bạn tự thuyết phục mình thế giới này là mơ: bạn cảm thấy rằng bây giờ bạn là thật nhưng việc cảm đó là không đúng. Đấy là lừa dối.

Triết học bao giờ cũng làm điều này: nó cứ nói thế giới là không thực. Tới những người theo Veda mà xem: điều đó đã xảy ra khác cho Shankara. Shankara đã hiểu bản thể mình, ông ấy trở thành vô hạn; thế thì thế giới này biến mất bởi vì không thể có hai cái vô hạn. Nếu bạn trở thành vô hạn, thế giới này biến mất. Nó bị hấp thu, bởi vì hai cái vô hạn là không thể được, chỉ một cái vô hạn mới có thể thôi.

Shankara trở thành vô hạn, thành Brahman, cái tuyệt đối; thế thì ông ấy có thể nói thế giới này là ảo tưởng, và ông ấy đúng. Nhưng điều này không phải là phát biểu triết lí, đó là cảm giác tôn giáo. Ông ấy cảm thấy điều đó, rằng thế giới này không có. Nhưng thế rồi các tín đồ lại lấy bài thơ ấy và họ đã tụng nó từ nghìn năm nay. Họ nói thế giới là ảo tưởng, nó là maya, nó không có đó, nó chỉ có vẻ thế thôi.

Bạn có thể đi tới niềm tin qua triết lí rằng, vâng... bạn có thể cứ xoá nó đi, bạn có thể tự thuyết phục mình rằng nó không có đó, bạn có thể cố gắng tìm ra bằng chứng và luận cứ rằng đó là ảo tưởng. Và nếu bạn có thể thuyết phục tâm trí mình rằng nó là ảo tưởng, bạn sẽ có một cảm giác, cảm giác sai lầm, rằng bạn đã trở thành Brahman.

Bạn phải trở thành Brahman, thế thì thế giới trở thành ảo tưởng, không cách nào khác. Làm sao bạn sẽ trở thành Brahman nếu thế giới này trở thành ảo tưởng? Và nó không thể trở thành ảo tưởng được bởi vì đấy chỉ là quan niệm; bạn nghĩ.

Những người theo Veda cứ nói mãi thế giới này là ảo tưởng, nhưng nhìn họ mà xem. Ném một hòn đá vào họ và họ sẽ giận dữ, họ sẽ bắt đầu đánh lại bạn. Thế giới này không phải là ảo tưởng; chỉ họ mới có khái niệm, triết lí. Và triết gia có thể rất tinh ranh.

Chuyện có lần đã xảy ra:

Một tín đồ của Nagarjuna... Nagarjuna có thời đã là một trong những nhà huyền môn Ấn Độ vĩ đại nhất đã từng được sinh ra. Ông ấy đã hiểu bản thể vô hạn của mình - thế giới đã tan biến. Thế rồi tín đồ tới, và tín đồ thì bao giờ cũng là các bản sao, nhất định là như vậy trừ phi bản thân họ cố gắng hiểu thấu thực tại và không lấy lời thầy làm sự tin cậy.

Lời của thầy đơn giản gây cảm hứng, khêu gợi, giúp đỡ, nhưng nó không nên bị tin cậy vào, nếu không thì nó sẽ trở thành triết lí. Bạn phải hiểu nó. Và khi bạn hiểu, chỉ thế thì bạn mới có thể nói, “Vâng, thầy đúng.” Làm sao bạn có thể nói điều đó trước được? Nhưng cũng dễ gật đầu một cách triết lí: “Vâng.”

Các tín đồ tới và một trong các tín đồ - người này là một triết gia lớn, một người rất thích tranh cãi - ông ta đã chứng minh theo nhiều cách rằng thế giới là không thực.

Vua của nước đó triệu ông ta tới, bởi vì tên tuổi của ông ấy đồn tới tận triều đình, và vua nói, “Thật thế à, ngươi nghĩ rằng thế giới này không thật sao? Nghĩ hai lần đi, bởi vì ta là người nguy hiểm. Và ta không phải là con người của lời nói, ta là con người của hành động. Ta sẽ làm điều gì đó mà sẽ chứng tỏ rằng thế giới này không phải là không thực. Cho nên nghĩ hai lần đi.”

Người này nói, “Không có vấn đề nghĩ hai lần. Thần đã nghĩ cả triệu lần và thần có đủ mọi bằng chứng rằng thế giới này là không thật.”

Nhưng ngay cả triết gia này cũng không biết về điều nhà vua định làm. Ông ta có một con voi điên.

