Chương 11. Giai đoạn của hiền nhân


Đạo - Đường vô lộ - Osho
Tao - The pathless path
Tập 2

 
Chương 11. Giai đoạn của hiền nhân


Liệt tử học bắn cung, may mà bắn trúng, hỏi Quan Doãn tử. Doãn tử bảo:

'Anh biết tại sao anh bắn trúng không?'

'Thưa không.'

'Vậy thì chưa được.'

Liệt tử về tập bắn thêm ba năm nữa, rồi lại cho Quan Doãn tử hay, Doãn tử hỏi:

'Anh đã biết tại sao anh bắn trúng không?'

'Thưa biết.'

'Vậy thì được! Nhớ lấy, đừng quên. Chẳng phải riêng việc bắn như vậy đâu, việc trị nước và tu thân cũng vậy. Cho nên bậc thánh nhân không quan tâm tới sự tồn vong bằng cái lẽ tại sao tồn vong.'

Một trong những câu hỏi nền tảng nhất mà bao giờ nhân loại cũng phải đối diện, mà bao giờ cũng có đó để mọi người phải đương đầu, mà diễn ra từ lúc được sinh ra, là bản chất của tri thức, việc biết thực là gì? Chỉ qua việc biết mà người ta mới đạt tới giải thoát, chỉ qua việc biết mà người ta mới đi tới biết cái ta, chỉ qua việc biết mà chân lí mới được hiển lộ.

Con người sinh ra trong dốt nát. Bóng tối là mênh mông. Một cách tự nhiên, câu hỏi đầu tiên mà bất kì người thông minh nào sẽ hỏi là làm sao tìm ra ánh sáng. Ánh sáng là gì? Chúng ta được sinh ra trong bóng tối không biết chúng ta là ai. Bóng tối có thể là cái gì ở đó? Chúng ta thậm chí không nhận biết về chúng ta là ai, chúng ta tới từ đâu, chúng ta đang đi đâu. Chúng ta chỉ dò dẫm bằng cách nào đó, trôi giạt bằng cách nào đó. Chúng ta là ngẫu nhiên. Chúng ta chưa có định mệnh. Chúng ta vô ý thức. Chúng ta chưa đạt tới ánh sáng của bản thể bên trong, cái có thể làm sáng lên con đường của chúng ta. Trong bóng tối này, nếu thất bại xảy ra, điều đó là tự nhiên. Trong bóng tối này, nếu thất bại xảy ra, bạn còn có thể mong đợi cái gì hơn? Trong bóng tối này, nếu bạn chỉ chết và không bao giờ sống, điều đó dường như là logic.

Cho nên câu hỏi nền tảng là: Bản chất của tri thức là gì? Tri thức thực là gì? Con người biết nhiều điều và vậy mà vẫn còn dốt nát. Con người biết nhiều điều nhưng điều nền tảng bị thiếu. Cứ dường như con người đã làm ra toà nhà lớn và nền móng bị thiếu. Con người biết nhiều, tri thức đã tăng trưởng mọi ngày, và vậy mà sâu bên dưới con người vẫn còn dốt nát như bao giờ. Chúng ta phải đã hiểu lầm chính bản chất của tri thức.

Trước khi chúng ta vào chuyện ngụ ngôn rất biểu tượng và rất ý nghĩa này, đôi điều phải được hiểu.

Thứ nhất, chừng nào bạn còn chưa biết tới bản thân mình, mọi việc biết đều vô dụng. Chừng nào bạn chưa biết bản thân mình, nọi việc biết chỉ là biết giả - bạn dường như biết nhưng bạn không thực biết. Nó là lừa dối. Bạn biết khoa học, bạn biết mọi thứ, bạn biết thế giới - nhưng bạn không biết bản thân mình. Nếu bản thân người biết là ở trong bóng tối sâu, mọi tri thức của người đó chỉ là hời hợt, nó thậm chí không thể bằng lớp da. Cào một người của tri thức và bạn sẽ thấy ngay cái dốt nát lòi ra từ người đó. Chỉ cào chút xíu và tri thức của người đó sẽ chẳng còn giúp ích gì. Bạn sẽ thấy một người bình thường và dốt nát như bất kì ai khác.

Nếu bạn xúc phạm một Albert Einstein ông ấy trở nên giận như bất kì ai khác. Nếu Albert Einstein thất bại ông ấy cảm thấy thất vọng như bất kì ai khác. Nếu Bertrand Russell thành công, ông ấy hạnh phúc như bất kì ai khác. Không có khác biệt cơ bản bởi vì cốt lõi bên trong nhất vẫn còn là một. Bertrand Russell tất nhiên biết nhiều hơn bạn nhưng tri thức là về lượng. Ông ấy không là người biết nếu so với bạn, nhưng tri thức không phải là về chất. Khi có liên quan tới bản thể của bạn, ông ấy là hệt như bạn. Ông ấy có nhiều thông tin hơn nhưng không nhiều việc biết hơn. Nhiều thông ti không là nhiều việc biết - và nhiều việc biết không nhất thiết nghĩa là nhiều thông tin.

Vị Phật có thể không biết nhiều như Bertrand Russell biết - ông ấy chắc chắn chưa bao giờ biết nhiều như Bertrand Russell biết - nhưng Phật là người biết còn Bertrand Russell không là người biết. Tri thức của Phật không phải là về sự vật, tri thức của ông ấy là về bản thể riêng của ông ấy. Tri thức của ông ấy không phải là tích luỹ thông tin, tri thức của ông ấy là sự bùng nổ, bùng nổ bên trong của ánh sáng. Đó là lí do tại sao chúng ta gọi nó là chứng ngộ. Ông ấy đã trở nên nhận biết hơn - đó là việc biết của ông ấy.

Ông ấy không còn bước đi một cách không tỉnh táo và không chăm chú. Nếu bạn đánh ông ấy, ông ấy sẽ không phản ứng theo cách người vô ý thức sẽ phản ứng. Ông ấy sẽ đáp ứng, ông ấy sẽ không phản ứng chút nào. Và đáp ứng của ông ấy sẽ không phải bởi vì bạn đã xúc phạm ông ấy, đáp ứng của ông ấy sẽ là từ nhận biết của ông ấy. Đáp ứng của ông ấy sẽ không máy móc - đó là lí do tại sao tôi nói nó sẽ không là phản ứng.

Phản ứng là điều máy móc; bất kì ai đều có thể nhấn nút của bạn và bạn phản ứng một cách máy móc. Bạn không có kiểm soát nào trên cơ chế riêng của bạn. Nếu ai đó xúc phạm bạn, bạn bị xúc phạm liền. Người đó là chủ. Người đó nhấn nút và bạn ở dưới kiểm soát của người đó. Nếu ai đó ca ngợi bạn, bạn tuôn chảy và hạnh phúc - người đó đã nhấn nút khác rồi. Bạn ở dưới kiểm soát của người đó.

Bạn có thể ca ngợi Phật hay bạn có thể kết án Phật nhưng điều đó sẽ không tạo ra khác biệt gì. Bạn có thể cứ cố nhấn nút nhưng Phật sẽ không phản ứng. Ông ấy không còn là cái máy nữa.

Có lần ông ấy bị xúc phạm. Ông ấy đi qua một làng và nhiều người tụ tập và xúc phạm và kết án ông ấy rất nhiều. Giận dữ của họ gần như chính đáng bởi vì Phật đã phá huỷ chính nền tảng của văn hoá mục nát của họ. Ông ấy đã phá huỷ chính luật mà Manu đã mô tả cho người Hindu. Ông ấy đã phá huỷ chính nền tảng của xã hội phân chia giai cấp này - xã hội bị phân chia theo đẳng cấp, varna. Và ông ấy đã phá huỷ chính nền tảng của tính chất sannyas cổ đại, bởi vì trong những ngày xưa ấy một sannyasin được ngụ ý là một người rất già. Sau bẩy mươi nhăm tuổi người ta phải trở thành sannyasin - khi cuộc sống đã đuối dần người ta được giả định là sannyasin. Nhưng Phật đã điểm đạo cho thanh niên, thậm chí cho trẻ em.

Ông ấy đã phá huỷ hai nền tảng cơ bản của xã hội Hindu; ashrama, bốn giai đoạn của cuộc sống - tính chất sannyas là giai đoạn thứ tư, cuối cùng - và hệ thống bốn đẳng cấp, varna. Trong hệ thống này brahmin là đẳng cấp cao nhất và shudra là đẳng cấp thấp nhất và thế rồi ở giữa là vaishya và kshatriya.

Phật đã phá huỷ hệ thống này bởi vì ông ấy nói rằng người biết tới Brahma là brahmin - không phải bởi việc sinh mà bởi việc biết, bởi việc hiện hữu. Ông ấy nói rằng mọi người được sinh ra đều là shudra, tiện dân, thấp nhất - kể cả brahmin. Bởi việc sinh không ai cao hơn và không ai thấp hơn. Bởi việc sinh mọi người đều được sinh ra như con vật. Thế rồi nếu bạn làm việc, trưởng thành, tìm kiếm và làm tinh tế tâm thức của bạn, từ từ, bạn đi lên cao hơn - từ shudra bạn trở thành vaishya.

Vaishya nghĩa là doanh nhân. Người đó có cao hơn chút ít, có vài giá trị hơn trong cuộc sống, thỉnh thoảng có nghĩ tới âm nhạc, thỉnh thoảng nghĩ tới thơ ca. Shudra là người chỉ nghĩ tới thân thể; người đó ăn, ngủ - được kết thúc. Ăn, uống và vui vẻ - đó là toàn thể vòng đời của người đó. Nếu bạn đang làm chỉ điều đó bạn là shudra, người thấp nhất.

Mọi người được sinh ra theo cách đó. Bạn không thể mong đợi đứa trẻ nhỏ quan tâm tới âm nhạc và thơ ca và triết học và tôn giáo được. Khi đứa trẻ được sinh ra nó là kẻ hưởng lạc, một charvaka một người Epicure. Nó ngủ trong mười tám tới hai mươi giờ - bạn có thể mong đợi cái gì hơn được? Bất kì khi nào nó cảm thấy đói nó thức dậy và kêu và khóc - và tìm thức ăn và chất nuôi dưỡng. Thế rồi nó lại rơi vào giấc ngủ. Nó ăn, uống và ngủ. Mọi đứa trẻ đều là một shudra.

Từ từ, khi bạn bắt đầu lớn lên, những chiều hướng mới mở ra trong bản thể bạn. Bạn bắt đầu trở nên quan tâm tới những thứ không chỉ là thân thể. Chút ít của tâm trí, chút ít của tâm lí đi vào trong bản thể bạn. Bạn không còn chỉ là thể chất. Thế rồi bạn là một vaishya. Thế thì bạn đang đi vào trong kinh doanh lớn hơn của cuộc sống, bạn là doanh nhân. Không phải là trạng thái rất cao nhưng tốt hơn shudra.

Thế rồi tới kshatriya, chiến binh. Người đó trở nên chút ít quan tâm hơn tới những điều cao hơn. Người đó bắt đầu tìm chân lí, cái đẹp, tình yêu. Mối quan tâm của người đó là cao hơn mối quan tâm của doanh nhân. Và người đó sẵn sàng đánh cược mạng sống của mình, người đó sẵn sàng mất cuộc sống vì những giá trị cao hơn này. Người đó sẵn sàng mạo hiểm, người đó dũng cảm. Dũng cảm đi vào người đó. Doanh nhân không dũng cảm; nếu mọi thứ diễn ra tốt đẹp người đó có thể tận hưởng âm nhạc, người đó có thể tận hưởng thơ ca, người đó có thể ngồi ở nhà mình - được định tâm, an ninh - và nghĩ về Thượng đế nữa. Nhưng người đó sẽ không trải qua nhiều nguy hiểm, người đó sẽ không nhận mạo hiểm.

Chiến binh, kshatriya, nhận mạo hiểm. Người đó đưa cuộc sống của mình vào lâm nguy. Người đó trở thành người liều lĩnh. Doanh nhân không bao giờ là người liều lĩnh. Người đó nghĩ trước về lợi nhuận và người đó chỉ đi xa chừng nấy. Người đó nhận rủi ro nhưng chỉ tới vậy. Đó là rủi ro có giới hạn và người đó bao giờ cũng nghĩ về lợi nhuận sẽ là gì và tổn thất sẽ là gì. Người đó bao giờ cũng lo nghĩ về lợi nhuận và tổn thất. Chiến binh mạo hiểm tất cả. Người đó đi sâu vào cuộc sống. Đó là giai đoạn thứ ba.

Và brahmin là cao nhất, người đi sâu hơn vào trong điều huyền bí của cuộc sống, thực tại, sự tồn tại. Và người đó chưa bao giờ được thoả mãn chừng nào người đó chưa đi tới biết chân lí tối thượng là gì. Đó là điều Brahmin ngụ ý - người đi tới mặt đối mặt với chân lí tối thượng, chân lí tuyệt đối.

Phật nói rằng đây không phải là phân chia của việc sinh, đây là phân chia về phẩm chất mà người ta phải tiến hoá qua. Mọi người đều phải tiến hoá từ shudra và mọi người phải đi tới brahmin. Ông ấy đã phá huỷ toàn thể cấu trúc.

Và ông ấy nói rằng sannyasin chẳng liên quan gì tới tuổi tác, chẳng liên quan gì tới việc bạn già thế nào. Tính già không liên quan gì tới tính sannyas, nó không phải là một thứ theo thứ tự thời gian. Nếu tính chất sannyas không liên quan tới thời gian thì làm sao nó có thể liên quan tới tuổi được? Tính chất sannyas là chuyển động vào vô thời gian. Cho nên bất kì ai sẵn sàng.... Đôi khi đứa trẻ sẽ đi vào tính chất sannyas. Shankara đã đi vào tính chất sannyas khi ông ấy chỉ mới chín tuổi. Nếu ông ấy chờ đợi theo quan niệm Hindu cổ ông ấy chắc đã không bao giờ trở thành một sannyasin vì đến tuổi ba mươi ba ông ấy chết rồi. Nhân loại chắc đã bỏ lỡ cái gì đó.

Phật nói rằng tính chất sannyas có thể được đi vào bất kì khi nào ai đó sẵn sàng. Và có các phẩm chất khác nhau của mọi người, cường độ khác, đam mê khác. Vào chín tuổi ai đó còn tỉnh táo hơn phần lớn mọi người, ngay cả ở độ tuổi chín mươi. Cho nên bạn không thể quyết định dứt khoát theo tuổi được, bạn phải nhìn vào sự mãnh liệt bên trong của người này. Và đó là cuộc sống của bạn. Nếu bạn muốn mạo hiểm nó, đấy là tự do của bạn. Bạn phải được phép. Phật cho phép thanh niên.

Hai hệ thống này đã là nền tảng của xã hội Hindu, và cả hai đã bị phá huỷ. Và mọi người chống lại ông ấy, cũng là tự nhiên. Ông ấy bao giờ cũng trong nguy hiểm. Nhưng ông ấy đã tạo ra cuộc cách mạng vĩ đại trong tâm thức con người.

Phật đi qua một làng gồm các brahmin. Họ tụ tập lại và họ xúc phạm ông ấy rất nhiều. Ông ấy nghe một cách im lặng. Họ nhấn và nhấn nút mà chẳng cái gì xảy ra. Cho nên họ trở nên hơi lo lắng hoang mang - khi bạn xúc phạm ai đó và người đó đứng đấy không rối loạn, bạn trở nên hoang mang. Ông ấy dường như ở bên ngoài bạn. Thực ra, bạn không thể đạt tới ông ấy được bởi vì ông ấy ở chiều cao thế.

Họ hỏi, 'Ông có nghe không? Sao ông đứng im lặng? Chúng tôi đang xúc phạm và kết án ông. Ông có câm không? Ông có điếc không? Ông không thể nói được sao? Ông không thể nghe được điều chúng tôi đang nói sao?' Phật nói, 'Ta có thể cảm được, ta có thể thấy được lo lắng của các ông, hoang mang của các ông, nhưng ta lấy làm tiếc. Các ông đáng phải tới sớm từ mười năm trước nếu các ông muốn ta phản ứng. Bây giờ thì quá trễ rồi. Bây giờ những cái nút này không có tác dụng nữa. Ta đã đi ra ngoài rồi.'

Cứ dường như đứa trẻ đang chơi với đồ chơi và bạn giằng lấy đồ chơi và nó kêu khóc. Một ngày nào đó nó sẽ không là đứa trẻ nữa và thế thì nếu bạn giằng lấy đồ chơi của nó, nó sẽ không kêu khóc. Thực ra, nó sẽ đưa đồ chơi cho bạn, nó sẽ tặng đồ chơi cho bạn và nó sẽ nói, 'Bác có thể lấy nó, bác có thể có nó. Cháu đã được kết thúc với nó rồi.'

Đó là điều Phật đã nói. Ông ấy nói, 'Quá trễ rồi. Ta đã được kết thúc với nó rồi. Ta đã đi ra ngoài.'

Đây là việc biết, việc biết thực. Việc biết là thay đổi về chất trong bản thể bạn. Nó là biến đổi của bản thể bạn, nó là metanoia: bạn chuyển lên cao hơn, thay đổi chiều cao. Với tri thức, cái gọi là tri thức, bạn vẫn còn như cũ ngoại trừ rằng bạn cứ ôm giữ nhiều hơn. Bạn biết nhiều hơn nhưng bạn vẫn còn như cũ.

Cái gọi là tri thức là gần giống như tiền - bạn cứ tích trữ tiền. Điều đó không làm thay đổi bạn. Làm sao nó có thể thay đổi được bạn? Số dư ngân hàng của bạn cứ tăng lên nhưng điều đó không có nghĩa là bạn trưởng thành cùng với nó. Làm sao bạn có thể trưởng thành cùng số dư ngân hàng được? Bạn có thể bắt đầu thu thập nhiều tiền, bạn có thể tích trữ hang triệu ru pi, nhưng làm sao điều đó sẽ giúp cho trưởng thành của bạn? Bạn vẫn còn như cũ. Đó là lí do tại sao bạn sẽ thấy rằng ngay cả người giầu cũng vẫn còn là kẻ ăn xin. Tiền có đó nhưng tính ăn xin bên trong của họ vẫn còn như cũ. Họ vẫn còn theo cùng cách - cách keo kiệt. Thỉnh thoảng họ thậm chí còn trở nên keo kiệt hơn, bởi vì khi bạn không có bạn không lo nghĩ thế về việc mất nó. Khi bạn có, bạn trở nên lo nghĩ về việc mất nó. Người giầu trở nên nghèo hơn, cái nghèo của họ là mênh mông. Họ không thể chia sẻ được. Họ bao giờ cũng sợ. Cái nghèo bên trong của họ không thay đổi chút nào, nó vẫn còn như cũ.