Cho nên con voi điên được đem tới sân điện, và triết gia này cũng bị tống vào trong sân điện đó. Ông ta bắt đầu la hét và bỏ chạy, với con voi điên đuổi theo sau. Con voi điên túm lấy ông ấy. Vào khoảnh khắc đó ông ta bắt đầu nói với nhà vua, “Xin cứu thần! Con voi này là thật. Thần xin rút lại phát biểu của mình!”

Ông ta được cứu thoát. Lần nữa nhà vua lại triệu ông ta, khi ông ta định thần lại - bởi vì ông ta run rẩy và vã mồ hôi, thâm tím khắp mình mẩy và chảy máu nhiều chỗ. Vua nói, “Bây giờ ông nghĩ gì?”

Ông ta đáp, “Thế giới là không thật.”

Vua nói, “Ông ngụ ý gì? Vào khoảnh khắc con voi sắp sửa giết chết ông, thì ông nói rằng thế giới là thực. Bây giờ ông lại thay đổi sao?”

Triết gia này đáp, “Con voi, con người, sự khẳng định, tất cả đều không thật. Con voi, cái điên khùng của con voi, con người bệ hạ đang thấy trước bệ hạ, người đã khẳng định rằng thế giới là thật - tất cả đều không thật.”

Vua nói, “Thế thì ta sẽ cho con voi điên đó tới nữa.”

Và triết gia này nói, “Thế thì cùng điều ấy sẽ xảy ra lần nữa: thần sẽ nói nó là thực. Nhưng lần nữa, thần có thể làm được gì?”

Triết lí có thể rất tinh ranh. Bạn có thể cứ chơi trò láu cá với bản thân mình và bạn có thể tự thuyết phục mình rằng thế giới này là không thực. Nhưng cần gì phải chứng minh và thuyết phục? Nhu cầu tới bởi vì bạn không biết. Khi bạn biết, chẳng còn vấn đề thuyết phục, chứng minh, tranh cãi. Triết lí là sự thay thế cho tri thức. Nếu bạn biết, thế thì không cần triết lí. Nếu bạn không biết, thế thì có nhu cầu, bởi vì tri thức thu được qua triết lí có vẻ giống như tri thức thật.

Vấn đề không phải là chứng minh rằng thế giới này không thật. Lời kinh này nói: Phủ nhận thực tại của mọi điều là bỏ lỡ thực tại của chúng... và thực tại của chúng là Thượng đế, thực tại của chúng là chân lí. Cây có đó: nếu bạn phủ nhận thực tại của cây, bạn đã phủ nhận điều thiêng liêng bên trong nó, chân lí bên trong nó. Cây chỉ là một sự kiện; sự kiện chỉ là cái vỏ che chân lí. Chim là một sự kiện khác, nhưng chân lí là một. Đôi khi chân lí dường như là con chim, đôi khi như cây, đôi khi như tảng đá, đôi khi như con người. Đây là tất cả các hình dạng.

Sự kiện là hình dạng, nhưng trong mọi sự kiện, nếu bạn đi sâu hơn, lại là chân lí. Nếu bạn phủ nhận tất cả hình dạng, bạn đã phủ nhận cái vô hình bên trong. Nếu bạn nói cái không là thực, thế thì làm sao điều thiêng liêng có thể thực, làm sao Thượng đế có thể thực? Nếu bạn nói thế giới này là ảo tưởng, thế thì làm sao người sáng tạo ra thế giới ảo tưởng lại có thể là thực? Và làm sao Thượng đế thực lại có thể tạo ra thế giới không thực? Điều đó là không thể được, bởi vì thực tại tới từ thực tại; cái không thực tới từ cái không thực. Một Thượng đế thực không thể nào tạo ra được một thế giới không thực. Và nếu thế giới này là không thực, thì đấng sáng tạo cũng là không thực. Nếu bạn phủ nhận tiện nghi, thế thì bạn phủ nhận chân lí.

Lời kinh của Tăng Xán nói: Phủ nhận thực tại của mọi điều là bỏ lỡ thực tại của chúng... và thực tại đó là chân lí... khẳng định cái trống rỗng của mọi điều là bỏ lỡ thực tại của chúng.

Nếu bạn nói rằng mọi vật là hiện hữu nhưng chúng là trống rỗng, thì thế nữa cũng là một quan điểm triết học - có tốt hơn chút ít so với quan điểm đầu. Quan điểm đầu nói toàn bộ thế giới là không thật, nó là không hiện hữu, nó là không tồn tại; nó chỉ là trong tâm trí bạn, nó không ở đâu khác cả; nó là sự phóng chiếu tâm trí, nó là một ý nghĩ, nó giống như một mơ.

Triết lí kia, có tốt hơn chút ít, nói mọi sự đều hiện hữu, nhưng chúng trống rỗng. Chúng không mang bất kì cái ta nào bên trong chúng, chúng không phải là thực chất. Chúng là chết, trống rỗng bên trong. Chúng không là gì ngoài các hợp thành; không cái ta nào có đấy. Cây có đấy, nhưng chỉ như một hợp thành; cây không có cái ta, không atman. Nếu bạn rút các hợp thành ra thế thì sẽ không có cái gì còn lại. Nó cũng giống hệt như cái máy: nếu bạn tháo các bộ phận của máy ra, chẳng còn lại gì nữa.

Điều đó nữa cũng không đúng, bởi vì cây tồn tại không như một hợp thành mà như một bản thể. Thậm chí tảng đá cũng có bản thể riêng của nó; khi bạn trở nên nhạy cảm và tỉnh táo, bạn sẽ thấy rằng thậm chí tảng đá cũng có tâm trạng của nó. Đôi khi nó hạnh phúc và thế thì bạn có thể cảm thấy cái hạnh phúc của tảng đá đó; đôi khi nó bất hạnh và thế thì bạn có thể cảm thấy cái bất hạnh của tảng đá; và đôi khi nó hát và bạn có thể nghe thấy bài ca đó.

Nhưng bạn cần nhiều nhạy cảm đấy, bởi vì ngay bây giờ bạn không thể nghe thấy bài ca của vị phật - làm sao bạn có thể nghe thấy bài ca của tảng đá? Bạn điếc và mù, bạn không nhạy cảm và đờ đẫn.

Bạn không ý thức. Ý thức của bạn là mảnh nhỏ đến mức nó bị cạn kiệt trong công việc hàng ngày, trong thường lệ hàng ngày. Bạn chỉ đủ ý thức để tới văn phòng và về nhà mà không xảy ra tai nạn nào trên đường; bạn chỉ ý thức được đến thế thôi. Nhưng bạn không thể cảm thấy tảng đá được, bạn không thể cảm thấy cây cối được.

Bây giờ các nhà khoa học đang phát hiện ra rằng cây có nhiều nhạy cảm tới mức bạn không thể hình dung nổi. Cây đón chào mọi người nếu họ thân thiện, và chúng trở thành đóng kín nếu họ thù địch. Nếu người làm vườn tới, cứ cắt và tỉa, thì cây trở nên đóng. Thậm chí trước khi người làm vườn tới... người đó đi vào khu đất và cả vườn đã đóng lại, bởi vì kẻ thù đang tới.

Một nhà khoa học, người đang làm việc rất sâu sắc, trở nên tỉnh táo rằng không chỉ hành động; cây cối trở nên nhận biết thậm chí cả ý nghĩ của bạn. Người đó đang làm một thực nghiệm trên cây: cái cây này được nối dây với một dụng cụ tinh vi để chắc chắn điều đã xảy ra bên trong nó. Và người đó nghĩ, “Nếu vào khoảnh khắc này mình bỗng nhiên chặt cây này ra làm đôi, thì điều gì sẽ xảy ra?” và chiếc kim của dụng cụ đó bắt đầu rung động nhanh - cái cây đã nhận được ý nghĩ đó.

Thế rồi người đó thử nhiều thí nghiệm. Người đó không chặt cây, người đó không làm hại nó - mới chỉ là ý tưởng! Và bất kì khi nào ý tưởng này có đó, thì chiếc kim sẽ chỉ ra rằng cây rất lo lắng và giận dữ. Và không chỉ điều này: nếu bạn chặt một cây, thì cây bên cạnh cũng biểu lộ buồn bã, lo lắng, giận dữ, lo âu. Bây giờ có những dụng cụ có thể chỉ ra điều đang xảy ra bên trong cây cối, và chẳng chóng thì chầy sẽ có các dụng cụ chỉ ra điều đang xảy ra bên trong tảng đá.

Mọi thứ đều sống động, không cái gì trống rỗng cả. Mọi thứ đều tràn đầy với tâm thức, các kiểu tâm thức khác nhau - đó là lí do tại sao bạn không thể hiểu thấu chúng. Điều đó khó bởi vì ngôn ngữ của tâm thức khác nhau. Cây có một kiểu tâm thức khác, đá có một kiểu khác. Khó trao đổi với chúng bởi vì ngôn ngữ khác biệt, nhưng nếu bạn trở nên tỉnh táo hơn, nhận biết hơn, và bạn không bị tràn ngập với các ý nghĩ trong tâm trí, thế thì bạn thậm chí có thể tiếp cận tới tảng đá. Chẳng cái gì trống rỗng cả, mọi thứ đều có cái ta của riêng nó.