Nó phải vậy thôi. Nếu bạn hung hăng, chỉ bằng việc thay đổi quần áo bạn sẽ không trở thành người không hung hăng. Nếu bạn là người giận dữ, chỉ bằng đổi kiểu tóc của mình, bạn sẽ không trở thành không giận dữ. Cho nên số tiền bạn có không tạo ra khác biệt gì cho bản thể bên trong của bạn; bạn vẫn còn như cũ.

Và theo cùng cách khối lượng tri thức bạn có không tạo ra khác biệt gì. Bạn có thể đi tới đại học, bạn có thể có mọi bằng cấp có thể, bạn có thể có bằng tiến sĩ khoa học hay tiến sĩ văn chương, bạn có thể tới thăm các thư viện và bạn có thể cứ đọc và đọc và đọc và khảo cứu và bạn có thể thu thập nhiều tri thức - nhưng điều đó sẽ chỉ ở bên ngoài, ở ngoại vi của tâm trí bạn. Nó sẽ chỉ ở trong trí nhớ của bạn, nó sẽ không thay đổi phẩm chất của tâm thức của bạn. Và chừng nào phẩm chất của bạn chưa thay đổi, không cái gì được đạt tới.

Cho nên điều đầu tiên cần được hiểu là ở chỗ tri thức và việc biết là khác nhau. Tri thức là thông tin, việc biết là hiểu biết. Tri thức được thu thập từ bên ngoài, việc biết là trưởng thành bên trong. Tri thức được vay mượn, việc biết là của bạn, đích thực của bạn. Tri thức là được học, việc biết không học được từ bất kì ai.

Bạn phải trở nên tỉnh táo hơn để cho bạn có thể thấy nhiều hơn, để cho bạn có thể cảm nhiều hơn, để cho bạn có thể hiện hữu nhiều hơn. Biết là hiện hữu, tri thức chỉ là tích luỹ ngoại vi.

Điều nữa. Khi bạn là con người của tri thức, khi bạn đã tích trữ nhiều tri thức, bản ngã của bạn sẽ được làm mạnh. Bạn sẽ nghĩ, 'Mình biết nhiều thế.' Và bản ngã là một trong những rào chắn với thực tại, nó không phải là chiếc cầu, nó ngắt quãng, nó không nối liền. Khi bạn là con người của việc biết, bản ngã biến mất - bởi vì con người của việc biết đi tới biết rằng không có gì bạn có thể biết. Làm sao bạn có thể biết được? Cuộc sống huyền bí thế, huyền bí vô cùng thế, không có cách nào để biết nó thực sự.

Nếu bạn có thể biết chỉ bản thân mình thôi, điều đó là quá đủ, hơn cả điều người ta có thể trông đợi. Nếu một ánh sáng nhỏ bắt đầu cháy trong tim bạn và bản thể bên trong của bạn trở nên được thắp sáng, điều đó là quá đủ. Và đó là điều được cần tới. Trong ánh sáng đó bạn trở nên nhận biết rằng thực tại là điều huyền bí tối thượng - đó là điều chúng ta ngụ ý khi chúng ta dùng từ 'Thượng đế'. 'Thượng đế' nghĩa đích xác là điều 'tự nhiên' ngụ ý chỉ với một khác biệt. Trong khái niệm về 'tự nhiên' nó được hàm ý rằng nếu nó không được biết cho tới giờ nó sẽ được biết về sau - nhưng nó có thể được biết. Nó là điều biết được. Đó là nghĩa bản chất của từ 'tự nhiên'.

Mới mấy ngày trước một người vô thần đã nói với tôi và anh ta nói, 'Sao dùng từ 'Thượng đế'? Sao không dùng 'tự nhiên'? Từ 'Thượng đế' tạo ra rắc rối.' Tôi nói, 'Nó có thể được dùng nhưng thế thì bạn sẽ phải trở nên tỉnh táo hơn về nghĩa gì bạn đặt lên nó.' 'Tự nhiên' nghĩa là cái được biết, hay nếu không được biết, cái có thể được biết, nó là biết được về lí thuyết. Khoa học nói 'tự nhiên' bởi vì khoa học nói rằng chúng ta đã biết cái gì đó về nó, chúng ta đang biết cái gì đó về nó, chúng ta sẽ biết cái gì đó về nó. Nhưng, về căn bản, một điều là chắc chắn - rằng một ngày nào đó mọi thứ sẽ được biết. Bằng việc dùng 'Thượng đế' chúng ta đem một chiều khác vào trong nó. Chúng ta nói rằng cái gì đó được biết và nhiều điều sẽ được biết - nhiều điều nữa bao giờ cũng sẽ được biết - nhưng dầu vậy cái gì đó bao giờ cũng vẫn còn không thể biết được, cái gì đó sẽ cứ không nắm bắt được. Điều huyền bí là bao la, điều huyền bí là vô hạn. Và chúng ta là một phần của nó cho nên làm sao bộ phận có thể biết cái toàn thể một cách toàn bộ được? Điều đó là không thể được. Bộ phận không thể biết được toàn thể một cách toàn bộ, bộ phận chỉ có thể biết chừng nào đó vậy.

Con người của việc biết hiểu điều huyền bí của cuộc sống. Đó là lí do tại sao Phật im lặng về cuộc sống. Ông ấy không nói một lời về nó.

Lão Tử giữ yên tĩnh cả đời ông ấy cho tới khi ông ấy bị ép buộc, thực sự bị ép buộc, viết ra kinh nghiệm của ông ấy. Ông ấy già rồi và ông ấy đi lên Himalayas và ông ấy muốn biến mất trong Himalayas nhưng ông ấy bị ngăn cản ở trạm biên ải cuối cùng của Trung Quốc. Lính gác sẽ không cho phép ông ấy đi qua vì họ đã nhận được một thông điệp từ hoàng đế không cho phép Lão Tử thoát khỏi nước chừng nào ông ấy chưa viết ra cuốn sách về kinh nghiệm của ông ấy. Cho nên trong ba ngày, tại trạm biên ải bên ngoài đó, ông ấy ở trong lều và viết ra cuốn sách - bởi vì ông ấy muốn ra khỏi đất nước, ông ấy muốn đi lên Himalayas và biến mất.

Một chỗ đẹp để chết - Himalayas thực sự là chỗ đẹp để chết. Bạn có thể tìm đâu ra chỗ tốt hơn để chết và biến mất vào trong Thượng đế? Không ở đâu có hiện tượng có tính thượng đế như thế. Nhìn các đỉnh Himalaya kia, tuyết trắng ngần với mặt trời chiếu sáng trên nó, cứ dường như là toàn thể thế giới đã trở thành vàng. Quan sát điều đó, trong cái lạnh đó, trong không khí thuần khiết đó, trên độ cao đó, còn không gian nào tốt hơn để chết? Bạn không thể tìm được nấm mồ nào tốt hơn. Nó cực kì đẹp.

Lão Tử rất già và ông ấy đang vội cho nên ông ấy nói, 'Thôi được. Nếu các ông cứ khăng khăng, ta sẽ viết ra.' Nhưng câu đầu tiên ông ấy viết trong Đạo Đức Kinh là: 'Đạo, chân lí, mà có thể được nói ra không phải là Đạo thực. Đạo có thể được thốt ra hay được diễn đạt đã là giả rồi.'

Chân lí không thể được nói ra bởi vì bạn chỉ có thể nói những điều đã thực sự được biết, được biết toàn bộ, được biết hoàn hảo. Thế thì bạn có thể diễn đạt nó. Chân lí chưa bao giờ được biết một cách toàn bộ. Bạn cảm thấy nó, bạn sống nó, bạn có kinh nghiệm lớn về nó, cách nhìn lớn; những điều huyền bí lớn mở ra, nhưng từng điều huyền bí đều đem bạn tới điều huyền bí khác. Như từng cánh cửa mở ra bạn thấy rằng cả nghìn lẻ một cánh cửa vẫn có đó chưa mở. Từng cánh cửa đều đem bạn tới những cánh cửa mới. Cho nên làm sao bạn có thể diễn đạt được nó?

Con người của việc biết sẽ nói 'tôi không biết' hay 'Tôi không biết tất cả, tôi chỉ biết chút xíu. Tôi chỉ biết bản thân mình.' Nhưng điều đó là đủ, quá đủ. Điều đó là điều cao nhất người ta có thể khao khát.

Con người của tri thức cứ tuyên bố rằng người đó biết mọi thứ - do đó người đó chứng minh dốt nát của mình. Chỉ người dốt mới nói rằng người đó biết; người biết bao giờ cũng nói rằng người đó không biết. Đó là dấu hiệu, chỉ báo, về việc biết thực.

Một điều nữa. Khi bạn biết cái gì đó bạn phân chia thực tại thành người biết, cái được biết và tri thức. Thực tại lập tức trở nên bị phân chia thành ba thứ. Đó là nghĩa của biểu tượng ba ngôi trong Ki tô giáo. Nếu bạn biết, Thượng đế trở thành ba. Khoảnh khắc bạn biết, Thượng đế trở thành ba. Cái một không còn là một nữa. Tri thức phân chia. Đó là nghĩa của khái niệm ba ngôi Hindu - Thượng đế có ba khuôn mặt. Khoảnh khắc bạn biết, bạn có ba khuôn mặt. Tri thức phân chia.

Và bây giờ các nhà vật lí nói rằng họ đã đi tới biết điều nền tảng của cuộc sống, nền tảng của sự tồn tại - điện. Lần nữa họ thấy nó được phân chia thành ba: điện tử, neutron và proton. Dường như là ba là rất cơ bản. Dường như là nếu bạn tan biến vào trong thực tại chỉ có một nhưng khoảnh khắc bạn lật lại nó và nhìn nó, nó lập tức biến thành ba. Chắc chắn, bởi vì thế thì bạn phân tách ra, cái bạn biết phân tách ra, và giữa hai cái này là tri thức - người biết, cái được biết và tri thức.

Cho nên tri thức phân chia - và cái mà phân chia không thể dẫn bạn tới chân lí tối thượng được. Việc biết thống nhất. Trong việc biết, người ta không biết ai là người biết, ai là cái được biết và cái gì là tri thức. Đó là lí do tại sao với việc biết người ta trở thành nhà huyền môn: biết, người ta trở thành một với thực tại; biết, người ta mất đi mọi phân biệt, khác biệt, biên giới, định nghĩa, người ta trở nên không xác định - không xác định như bản thân thực tại.

Bây giờ chuyện ngụ ngôn này.

Liệt tử học bắn cung, may mà bắn trúng, hỏi Quan Doãn tử. Doãn tử bảo:

'Anh biết tại sao anh bắn trúng không?'

Từng lời phải được hiểu. Nếm hương vị của từng lời đi - bởi vì từng lời đều có ý nghĩa. Nhưng chuyện ngụ ngôn này không chỉ để đọc trong một chốc và quên đi, nhưng chuyện ngụ ngôn ngày đã được viết để thiền. Đây là phương tiện thiền.

Liệt tử học bắn cung,

Đạo là tôn giáo duy nhất không tạo ra phân biệt giữa thiêng liêng và báng bổ. Mọi tôn giáo khác đều làm phân biệt giữa thiêng liêng và báng bổ.

Cung thuật là nghệ thuật trần tục - hay kiếm thuật, hay nấu ăn, hay nghề mộc, hay vẽ hay thơ ca. Bạn không thể nghĩ về Phật vẽ và bạn không thể nghĩ về Phật như một cung thủ. Bạn thậm chí không thể nghĩ được về Phật làm thơ. Đây là những hoạt động trần tục; Phật là siêu việt. Bạn có thể tưởng tượng Mahavir làm hoạt động bình thường hàng ngày không? Không, ông ấy đơn giản thiền. Ông ấy vẫn còn trong bầu trời thuần khiết nhất. Ông ấy bước đi trên đất nhưng ông ấy không thuộc vào đất. Ông ấy bước đi trên đất nhưng ông ấy chưa bao giờ chạm đất. Ông ấy không là sinh linh trần tục.

Nhưng Đạo là cái gì đó rất hiếm hoi và phi thường. Đạo nói rằng bất kì hoạt động nào cũng có thể được biến thành hoạt động thiêng liêng - bất kì hoạt động nào bất kì cái gì, ngay cả cung thuật, ngay cả kiếm thuật. Ở Trung Quốc và Nhật Bản có các trường về cung thuật và kiếm thuật nhưng bạn sẽ phân vân mà biết rằng trong phòng nơi cung thủ học bắn cung bạn sẽ thấy dấu hiệu: Phòng Thiền. Mọi người học cung thuật hay thỉnh thoảng đấu vật - nhưng phòng được biết là Phòng Thiền. Đây là kiểu thiền gì? Mọi người đánh nhau, vật lộn, học bắn cung - toàn các nghệ thuật giết người. Đây là kiểu thiền gì? Sao họ gọi các phòng này là phòng thiền?

Đạo nói rằng bất kì hoạt động nào được làm với đầy nhận biết đều trở thành thiền. Hoạt động không phải là điều thực - cách bạn làm nó, tâm thức nào bạn đem vào cho nó, mới là điều thực. Bạn có thể cầu nguyện theo cách rất đời thường và thế thì nó trở thành trần tục - bạn biết điều đó. Nếu bạn đi vào đền chùa và nghe lời cầu nguyện của mọi người, bạn sẽ biết điều đó. Lời cầu nguyện của họ không phải là lời cầu nguyện thực. Ai đó đang hỏi xin trúng xổ số; ai đó đang hỏi xin, vợ người đó ốm nên được làm cho mạnh khoẻ trở lại; ai đó đang nói rằng con mình đã thi trượt, lần sau xin Thượng đế chăm nom hộ, ai đó đang nói rằng con gái người đó đã rất lớn rồi và khó kiếm được chàng rể cho cô ta - xin giúp con. Đây là những lời cầu nguyện đấy. Chúng là những hoạt động rất trần tục, rất bình thường. Tại sao bạn gọi chúng là lời cầu nguyện? Cái gì thiêng liêng về chúng? Chẳng cái gì dường như là thiêng liêng về chúng cả. Bạn có thể ngồi trong đền nhưng điều đó không tạo ra khác biệt gì mấy.

Nếu lời cầu nguyện của bạn có thể là báng bổ thế thì các hoạt động bình thường có thể là thiêng liêng. Đó là đóng góp của Đạo cho thế giới. Họ nói rằng hoạt động không phải là điều thực, chính tâm thức bạn mang tới cho nó mới là thực.

Chẳng hạn, bạn có thể tham gia đấu vật. Đô vật Đạo đầu tiên cúi chào đối phương và thiền về đối phương như là Thượng đế, như là điều thiêng liêng - không như kẻ thù. Nếu người đó không thể thiền về đối phương như là Thượng đế, như là người bạn thế thì người đó không phải là Đạo nhân. Thế thì đó là đấu vật thường. Nhưng nếu người đó có thể thấy cùng Thượng đế trong đối phương của mình như người đó cảm thấy trong bản thân mình thế thì cuộc đấu vật là đấu vật chỉ trên bề mặt; sâu bên dưới nó đã trở thành lời cầu nguyện.

Bây giờ, nếu bạn nhìn từ bên ngoài, bạn sẽ rất phân vân. Hai kiếm thủ đấu nhau với kiếm của họ, đầu tiên phải nhìn vào mắt người kia, vào cửa sổ của mắt người kia để có được cảm giác về bản thể của người kia. Nó đích xác giống như bản thể riêng của người đó. Thế rồi họ đánh nhau nhưng đánh nhau là khác toàn bộ. Cuộc đấu không hùng hổ, cuộc đấu không bản ngã, cuộc đấu là trò chơi. Và các đô vật hay kiếm thủ không quan tâm tới việc giết người kia. Họ thậm chí không quan tâm tới việc bảo vệ bản thân họ. Họ đơn giản thảnh thơi và đi vào trong buông bỏ. Thế thì hai năng lượng có đó, nhảy múa. Nó là việc đấu vật với bạn nếu bạn nhìn từ bên ngoài nhưng từ bên trong nó chỉ là điệu vũ của hai năng lượng. Nó gần như chuyện tình, nó là sự gặp gỡ của hai năng lượng.

Và, bạn sẽ ngạc nhiên mà biết, nếu ai đó bị đánh bại người đó bị coi là người còn chưa trong buông bỏ. Người đó vẫn là một bản ngã, đó là lí do tại sao người đó đã thất bại.

Đôi khi chuyện xảy ra là hai đô vật Đạo đã từng vật nhau lặp đi lặp lại trong nhiều năm và không ai thua cả - vì cả hai đều không bản ngã. Làm sao bạn có thể đánh bại được người không bản ngã? Cả hai đều không hung hăng. Cả hai đều trong tình yêu vô cùng tới mức không ai có thể đánh bại được người kia.

Hai kiếm thủ có thể đánh nhau trong nhiều giờ và không ai bị thương. Đây là nghệ thuật. Toàn thể nghệ thuật là thành trống rỗng tới mức kiếm không thể chém được vào cái gì. Bây giờ, nếu ai đó đánh bạn, bạn co lại; nếu ai đó đánh bạn, bạn chống lại. Nghệ thuật của Đạo là: khi ai đó đánh bạn, bạn mở rộng ra. Bạn nhận cú đánh đó vào trong bản thân bạn và hấp thu nó.

Nếu ai đó ném năng lượng vào bạn, đừng tranh đấu với năng lượng đó, hấp thu nó đi. Người đó đang cho bạn năng lượng và bạn đang đánh lại nó. Thay vì thế hấp thu nó đi. Đôi khi thử điều đó. Nếu ai đó đánh bạn hay đấm bạn, một ngày nào đó thử hấp thu nó.

Cứ đi cùng với nó. Đừng trở nên cứng rắn, đừng trở nên cứng nhắc, để cho nó được hấp thu. Bạn sẽ ngạc nhiên. Bạn sẽ ngạc nhiên vì sẽ có kinh nghiệm mới toàn bộ. Nếu hai chiến sĩ có đó và một chiến sĩ cứ hấp thu năng lượng của người kia - bất kì cái gì người kia ném ra, người ném ra sẽ bị đánh bại. Không phải là người khác đã đánh bại người này, người này tự đánh bại mình. Người này sẽ trở nên yếu hơn và yếu hơn và yếu hơn và người này sẽ bị đánh bại. Và người kia người sẽ đi ra từ nó rất rạng ngời.

Từng hoạt động đều có thể được biến thành thiền. Ngay cả các nghệ thuật giết người của cung thuật cũng có thể biến thành nghệ thuật không bạo hành. Đây là cách mạng lớn lao.

Bản ngã là cứng rắn và nam tính. Đạo tin vào nữ tính. Bản ngã là hung hăng, nữ tính là cảm nhận. Đạo tin vào cảm nhận. Đạo tin vào việc trở thành bụng mẹ. Bản ngã, bản ngã nam tính nhất định xuyên thấu hơn là bị xuyên thấu. Bản ngã nam tính bao giờ cũng cố xuyên thấu vào người khác - như trong dục. Trong mọi thứ bản ngã nam làm là việc xuyên thấu, nỗ lực xâm phạm vào người khác. Và nữ tính là hấp thu - cũng như trong dục. Như trong dục, nó là vậy trong mọi thứ.