Người Hindu bao giờ cũng nhận biết rằng mọi thứ đều có thần bên trong. Đó là lí do tại sao họ có thể tôn thờ dòng sông, họ có thể tôn thờ cây cối, bởi vì họ nói thần cây này, thần sông, thần đá... mọi thứ trên thế giới đều tràn đầy với Thượng đế, chẳng cái gì trống rỗng cả.

Một khi bạn nói rằng mọi thứ là trống rỗng, bạn bỏ lỡ thực tại của chúng. Nhưng tại sao các triết gia lại cứ cố chứng minh rằng mọi sự không hiện hữu, hay mọi thứ là trống rỗng? Họ đang cố gắng làm điều đó, bởi vì nếu người ta có thể chứng minh rằng mọi sự là trống rỗng, thế thì bạn là tràn đầy - tương đối, bạn sẽ trở thành đầy hơn. Với cái trống rỗng bao quanh tất cả, bạn trở thành tràn đầy.

Nhưng đây là cách thức sai lầm. Trở thành tràn đầy đi! Thủ đoạn liên quan này chẳng ích gì. Khi bạn trở nên tràn đầy với tình yêu, nhận biết, thiền, thế thì bạn sẽ không thấy rằng thế giới là trống rỗng. Trong thực tế, bởi vì bạn trống rỗng, nên mọi thứ mới có vẻ trống rỗng. Bởi vì bạn nhìn với con mắt trống rỗng, nên mọi thứ trở thành trống rỗng - bạn đem bản thân mình vào mọi thứ.

Nếu bạn không có tình yêu, thế thì bạn sẽ thấy rằng không có tình yêu trên thế giới. Nếu bạn có trái tim đập rộn ràng với tình yêu, bạn sẽ cảm thấy nhịp đập ở mọi nơi, khắp xung quanh - trong cơn gió thoảng qua cây cối, trong dòng sông tuôn chảy ra đại dương. Bạn sẽ cảm thấy tình yêu ở mọi nơi! Bạn sẽ có khả năng cảm thấy nó. Bạn có thể cảm thấy chỉ cái mà bạn có, không cái gì khác có thể được cảm thấy cả.

Triết lí là một thủ đoạn để cảm thấy ‘có liên quan’. Và tất cả chúng ta đều trở thành nạn nhân của điều này, bởi vì tất cả chúng ta đều là chuyên gia trong thủ đoạn đó. Đó là lí do tại sao nếu ai đó nói rằng hàng xóm bạn là người ác và vô đạo đức, bạn lập tức tin ngay vào điều đó - bởi vì nếu người đó là độc ác và vô đạo đức bỗng nhiên bạn thành đạo đức và thánh thiện. Nếu ai đó nói hàng xóm bạn là người rất đạo đức, thánh thiện, hiền nhân, bạn không thể nào tin được điều đó. Bạn nói: “Đưa ra bằng chứng đi! Anh có bằng chứng gì nào? Dựa trên nền tảng nào mà anh nói điều đó? Tôi biết anh ta rõ lắm, anh ta là hàng xóm tôi. Anh ta chẳng có gì giống thế cả.” Tại sao?

Bất kì khi nào ai đó nói điều gì đó chống lại ai đó, bạn tin điều đó ngay lập tức, bạn chẳng bao giờ hỏi về nó. Đó là lí do tại sao chuyện tầm phào lại cứ tiếp diễn nhiều thế. Nhưng bất kì khi nào ai đó nói điều gì đó ủng hộ ai đó, bạn lập tức đề phòng. Tại sao? Bởi vì nếu người ấy tốt thế, thì bỗng nhiên bạn thành xấu. Nếu có hiền nhân thế thì bạn là ai? Bạn là kẻ ngu xuẩn. Và nếu có thánh nhân, bạn là tội nhân. Bạn không thể ý thức tới thủ đoạn này, nhưng đây là cách trò láu cá cứ diễn ra.

Có hai cách: hoặc là bạn trở thành thánh hoặc là bạn chứng minh rằng mọi người đều là kẻ có tội. Triết lí cứ làm mãi cái thủ đoạn ấy. Bất kì cái gì bạn muốn là, bạn đều phủ nhận thế giới. Nhưng điều đó chẳng ích lợi gì. Bạn chẳng lừa dối được ai ngoài chính mình.

Lời kinh này của Tăng Xán nói:

Phủ nhận thực tại của mọi điều là bỏ lỡ thực tại của chúng; khẳng định cái trống rỗng của mọi điều là bỏ lỡ thực tại của chúng.

Ông càng nói và nghĩ nhiều về nó, ông càng vẩn vơ lạc lối xa khỏi chân lí.