Bạn đã không quan sát điều đó xảy ra mọi ngày hay sao? Bạn có thể đã không nghĩ tới nó theo cách đó. Đàn bà bao giờ cũng là người thắng. Napoleon có thể là người vĩ đại bên ngoài nhà ông ấy, nhưng khi ông ấy về nhà ông ấy không là gì cả. Đàn bà có thể nhỏ bé, nhỏ người đấy, nhưng người đàn bà đó chi phối. Mọi ông chồng đều sợ vợ. Và tôi nói mọi. Nếu bạn có thể tìm thấy một người chồng không sợ vợ thế thì biết cho rõ người đó là Đạo nhân. Thế thì người đó không nam tính, đó là lí do tại sao người đó không sợ vợ. Người đó đã là nữ tính rồi. Từng người chồng đều phải sợ vợ bởi vì năng lượng bản ngã không thể thắng được năng lượng vô bản ngã.

Bạn không quan sát điều đó sao? Người đàn bà khóc là rất mạnh. Bạn có thể có mọi cơ bắp của thế giới, bạn có thể là Mohammed Ali vĩ đại, nhưng ngay cả Mohammed Ali, khi bạn gái anh ta khóc, cũng chả biết phải làm gì. Nước mắt dường như còn mạnh hơn. Sức mạnh của nước mắt của người đàn bà là gì? Cô ấy mảnh mai thế, cô ấy mong manh thế, cô ấy mềm mại thế - sức mạnh của người đàn bà tới từ đâu? Tại sao cô ấy chi phối? Làm sao cô ấy xoay xở được? Cô ấy xoay xở mà không xoay xở. Thực ra, cô ấy nói rằng cô ấy chỉ là hạt bụi dưới chân bạn. Đó là cách cô ấy xoay xở. Cô ấy xoa bóp chân bạn. Đó là cách cô ấy xoay xở. Cô ấy chăm sóc bạn. Cô ấy hầu hạ bạn theo cả nghìn lẻ một cách. Và đó là cách cô ấy trở thành người chinh phục. Cô ấy chưa bao giờ xuyên thấu vào bạn, cô ấy chưa bao giờ cố chinh phục bạn - đó là thắng lợi của cô ấy. Cô ấy là không được phòng thủ. Nhưng dầu vậy sức mạnh lớn lao nào đó tới từ nguồn không biết nào đó.

Đạo nhân nói rằng đây là sức mạnh của yếu tố nước. Đàn ông giống như đá và đàn bà giống như nước. Khi nước rơi lên đá, đá biến mất, trở thành cát - sớm hay muộn. Đấy chỉ là vấn đề thời gian. Lúc tiếp xúc đầu tiên của nước với đá, đá mạnh thế và nước mềm yếu tới mức bạn không thể nào tưởng tượng về mặt logic rằng một ngày nào đó nước sẽ phá huỷ đá, rằng đá sẽ biến thành cát và nước sẽ vẫn có đó.

Đây là điều Lão Tử gọi là 'cách thức của nước' - sức mạnh của nữ tính.

Năng lượng của nam tính là năng lượng của người đốn củi, của tiều phu. Bạn có quan sát tiều phu đốn củi không? Đó là năng lượng của nam tính - huỷ diệt, hung hăng, bạo hành. Năng lượng nữ tính là năng lượng của chịu đựng. Nam vật lộn với cuộc sống thay vì bơi cùng nó; nữ đi cùng nó, bơi cùng nó, không vật lộn với nó. Nữ là mềm dẻo và có tính dẻo, linh động hơn.

Nếu ai đó học cung thuật, người đó có thể học nó như năng lượng nam tính. Thế thì người đó sẽ trở thành chuyên gia kĩ thuật nhưng người đó sẽ bỏ lỡ nghệ thuật sâu sắc hơn của nó.

Liệt tử học bắn cung, may mà bắn trúng.

Bây giờ đây là hiểu biết của người này. Nếu bạn bắn trúng đích bạn đã học được nghệ thuật. Cần gì thêm nữa? Nếu trong một trăm lần bạn bắn trúng đích cả trăm lần, một trăm phần trăm trúng, còn cần gì thêm nữa?

Ở Nhật Bản một giáo sư Đức, Herrigel, đến học cung thuật với một Thiền sư. Ông ấy trở nên hoàn hảo, một trăm phần trăm hoàn hảo, không một mục tiêu nào bị bỏ lỡ. Một cách tự nhiên ông ấy nói với thầy, 'Bây giờ còn có gì thêm nữa? Bây giờ tôi còn phải học cái gì thêm ở đây? Bây giờ tôi có thể đi được không?' Thầy nói, 'Ông có thể đi nhưng ông đã chưa học được ngay cả ABE về nghệ thuật của ta.' Và Herrigel nói, 'ABE về nghệ thuật của thầy sao? Mục tiêu của tôi là một trăm phần trăm bây giờ.' Thầy nói, 'Ai đang nói về mục tiêu? Bất kì kẻ ngu nào cũng có thể làm điều đó chỉ bằng việc thực hành. Điều đó chẳng là gì nhiều. Bây giờ điều thực bắt đầu.'

Nghe đấy. Khi cung thủ cầm cung và tên và nhắm vào mục tiêu, có ba thứ: cung thủ, điều nền tảng và cơ sở nhất, cội nguồn, cái bên trong nhất. Thế rồi có mũi tên mà sẽ đi từ cung thủ tới mục tiêu. Và thế rồi có điểm đen, mục tiêu, thứ xa xôi nhất. Nếu bạn bắn trúng mục tiêu bạn đã chạm tới cái xa nhất, bạn đã chạm tới ngoại vi. Bạn phải chạm tới cội nguồn. Bạn có thể trở thành chuyên gia về kĩ thuật trong việc bắn vào mục tiêu nhưng điều đó chẳng là mấy - không mấy nếu bạn đang cố gắng dấn sâu hơn vào trong nước. Bạn là chuyên gia, bạn là con người của tri thức, nhưng không phải là con người của việc biết.

Mũi tên đi từ bạn nhưng bạn không biết mũi tên đi từ cội nguồn nào, bằng năng lượng nào. Nó đi như thế nào? Ai làm cho nó đi? Bạn không biết điều đó. Bạn không biết cung thủ. Cung thuật bạn đã học, mục tiêu bạn đã đạt tới, một trăm phần trăm hoàn hảo là mục đích của bạn, ở mức độ hoàn hảo một trăm phần trăm bạn đã trở thành hiệu quả - nhưng đây là về mục tiêu. Về bạn thì sao? Về cung thủ thì sao? Cái gì đã xảy ra trong cung thủ? Tâm thức của bạn có thay đổi chút nào không? Không, chẳng cái gì đã thay đổi. Bạn là nhà kĩ thuật, bạn không phải là nghệ sĩ thực.

Đạo nhân nói rằng điều thực là thấy cội nguồn từ đó mục đích này tới, từ đó việc nhắm này tới, từ đó mũi tên này lấy năng lượng. Người đã thành công đó là ai? Năng lượng này là gì? Loại người nào đang ẩn đằng sau bạn? Đó mới là mục tiêu thực. Nếu đó là mục tiêu và thỉnh thoảng bạn trượt mục tiêu bên ngoài, chẳng cái gì sai.

Tương truyền là một cung thủ lớn ở Nhật Bản thường hay bắn trượt mục tiêu. Ông ấy là thầy vĩ đại nhất nhưng ông ấy chưa bao giờ có khả năng nhắm đúng.

Ông ấy phải là người như tôi. Mới vài ngày trước đây Priya đã nêu ra một câu hỏi mà tôi còn chưa trả lời. Cô ấy hỏi: Osho ơi, thầy không thể bước thẳng được sao? Chưa bao được giờ thử cả!

Thầy đó phải đã là người như tôi - người không thể nào bước thẳng được. Ông ấy phải đã là người say. Cho nên ông ấy thường bắn trượt. Ông ấy chưa bao giờ thành công, không cả đến một lần trong cả đời ông ấy. Nhưng ông ấy nổi tiếng khắp Nhật Bản là thầy vĩ đại nhất.

Tính thầy của ông ấy là gì? Tính thầy của ông ấy là một loại khác toàn bộ. Ông ấy đã xuyên thấu vào cội nguồn, ông ấy đã làm mục tiêu là trung tâm của ông ấy.

Ngoại vi không phải là vấn đề. Bạn có thể thành công hay bạn có thể thất bại, nhưng điều đó không phải là vấn đề chút nào. Điều thực là: bạn có thành công trong việc được định tâm vào bản thể bạn không? Mục tiêu đó có được đạt tới không?

Thành công với mục tiêu bên ngoài là năng lượng nam tính, thành công với cội nguồn bên trong của bạn là năng lượng nữ tính. Thành công với cội nguồn bên ngoài bạn phải năng nổ, tham vọng, tập trung, chăm chú, đi ra, hướng ngoại - mũi tên sẽ đi ra, sẽ đi xa hơn khỏi bạn. Nó sẽ đi xa khỏi bản thể bạn. Mũi tên sẽ đi vào trong thế giới.

Để đi vào trong trung tâm của bạn, người ta cần có nữ tính, thụ động, bất hoạt, không làm, không can thiệp, vô vi, tính thiền; thiền, thảnh thơi, không tập trung, là được cần tới. Người ta phải thảnh thơi bản thân mình hoàn toàn và toàn bộ. Khi bạn không làm gì thế thì bạn ở trung tâm của bạn; khi bạn đang làm cái gì đó bạn đã đi xa. Khi bạn làm quá nhiều bạn ở quá xa xôi. Lại gần hơn nghĩa là bạn đang vứt bỏ hoạt động của bạn, bạn đang học cách bất hoạt, bạn đang học cách là người không làm.

Thầy của Herrigel nói với ông ấy, 'Ông đã trở thành người làm, người làm hoàn hảo, nhưng đó không phải là vấn đề. Điều đó ông có thể học được ở Đức, không cần tới Nhật Bản làm chi. Nghệ thuật nam tính là sẵn có ở phương Tây, không có vấn đề gì. Ông có thể học bắn. Nhưng nếu ông đã tới Nhật Bản, tới phương Đông, thế thì xin ông, bây giờ học điều thực. Bây giờ ông phải cầm cung mà không là người làm; ông phải kéo cung mà không là người kéo; ông phải nhắm vào mục tiêu mà không nhắm. Không nên có căng thẳng, không nỗ lực, không làm về phần ông. Ông chỉ phải thụ động. Ông phải để cho nó xảy ra thay vì làm nó. Thế thì ông sẽ được định tâm.'

Bạn có biết khác biệt khi bạn làm một điều và khi bạn để cho nó xảy ra không? Nếu bạn biết khác biệt đó thì bạn có thể hiểu được chuyện ngụ ngôn này, bằng không nó sẽ là khó.

Để tôi nhắc bạn, bởi vì bạn có thể đã không chú ý tới nó. Đôi khi, làm tình với người đàn bà, bạn là người làm. Thế thì bạn lỡ. Vâng, có phát tiết dục nhưng đấy không phải là cực thích đúng. Thế rồi đôi khi nó không phải là việc làm, bạn cho phép nó xảy ra. Thế thì nó là việc thoát ra, chắc chắn, nhưng với cái thêm vào. Nó là cực thích. Bạn có cảm giác bành trướng. Bạn trở thành to lớn và khổng lồ, bạn chạm tới chính biên giới của sự tồn tại. Trong khoảnh khắc đó bạn biến mất như một bản ngã. Bạn không có đó. Bạn đập rộn ràng từ thâm tâm này sang thâm tâm khác, bạn đập trong mọi tầng, nhưng bạn không là người làm. Đem người làm vào và việc đập dừng lại. Bỏ người làm và việc đập lại bắt đầu.

Đôi khi, bơi trong sông, bạn bắt đầu nổi. Việc bơi là hay nhưng không là gì khi so sánh với việc nổi. Đôi khi, chỉ nằm trong sông, thậm chí không làm nỗ lực nào, bạn bắt đầu nổi cùng sông. Thế rồi bạn sẽ biết một phẩm chất khác toàn bộ của kinh nghiệm. Sông ôm bạn trong tay nó, sông đỡ bạn, sông và bạn không còn là kẻ thù - có một loại gắn nối bên trong. Bạn đã rơi vào mối quan hệ với năng lượng sông; năng lượng của bạn và năng lượng của sông đang làm tình. Thế thì có cực thích.

Đôi khi, ngồi im lặng, không làm gì, bạn đã trở nên nhận biết về buông bỏ. Và có phúc lành. Đôi khi nhìn sao hay nhìn cây đột nhiên nó có đó. Bạn đã không làm gì cả.

Những khoảnh khắc này tới với cuộc sống của mọi người. Không được mời chúng vẫn tới. Chúng tới chỉ khi bạn không mong đợi, chúng tới chỉ khi bạn không có - chúng lẻn vào khi cửa của bạn mở và bạn thảnh thơi. Đôi khi chẳng từ cái gì và từ đâu cả một phúc lành lớn tới. Những khoảnh khắc này tới với mọi người nhưng bạn đã không quan sát chúng, bạn đã không để ý tới chúng. Đây là món quà từ Thượng đế. Chúng là người nhắc nhở rằng bạn đang ở mảnh đất lạ - quay về nhà đi. Đây là những người nhắc nhở. Thượng đế cứ gõ cửa trái tim bạn lặp đi lặp lại - bất kì khi nào cơ hội có đó, bất kì khi nào bạn cho phép ngài vào.

Vào chủ nhật bạn có thể nằm trên giường và bạn không vội vàng gì để đi tới văn phòng và trẻ con thức dậy và chạy quanh phòng và vợ bạn đang chuẩn bị trà và có tiếng nước sôi, và tiếng người đưa sữa và tiếng xe cộ đi lại bên ngoài, và bạn trở mình trên giường và bạn kéo chăn lên và chẳng vội vàng gì và không có đâu để đi cả - đó là chủ nhật. Ki tô giáo đã cho thế giới chỉ mỗi một điều hay - chủ nhật. Hindu giáo không có chủ nhật. Chủ nhật là đóng góp vĩ đại nhất của Ki tô giáo. Bạn có thể mơ thêm chút nữa, bạn có thể vẫn chập chờn trong giấc ngủ nữa. Có hơi nước từ bếp, mùi từ bếp, bữa sáng đang được làm và bạn đang trong trạng thái thảnh thơi, không căng thẳng - và đột nhiên bạn cảm thấy đẹp vô cùng. Cuộc sống có nghĩa. Cái gì đó nở hoa trong bạn. Cái gì đó không biết đi vào bạn. Đây là những khoảnh khắc khi bạn là nữ.

Xô tới văn phòng bạn trở thành nam. Bạn có thể đi dạo trên phố mà bạn đi tới văn phòng mọi ngày, nhưng khi bạn đi dạo bạn là nữ. Khi bạn đi dạo bạn không đi đâu nói riêng, bạn chỉ tận hưởng chim trên cây và gió và buổi sáng và mặt trời sáng và trẻ con cười và trẻ con đi tới trường. Bạn tận hưởng và bạn không đi đâu nói riêng, tại bất kì điểm nào bạn đều có thể quay về nhà; không có mục tiêu, không có mục đích, bạn đơn giản tận hưởng đi dạo buổi sáng - và đột nhiên nó có đó khoảnh khắc của buông bỏ.

Quan sát những khoảnh khắc này của buông bỏ đi, bởi vì chúng là thông điệp từ Thượng đế. Quan sát những khoảnh khắc này của buông bỏ, yêu mến chúng, nếm trải chúng nhiều hơn. Đón chào chúng để cho chúng trở nên ngày một sẵn có cho bạn. Đón nhận vị khách này một cách biết ơn để cho nó bắt đầu tới ngày một thường xuyên hơn.

Đạo nói rằng cái thực xảy ra chỉ khi bạn trong trạng thái mà sự thảnh thơi được khuếch tán tới mức bạn không thể nói tôi đây. 'Tôi đây' nghĩa là bạn căng thẳng.

Liệt tử học bắn cung, may mà bắn trúng, hỏi Quan Doãn tử. Doãn tử bảo:

'Anh biết tại sao anh bắn trúng không?'

Quan Doãn tử này là một Đạo sĩ và một cung thủ. Liệt Tử hỏi ông ấy về cung thuật của mình và Liệt tử nói, 'Tôi đã trở thành chuyên gia; về mặt kĩ thuật, về mặt công nghệ, tôi đã đạt tới mục đích của tôi. Tôi đã bắn trúng mục tiêu.' Thầy hỏi, 'Anh biết tại sao anh bắn trúng không? Từ đâu? Anh là ai? Ai là người đã bắn trúng mục tiêu? Anh có nhìn sâu vào cội nguồn của năng lượng của anh không? Quên mục tiêu đi và nhìn vào cung thủ. Cung thuật anh đã học rồi, về cung thủ thì sao? Bây giờ anh phải học về cung thủ. Và các quá trình là rất khác nhau. Anh phải học cung thuật nhưng nếu anh muốn học cung thủ anh sẽ phải dỡ bỏ cung thuật.'

Bằng việc học, bạn biết thế giới; bằng việc dỡ bỏ, bạn biết bản thân mình. Bằng việc học, bạn tích luỹ tri thức; bằng việc dỡ bỏ, bạn trở thành người biết.

Bằng việc học, bạn tích trữ; bằng việc dỡ bỏ, bạn trở thành trần trụi, trống rỗng.

Thầy hỏi, 'Anh biết tại sao anh bắn trúng không?' Tại sao? Đó là điều Socrates ngụ ý khi ông ấy nói với đệ tử của ông ấy, 'Cuộc sống không được xem xét là không đáng sống. Ông có thể thành công, nhưng nó là không đáng sống nếu nó đã không được xem xét sâu tới mức ông biết chính cội nguồn của nó, chính nền tảng của nó.'

Bạn thấy hoa trên cây nhưng đó không phải là tri thức thực trừ phi bạn đi sâu và bạn biết rễ. Hoa phụ thuộc vào rễ. Hoa không là gì ngoài cốt lõi bên trong nhất của rễ đi tới được diễn đạt. Rễ mang thơ ca, cội nguồn, nhựa sống, cái sẽ trở thành hoa, cái sẽ trở thành quả, cái sẽ trở thành lá. Và nếu bạn tiếp tục cứ đếm lá và hoa và quả và không bao giờ đi sâu vào bóng tối của đất, bạn sẽ không bao giờ hiểu được cây bởi vì cây là ở trong rễ.