Suy nghĩ là vẩn vơ ra xa, đi lạc lối. Bất kì khi nào bạn nghĩ về bất kì cái gì, ngay lập tức bạn đã bắt đầu đi lạc lối. Tôi đang ở đây, bạn có thể ở cùng với tôi - nhưng nếu bạn bắt đầu nghĩ về tôi, bạn đang trên hành trình đi xa mãi, đi mãi, và bạn càng suy nghĩ, bạn lại càng đi xa hơn. Suy nghĩ là con đường thoát khỏi thực tại; nó cho bạn hướng dẫn bên trong, nó làm cho bạn một con đường trong tâm trí và bạn đi trên nó.

Người suy nghĩ chẳng bao giờ ở đây và bây giờ, người ấy chưa bao giờ trong hiện tại cả, người ấy bao giờ cũng ở đâu đó khác. Thiền nhân bao giờ cũng ở đây và bây giờ, người ấy không ở đâu khác cả. Đó là lí do tại sao suy nghĩ là rào chắn duy nhất trong thiền. Bạn phải trở nên nhận biết, và dần dần, bạn càng trở nên nhận biết hơn, bạn lại càng dừng việc hợp tác với suy nghĩ.

Tôi đem một bông hồng tới cho bạn và bạn bắt đầu nghĩ. Lập tức tâm trí nói, “Đẹp thật! Mình chưa bao giờ thấy hoa hồng đẹp thế!” Hay, “Mình đã thấy vài bông hồng khác cũng giống thế này,” và bạn cứ tiếp diễn. Và thế thì tâm trí của bạn có thể nêu ra câu hỏi, “Đẹp là gì?” Chẳng ai biết, chẳng ai đi tới kết luận gì.

Một trong những triết gia vĩ đại người Anh của thế kỉ này, G.E. Moore, đã viết một cuốn sách, Principa Ethica, một trong những nỗ lực logic nhất để định nghĩa tốt là gì. Và sau hai hay ba trăm trang lập luận logic chặt chẽ, ông ấy nói rằng khó mà định nghĩa tốt là gì. Đến cuối ông ấy nói nó là không thể định nghĩa nổi - nhưng sau hai hay ba trăm trang lập luận!

Một trong những tâm trí sành sỏi nhất cứ cố gắng và cố gắng mãi, hết cách này đến cách khác; hết cửa này đến cửa khác, ông ấy gõ đủ, và ông ấy đi tới kết luận rằng tốt là không định nghĩa được - tại sao? Ông ấy nói nó là một phẩm chất đơn giản, cũng giống như mầu vàng vậy. Làm sao bạn định nghĩa được mầu vàng? Bạn sẽ nói gì nếu ai đó hỏi, “Mầu vàng là gì?” Bạn sẽ nói, “Mầu vàng là mầu vàng.” Bạn sẽ định nghĩa nó như thế nào?

Bông hồng là bông hồng là bông hồng. Làm sao bạn định nghĩa nó được? Nếu bạn nói nó đẹp, bạn có biết đẹp là gì không? Đã ai định nghĩa nó chưa? Không, họ nói đẹp là không thể định nghĩa được. Nếu bạn so sánh nó với bông hồng khác... bạn có biết rằng mọi thứ đều không so sánh được không? Làm sao bạn có thể so sánh nó với bông hồng khác? Bông hồng này chỉ là bông hồng này, nó không phải là bông hồng khác. Tại sao bạn lại đem bông hồng khác vào?

Và khi bạn đem bông hồng khác vào, tâm trí bạn bị lộn xộn; thế thì bạn có nhiều thứ trong tâm trí và chúng sẽ trở thành rào chắn, và bông hồng này sẽ không thể nào tiếp cận tới bạn được. Và đây mới là cái gì đó thật - nó có thể đã thấm nhuần vào bạn, hương thơm của nó có thể đã thấm nhuần vào bạn. Bông hồng này đã sẵn sàng hạ gục trái tim bạn, nhưng bạn bắt đầu nghĩ về nó. Và vào lúc bạn quay trở lại, bông hồng này sẽ không còn đây nữa, bởi vì bông hồng sẽ không chờ đợi - nó sẽ bị tàn phai đi. Nó có thông điệp, nó đem điều gì đó của cái chưa biết. Nhưng cái chưa biết đó là tinh tế, nó không thể tiếp tục mãi mãi được.

Nó đem điều gì đó từ cõi bên kia - mọi bông hồng đều đem điều đó. Mọi sáng nó tới, gõ cửa nhà bạn, nhưng bạn là người suy nghĩ vĩ đại. Một cái gì đó của cái chưa biết, của điều thiêng liêng, một cái gì đó bên ngoài thời gian thấm vào trong thời gian qua bông hồng. Nhưng nếu bạn nghĩ, bạn lỡ, bởi vì trong suy nghĩ bạn đi lạc lối, bạn đã đi ra xa.

Triết gia nghĩ về bông hồng. Nhà thơ cảm về bông hồng. Và nếu bạn phải quyết định, quyết định bao giờ cũng thiên về nhà thơ đi. Người ấy chạm vào thực tại tốt hơn là triết gia. Và nhà huyền môn, người ấy không nghĩ cũng chẳng cảm - người ấy đơn giản vẫn còn trong sự hiện diện của bông hồng. Bởi vì việc cảm cũng đi ra xa - không xa như suy nghĩ, nhưng việc cảm cũng là đi xa, bởi vì việc cảm cũng là hoạt động tinh tế.

Nhà huyền môn đơn giản vẫn còn trong sự hiện diện của bông hồng: không hoạt động, không nghĩ, không cảm, không trái tim không cái đầu. Người ấy đơn giản có đó với bông hồng. Điều này, người Hindu gọi là satsang: hiện hữu với chân lí. Từ satsang có nghĩa là ở trong sự hiện diện của chân lí.

Bông hồng có đó - bạn đang cùng với nó. Đừng tạo ra bất kì hoạt động nào, dù tinh tế hay thô thiển. Nghĩ là hoạt động rất thô thiển, cảm là hoạt động tinh tế - nhưng bạn biết cảm có thể đổi thành nghĩ, nghĩ có thể đổi thành cảm. Chúng là chuyển đổi được, chúng không rất xa nhau cho lắm. Cảm là nghĩ theo một cách, có thể là hạt mầm, hay chỉ mới nhú ra, còn nghĩ là cây, nhưng tiến trình này không khác. Trái tim và cái đầu là không rất xa nhau lắm. Suy nghĩ bắt đầu trong trái tim và ngay lập tức, trước khi bạn trở nên nhận biết, chúng đã đạt tới cái đầu.

Chỉ hiện hữu với... thế thì mọi thứ được lộ ra, thế thì tất cả các cánh cửa đều mở. Không có câu hỏi, không có câu trả lời. Bạn đơn giản trở thành một với thực tại. Nghĩ - và bạn tách rời. Cảm - không tách rời đến thế nhưng vẫn tách rời, được nối lại với nhau nhưng vẫn tách rời.

Đừng nghĩ đừng cảm, chỉ hiện hữu, và bỗng nhiên bạn không có đó và thế giới này không có đó. Cái Một, Brahman, được lộ ra. Bạn và thế giới, cả hai đã trở thành một. Cái Một, cái vô hạn, có đó, cái vô hình có đó - và đó là chân lí.

Chân lí không phải là kết luận triết lí, nó là kinh nghiệm tồn tại. Nó không nghĩ cũng không cảm, nó là sự tồn tại - với toàn bộ bản thể mình, bạn đang cùng với nó.

Khi một giọt nước rơi vào trong đại dương, dù nó rơi với cái đầu hay với trái tim, nó đều rơi một cách toàn bộ - tim, đầu, mọi thứ; tốt, xấu, mọi thứ; thánh nhân, tội nhân, mọi thứ - nó rơi một cách hoàn toàn!

Cả thánh nhân không biết được tới điều thiêng liêng, bởi vì họ quá tốt và cái tốt của họ trở thành rào chắn, lẫn tội nhân cũng không biết, bởi vì họ nghĩ họ quá xấu và cái quá xấu của họ trở thành rào chắn. Người không là thánh nhân cũng chẳng tội nhân, không thế này chẳng thế nọ, người không chọn cái gì, người không tuyên bố điều gì, rằng “Tôi là thế này hay thế nọ,” người đơn giản vẫn còn trong sự hiện diện, người đó mới có thể biết tới điều thiêng liêng.

Và bạn không cần lên Himalaya đâu, bởi vì bạn có thể vẫn còn ở với núi đá và sự việc sẽ xảy ra: bạn không cần đến đền chùa! Bạn có thể vẫn còn ở với cây cối và sự việc sẽ xảy ra. Bạn thậm chí không cần đi tới cây cối: bạn có thể vẫn còn ở lại với bản thân mình và sự việc sẽ xảy ra - bởi vì nó ở mọi nơi. Mọi nguyên tử đều rung động với nó, mọi nguyên tử đều mở hội nó. Mọi thứ đều không là gì ngoài nó.

Ông càng nói và nghĩ nhiều về nó, ông càng vẩn vơ lạc lối xa khỏi chân lí.

Dừng nói và nghĩ, và không có gì mà ông sẽ không có khả năng biết.

Vô suy nghĩ là cánh cửa. Vô lời là cổng. Vô trí là đường.