Rễ của cung thủ kia là ở đâu? Bạn đã thành công trong việc bắn trúng mục tiêu - đó là việc nở hoa - nhưng rễ của bạn ở đâu? Bạn có biết tại sao bạn bắn trúng mục tiêu không? Bạn có biết tại sao hoa đã nở hoa không? Bạn có biết từ đâu, từ cội nguồn nào không? Hoa là hoạt động cuối cùng, ngoại vi cuối cùng. Rễ là hạt mầm, hoạt động chủ chốt đầu tiên, cơ bản nhất. Rễ có thể tồn tại mà không có hoa nhưng hoa không thể tồn tại nếu không có rễ. Bạn có thể cắt hoa ra và hoa khác sẽ tới; thực ra, hoa tốt hơn nhiều sẽ tới. Nếu bạn cắt hoa, rễ sẽ nhận thách thức ngay lập tức và chúng sẽ phái tới một đoá hoa lớn hơn. Chúng sẽ nói, 'Để xem ai sẽ thắng.'

Có lần tôi có một người làm vườn, một người rất hiếm hoi, một bậc thầy về làm vườn, người thường đoạt giải mọi cuộc thi trong thành phố. Không ai có khả năng tạo ra những đoá hoa lớn như thế như ông ấy tạo ra - đủ loại hoa. Và tôi hỏi ông ấy, 'Bí mật của ông là gì?' Ông ấy nói, 'Đây là bí mật của tôi: Tôi thách thức rễ.' Tôi nói, 'Ông ngụ ý gì?' Ông ấy nói, 'Tôi cứ cắt hoa đi. Tôi không cho phép hoa thường xảy ra với cây này chút nào. Nếu cây có thể cho một trăm hoa tôi chỉ cho phép một hoa thôi, chín mươi chín hoa kia tôi bỏ đi; tôi cắt chúng ngay lập tức bởi vì đó là phí hoài. Và rễ phát điên hơn và phát điên hơn và phát điên hơn và giận hơn và giận hơn. Và thế rồi tới đoá hoa lớn nhất - cứ dường như cả trăm hoa đã được làm thành một hoa. Cuối cùng rễ thắng. Đó là bí mật của tôi, tôi làm cho chúng điên.'

Bạn có thể cứ cắt hoa và nó sẽ tới nữa, cắt hoa khác và nó sẽ được thay thế. Nhưng cắt rễ và cây đi đời.

Thầy hỏi, 'Anh có biết tại sao anh bắn trúng không?' Đệ tử này nói, không ngần ngại gì, không chờ đợi lấy một khoảnh khắc, 'Thưa không.' Đây là chân thực. Đệ tử này thực sự là đệ tử. Đó là bản thân Liệt Tử, người chúng ta đã nói trong mọi ngày này. Ông ấy nói, 'Thưa không.' Đây là chân thực.

Nếu tôi hỏi bạn, 'Bạn có biết bạn là ai không?' chỉ người rất, rất chân thực sẽ nói không. Người không chân thực sẽ bắt đầu suy nghĩ ủ ê. Người đó sẽ nói, 'Để tôi nghĩ đã.' Bạn định nghĩ về cái gì? Nếu bạn biết, thì bạn biết; nếu bạn không biết, bạn không biết. Bạn định nghĩ về cái gì? Suy nghĩ có nghĩa là bạn cố gắng xoay xở câu trả lời, bạn sẽ cố gắng chế tạo ra câu trả lời. Nếu ai đó hỏi bạn, 'Anh có biết Thượng đế không?' bạn đã bao giờ trả lời không chưa? Không, rất khó tìm ra một người có thể nói không. Và đó là người có thể trở thành đệ tử thực, đó là người một ngày nào đó có thể biết.

Bạn sẽ không nói không. Ai đó sẽ nói 'Vâng, có Thượng đế chứ. Tôi biết' và ai đó sẽ nói 'Không có Thượng đế đâu. Tôi biết' nhưng cả hai đều biết. Không ai có khả năng nói không.

Đệ tử này nói không - anh ta là đệ tử thực, đệ tử chân thực, đích thực. Đệ tử phải mở trái tim mình trước thầy, đệ tử phải trần trụi. Anh ta phải không che giấu cái gì - bởi vì nếu bạn che giấu thầy bạn sẽ không bao giờ trưởng thành.

Liệt Tử nói, 'Thưa không.' Thế rồi thầy nói, 'Vậy thì chưa được. Điều đó là tốt, anh đã tiến bộ. Và cái không của anh là chỉ báo tốt, nhưng chưa được. Anh phải đi xa hơn, dẫu sao anh vẫn phải đi xa hơn.'

Liệt tử về tập bắn thêm ba năm nữa, rồi lại cho Quan Doãn tử hay,

Anh ta làm gì trong ba năm? Anh ta đã đạt tới mục tiêu của mình cho nên anh ta làm gì trong ba năm? Chuyện ngụ ngôn này không nói, bởi vì đây là chuyện ngụ ngôn để được thiền. Chuyện ngụ ngôn là chuyện chỉ nói vài điều và bỏ đi nhiều điều không được nói. Cho nên bạn phải thiền và lấp vào các lỗ hổng. Bạn phải tìm ra các khoảng hở ở đâu. Và trong những khoảng hở này là điều thực.

Anh ta đã làm gì trong ba năm? Khi bạn đã bắn trúng mục tiêu thì bạn có thể làm gì thêm nữa? Bây giờ anh ta đang dỡ bỏ. Việc học đã kết thúc, anh ta đã bắn trúng mục tiêu, việc học đã hoàn tất - cho nên bạn có thể làm cái gì khác? Anh ta đã dỡ bỏ, hay, anh ta quay mắt mình vào bên trong.

Quan sát xem. Khi cung thủ cầm cung và tên trong tay, mắt người đó nhìn vào mục tiêu, một cách tự nhiên. Nhưng Liệt Tử đã làm gì trong ba năm? Khi anh ta cầm cung và tên anh ta sẽ nhìn vào mục tiêu nhưng sâu bên dưới anh ta sẽ nhìn vào bản thân mình. Mục tiêu trở thành phụ. Mũi tên của tâm thức của anh ta trở thành mũi tên kép - đó là điều Gurdjieff gọi là tự nhớ.

Khi bạn nhìn tôi, bạn thấy tôi; tâm thức của bạn là mũi tên một chiều - mũi tên hướng tới tôi. Nếu bạn thay đổi.... Điều này bạn có thể làm ngay bây giờ và điều đúng là làm nó để hiểu. Bạn nhìn tôi, mắt bạn nhắm vào tôi. Nếu bạn thực sự nhắm vào tôi bạn sẽ quên bản thân bạn. Đây là việc quên. Bây giờ làm cho tâm thức bạn thành mũi tên kép. Nhìn vào tôi và đồng thời, cùng lúc, nhìn vào bản thân bạn. Nhìn vào cái được nhìn và nhìn vào người đang nhìn.

Khi bạn đang nghe tôi, nghe đi, nhưng bao giờ cũng trở nên nhận biết về người nghe nữa. Người nói phải được nghe và người nghe cũng phải được nghe nữa. Thế thì tâm thức bạn có mũi tên kép. Ngay bây giờ nó là giao thông một chiều: bạn nhìn tôi và bạn không nhìn vào bản thân bạn. Đây là một loại tự quên. Nếu bạn nhìn tôi và đồng thời trở nên có khả năng nhìn vào bản thân bạn, trong khoảnh khắc đó tự nhận biết xảy ra. Phật gọi điều đó là samyak smriti; Kabir gọi nó là surati; Gurdjieff gọi nó là tự nhớ. Nhưng nó là như nhau.

Điều Liệt Tử đã làm trong ba năm trong rừng là nhiệm vụ gian nan hơn. Việc học là đơn giản. Anh ta là nam. Bây giờ anh ta phải trở thành nữ. Đầu tiên anh ta cố xuyên thấu vào mục tiêu bên ngoài, bây giờ anh ta bắt đầu đi vào bên trong, vào bụng mẹ của bản thể riêng của anh ta. Anh ta trở thành nữ.

Tri thức là năng nổ; việc biết là thụ động.

Có hai kiểu tâm trí được nói tới trong Đạo: một kiểu họ gọi là mui và kiểu kia họ gọi là ui. Mui nghĩa là tự nhiên, thảnh thơi, và ui nghĩa là phi tự nhiên, căng thẳng. Khi bạn tranh đấu với cuộc sống bạn tồn tại như ui; khi bạn tuôn chảy với cuộc sống bạn tồn tại như mui. Bơi, bạn vận hành như ui; nổi, bạn vận hành như mui.

Khi bạn đang trong buông bỏ điều tự nhiên tâm trí trong hài hoà với cái toàn thể, trong hài hoà với Đạo. Thế thì những chim này hót ở đây không phải là việc làm sao lãng; ngược lại, chúng làm giầu có. Thế thì mọi thứ là được phép. Mọi cánh cửa đều mở. Bạn không kháng cự lại, bạn không vật lộn, bạn đơn giản hiện hữu. Đó là trạng thái của mui.

Đầu tiên Liệt Tử học và tạo ra trạng thái ui; anh ta trở thành rất năng nổ, hướng ngoại, trỏ tới bên ngoài. Nó là tham vọng. Anh ta đã thành công; anh ta đã hoàn thành mục tiêu của mình. Thế rồi thầy nói đây không là gì cả, anh ta phải đi xa hơn. Thế rồi anh ta đã làm gì trong ba năm? Anh ta đã trở thành mui; anh ta thảnh thơi. Anh ta sẽ ngồi im lặng và cảm thấy việc buông bỏ. Và từ từ anh ta sẽ lấy tên và cung và bắn mũi tên trong trạng thái buông bỏ. Anh ta sẽ không bắn nó - anh ta sẽ cho phép nó được bắn. Điều đó là khó khăn. Anh ta sẽ không bắn nó - anh ta sẽ chờ đợi cho nó tự bắn nó.