Làm sao đạt tới điều này? Bạn sẽ làm gì để đạt tới điều này? Chỉ lắng nghe nó sẽ chẳng ích gì, bởi vì tâm trí khôn lỏi thế. Tâm trí sẽ bắt đầu nghĩ về điều này, điều Tăng Xán đang nói; tâm trí sẽ bắt đầu nghĩ và xoay các lí thuyết quanh nó. Tâm trí sẽ nói, “Đúng, điều ấy dường như phải.” Nhưng tâm trí sẽ nói, “Điều ấy dường như phải,” và bạn đã đi lạc lối. Tâm trí sẽ nói, “Không, điều ấy dường như khó, không thể được. Làm sao mình có thể dừng việc suy nghĩ được?” và bạn đã lạc lối.

Nghe tâm trí và bạn chưa bao giờ ở gần chân lí. Nghe tâm trí và bạn bao giờ cũng trên cuộc hành trình.

Tôi đã nghe về một phụ nữ, người vốn là một triết gia, một nhà tư tưởng, đã viết nhiều cuốn sách, rất nổi tiếng. Và thế rồi cô ấy bỗng nhiên tuyên bố với bạn bè mình rằng cô ấy sắp lấy chồng.

Người ta chưa bao giờ nghe tin đồn nào về chuyện tình của cô ấy cả, bởi vì người suy nghĩ có bao giờ yêu đâu. Chẳng ai nghĩ rằng cô ây sắp lấy chồng, cho nên họ ngạc nhiên.

Họ nói, “Người đàn ông này là ai?”

Thế là cô ấy nói ra cái tên - họ thậm chí lại còn ngạc nhiên hơn. Họ nói, “Chị thấy gì ở người đàn ông ấy?”

Một người đàn ông rất bình thường... và người đàn bà này lại rất nổi tiếng. Cô ấy là giáo sư đại học, đã viết nhiều sách, tên tuổi cô ấy nổi tiếng khắp nước. “Lấy người đàn ông này sao? Tại sao, chị thấy gì ở người ấy?”

Cô ấy nói, “Một điều tốt - anh ấy là nhân viên bán hàng lưu động. Anh ấy sẽ không bao giờ ở đây, anh ấy bao giờ cũng du hành.” Các nhà tư tưởng bao giờ cũng lấy nhân viên bán hàng lưu động. “Anh ấy sẽ không bao giờ ở đây và tôi sẽ tự do suy nghĩ và làm việc của tôi.”

Việc lấy chồng với tâm trí ấy là lấy một người bán hàng, một người bán hàng lưu động, người bao giờ cũng trên cuộc hành trình. Và bởi vì tâm trí này vốn bao giờ cũng trên cuộc hành trình mà bạn chẳng bao giờ có thể trong tiếp xúc với cái thực. Bạn ăn nhưng bạn bỏ lỡ việc ăn. Vị ngon, hương vị, mùi vị - bạn bỏ lỡ nó. Bạn đơn giản cứ tống mọi thứ vào bên trong. Điều đó là xấu! Nhưng sao bạn lại bỏ lỡ? Bởi vì tâm trí cứ nghĩ mãi; bạn đang nghĩ cả nghìn lẻ một thứ trong khi ăn.

Rinzai nói, “Khi ta ăn, ta chỉ ăn, còn khi ta ngủ, ta chỉ ngủ.”

Ai đó nói, “Nhưng chẳng có gì đặc biệt trong đó cả, mọi người đều làm điều đó.”

Rinzai cười to và nói, “Nếu mọi người đều làm điều đó, thì mọi người là phật rồi, thế thì mọi người đã chứng ngộ.”

Khi ăn, đơn giản ăn. Là nó. Khi bước đi, đơn giản bước, ở đó. Đừng đi lên trước, đừng nhẩy đây đó. Tâm trí bao giờ cũng đi lên trước hay tụt lại sau. Bạn vẫn còn với khoảnh khắc này.

Ban đầu sẽ rất khó để vẫn còn với khoảnh khắc này. Và đôi khi khoảnh khắc này có thể không rất hạnh phúc. Bạn giận dữ, thế thì tâm trí bắt đầu nghĩ tới ăn năn hay cố gắng để làm điều gì đó sao cho việc giận dữ không bao giờ xảy ra lần nữa. Đôi khi bạn buồn bã; bạn bật radio hay tivi, bạn bắt đầu đọc sách, bởi vì bạn không thích buồn. Bạn muốn làm tâm trí vui. Và bởi vì khoảnh khắc khổ nhiều hơn là khoảnh khắc hạnh phúc, nên điều đó trở thành thói quen thường xuyên. Và khi nó thành cố định, thậm chí hạnh phúc tới mà bạn lại không ở nhà, bạn đang ở đâu đó.

Làm điều này thành vấn đề: bất kì khi nào - buồn bã, giận dữ, bất kì cái gì; thất vọng, bất hạnh - ở cùng nó. Và bạn bỗng nhiên sẽ trở nên ngạc nhiên rằng nếu bạn vẫn ở cùng với cái buồn, cái buồn biến thành điều đẹp đẽ, cái buồn trở thành chiều sâu. Nếu bạn vẫn ở cùng với giận dữ, không nghĩ ngợi lung tung, chỉ ở cùng nó, giận dữ được biến đổi - nó trở thành khoan dung. Nếu bạn vẫn còn dục, dục mang phẩm chất khác - nó trở thành tình yêu.

Nếu bạn bắt đầu sống với khoảnh khắc này, bạn sẽ thấy việc ‘ở cùng với’ của bạn là phép mầu, nó có phép thần thông của nó. Hạnh phúc sẽ trở thành sâu sắc hơn. Thông thường hạnh phúc của bạn chỉ ở trên bề mặt: sâu bên dưới bạn mang cả triệu thứ; nó chỉ ở trên bề mặt thôi. Nếu bạn vẫn còn ở cùng với nó, nó sẽ trở thành sâu sắc hơn, sâu sắc hơn nữa, sâu sắc nữa. Nếu bạn bắt đầu sống cùng với, mọi thứ được biến đổi bởi vì bạn đem phẩm chất mới của sự hiện hữu, của nhận biết, của chứng kiến. Đừng tranh đấu với nỗi buồn và đừng khao khát hạnh phúc, bởi vì đó là việc đi xa, lạc lối.

Bạn đã từng quan sát chưa? - nếu bạn đi nghỉ ở Himalaya hay ở Thuỵ sĩ, bạn lập kế hoạch để tới đó trong nhiều tháng, và khoảnh khắc bạn tới, tâm trí bạn đã lập kế hoạch khi nào thì ra đi, làm sao về nhà. Xem đấy! Hàng tháng bạn lập kế hoạch cách tới và khi bạn tới - hay thậm chí trước khi bạn tới, chỉ mới trên đường - tâm trí bạn đã bắt đầu quay lại: đi về thế nào? Mọi việc tới của bạn chỉ là bắt đầu của việc ra đi. Và bạn chưa bao giờ ở đó bởi vì bạn không thể ở đó được. Lần nữa, trở về nhà bạn sẽ lại bắt đầu nghĩ. Trở về nhà bạn sẽ bắt đầu nghĩ về điều gì đã xảy ra ở Himalaya, những kinh nghiệm đẹp sao mà bạn đã trải qua - và bạn chưa hề ở đó. Cứ dường như là bạn đã đọc về chúng, cứ dường như là ai đó khác đã kể cho bạn. Bạn nhìn vào kí ức dường như kí ức vận hành theo cách của nó; nó chụp ảnh và trở thành quyển an bum. Trở về nhà bạn sẽ mở an bum ra và xem, và bạn sẽ nói với bạn bè, “Đẹp đấy!” Và bạn sẽ bắt đầu lập kế hoạch - lần nữa sang năm bạn lại lên Himalaya.

Tâm trí chưa bao giờ ở nơi bạn đang hiện hữu: nhận biết bao giờ cũng có đó nơi bạn hiện hữu. Vứt bỏ tâm trí ngày càng nhiều đi, và để ý, và trở thành ngày càng nhận biết và tỉnh táo hơn. Đem bản thân mình về với khoảnh khắc này.

Khó khăn ở lúc ban đầu. Tâm trí, bởi vì thói quen cũ, sẽ đi xa mãi. Đem nó lại đi. Không cần phải tranh đấu! Đơn giản gọi nó lại: “Lại đây.” Lần nữa nó sẽ đi... trong vài giây nó sẽ không có đó. Gọi nó lại lần nữa.

Và dần dần, khi bạn bắt đầu tận hưởng khoảnh khắc này - cái vĩnh cửu bây giờ, thời gian duy nhất có đó, sự tồn tại duy nhất có đó, cuộc sống duy nhất có đó - khi bạn bắt đầu tận hưởng nó, tâm trí sẽ tới nó ngày càng nhiều hơn; nó sẽ đi ngày càng nhiều hơn.

Thế thì điểm rẽ xảy ra. Bỗng nhiên bạn lại ở đây, ở nhà, và thực tại được lộ ra. Thực tại này bao giờ cũng có đó, chỉ bạn là không có đó. Không phải là chân lí phải được đi tìm, chính bạn mới là người phải được đưa về nhà.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Đứa trẻ nổi loạn - Osho

Tự truyện - Cuộc đời luận sư Osho