Herrigel đã thử với thầy nhưng không thể thành công. Thế rồi một hôm, thất vọng quá, anh ta nói, 'Tôi nghĩ tôi chắc sẽ chẳng bao giờ có khả năng thành công. Tôi không thể hiểu được thầy gọi mui này là cái gì, nó toàn là vô nghĩa. Làm sao mũi tên tự nó bắn đi nếu tôi không bắn nó? Nếu tôi không kéo cung làm sao mọi sự có thể xảy ra theo cách riêng của nó? Điều đó là không thể được.'

Chúng ta có thể hiểu được Herrigel. Đó là toàn thể thái độ phương Tây: điều đó là không thể được.

Thầy nói, 'Thế thì ông có thể đi.' Herrigel nói, 'Thầy sẽ cho tôi xác nhận chứ?' Thầy nói, 'Không thể được, bởi vì ông đã không học cái gì cả. Bất kì cái ông đã học ông có thể đã học ở bất kì đâu khác, cho nên nó không phải là công trạng. Ông có thể đi.' Ông ấy đặt chuyến bay, làm mọi thu xếp để ra đi, quên hết mọi sự. Ông ấy đã ở đó trong ba năm - quá lâu rồi.

Thế rồi ông ấy tới để nói lời chào từ biệt với thầy nhưng thầy đang dạy các đệ tử khác cho nên ông ấy phải đợi. Ông ấy ngồi trên ghế dài trong khi thầy dạy và lần đầu tiên ông ấy trong trạng thái thảnh thơi bởi vì bây giờ ông ấy không còn lo nghĩ - ông ấy sắp ra đi, kết thúc rồi - và ông ấy không còn tham nữa. Không có nỗ lực. Ông ấy chỉ nhìn - và ông ấy có thể thấy rằng thầy không bắn. Thầy cầm cung trong tay, thầy kéo cung bằng tay - nhưng cung tự bắn. Ông ấy có thể thấy điều đó. Nó là cách nhìn. Làm sao mà ông ấy đã bỏ lỡ điều đó ông ấy không thể nào tin được.

Trong ba năm ông ấy đã từng quan sát thầy mình lặp đi lặp lại nhưng tâm trí logic riêng của ông ấy là việc can nhiễu. Nó chắc đã không cho phép ông ấy thấy. Ông ấy nói, 'Làm sao nó có thể thế được? Thầy có thể chuyên gia hơn nhưng làm sao có thể có chuyện mũi tên tự nó bay được?' Sáng nay ông ấy có thể thấy được điều đó. Bây giờ ông ấy thảnh thơi. Bây giờ ông ấy không lo nghĩ về việc đạt tới cái gì. Khi bạn không còn trong nỗ lực, trong tham lam, trong ham muốn, bạn được thảnh thơi.

Ông ấy chạy xô về thầy, chạm chân thầy, và không nói gì cầm lấy cung từ tay thầy và bắn vào mục tiêu. Và thầy đặt tay lên đầu ông ta và nói, 'Ông đã làm được điều đó. Và ông có thể có chứng nhận. Và ông có thể vẫn đi bởi vì bây giờ không có nhu cầu chờ đợi. Kết thúc rồi. Ông đã biết nó, ông đã nếm trải nó.'

Mọi sự có thể xảy ra theo cách riêng của nó. Bạn được sinh ra - bạn đã không quản lí nó. Bạn rơi vào tình yêu - bạn đã không làm nó. Đói tới, bạn ăn, bạn cảm thấy được thoả mãn. Khát tới, bạn uống, bạn cảm thấy dịu cơn khát. Bạn trẻ, bạn sẽ trở nên già. Một ngày nào đó bạn sẽ chết. Mọi thứ đang xảy ra. Người làm là ảo tưởng giả. Ở trong trạng thái của mui đi.

Xã hội tạo ra trạng thái của ui. Nó làm cho bạn thành phi tự nhiên, căng thẳng, thông thái; nó làm cho bạn được trau dồi, được tu dưỡng - nhưng nó tạo ra lớp vỏ cứng bao quanh trái tim bạn và bạn mất tự nhiên thực của bạn, Đạo.

Liệt tử về tập bắn thêm ba năm nữa, rồi lại cho Quan Doãn tử hay, Doãn tử hỏi:

'Anh đã biết tại sao anh bắn trúng không?' - lại cùng câu hỏi ấy -

'Thưa biết.' Liệt Tử nói

Lần nữa điều đó là đơn giản, đơn giản như 'Thưa không' lần đầu. Đó không phải là giả vờ. Khi một người giả vờ, người đó nghĩ trước khi người đó nói, 'Tôi biết.' Người đó cố diễn tập trong tâm trí mình - đó là điều bạn gọi là suy nghĩ. Câu trả lời là không có suy nghĩ gì về phần của Liệt Tử. Nó là như nó vậy. Đầu tiên anh ta đơn giản nói, 'Thưa không.' Bây giờ, theo đích xác cùng cách khiêm tốn đó - không tuyên bố, nhớ lấy - anh ta nói, 'Thưa biết.'

Nhiều lần bạn sa đà quá vào lời. Upanishads nói rằng người nói 'Tôi biết' là không biết. Đúng, nhưng có thể có người nói 'Tôi biết' và biết thật. Nếu bạn có thể nói 'Tôi biết' theo cách đơn giản, khiêm tốn, không tuyên bố, thế thì không có vấn đề gì. Khi Upanishads nói rằng nếu có một người nói 'Tôi biết' người đó không biết, nhấn mạnh của nhà tiên tri Upanishadic là vào 'tôi'. Khi ai đó nói, 'Tôi biết' nhấn mạnh là vào 'tôi' - 'tôi' được gạch dưới. Khi một người thực sự biết và nói 'Tôi biết' - 'tôi' không được gạch dưới. 'Biết' chỉ là sự kiện.

Làm sao Liệt Tử có thể nói cái gì đó không thật được? Nếu ông ấy biết, ông ấy biết. Ông ấy phải nói điều đó. Nhưng đó không phải là tuyên bố.

Cho nên đừng bị quá nặng gánh với lời. Mọi người bị quá nặng gánh với lời. Chẳng hạn, nếu một người theo Veda đọc điều này người đó sẽ nói, 'Ông ấy nói 'Tôi biết' cho nên ông ấy không thể biết được bởi vì điều Upanishads nói.' Lời là lời và người ta phải cảm thấy cốt lõi bên trong nhất của lời, trái tim của lời.

Tôi nói với bạn rằng khi Liệt Tử nói 'Thưa biết', anh ta biết. Và cái 'thưa biết' của anh ta ngụ ý đích xác cùng điều như khi Upanishads nói 'Tôi không biết'. Cái 'thưa biết' của anh ta ngụ ý đích xác cùng điều đó. Nó ngụ ý đích xác cùng điều như khi Socrates nói 'Tôi không biết một điều'. Bằng việc nói 'Tôi không biết một điều' Socrates phủ nhận cái 'tôi'. Nhưng bằng việc nói 'thưa biết' như một sự kiện đơn giản, như một sự kiện bình thường, không tuyên bố gì, Liệt Tử đang làm phép màu lớn hơn nhiều bởi vì - nghe nó đây - đôi khi người giả vờ có thể giả vờ và nói 'Tôi không biết' trong hi vọng rằng bạn sẽ nghĩ rằng người đó biết. Bởi vì Upanishads nói vậy và Socrates nói vậy, người giả vờ có thể nói 'Tôi không biết' và hi vọng rằng bạn sẽ nghĩ rằng người đó là người biết, rằng người đó là một Socrates khác. Tâm trí rất tinh ranh. Cho nên nhớ một điều: nếu tâm trí là đơn giản, khiêm tốn, và đơn giản phát biểu sự kiện, thế thì đó là chân lí - dù sự kiện là bất kì cái gì.

'Vậy thì được,' thầy nói.

Rất dễ dàng ông ấy nói, 'Vậy thì được.' Vấn đề không phải là điều Liệt Tử nói, vấn đề là điều Liệt Tử là - sự đơn giản, tính khiêm tốn, tính nhu mì của người này, sự hồn nhiên của người này.

Khi bạn nói 'tôi biết' một bản ngã tinh vi nảy sinh. Cứ nói lời 'tôi biết' và bạn sẽ cảm thấy bản ngã tinh vi mạnh lên trong bạn.

Thầy phải đã nhìn vào trong Liệt Tử. Thầy không nhìn vào bạn, thầy nhìn vào trong bạn. Họ không quan sát khuôn mặt bạn, họ quan sát trái tim bạn. Thầy phải đã nhìn vào trong trái tim khi Liệt Tử nói 'Thưa biết'. Cái gì đó đã nảy sinh ở đó? Cá gì đó tích hợp, trở thành bản ngã? Không cái gì. Không gian vẫn còn nguyên vẹn, trong trắng. Anh ta nói 'Thưa biết' và không cái gì xảy ra bên trong anh ta. Thầy nói,

'Vậy thì được! Nhớ lấy, đừng quên.

Khó thu được thoáng nhìn về buông bỏ này và rất dễ làm mất nó - bởi vì trong hàng thế kỉ, trong nhiều kiếp, chúng ta đã thực hành việc làm. Khi những khoảnh khắc đó của vô làm tới, toàn thể thực hành nhiều kiếp của chúng ta chống lại chúng, toàn thể thói quen của chúng ta chống lại chúng, toàn thể cơ chế của chúng ta chống lại chúng. Việc xảy ra của chúng bị phá vỡ và quá khứ của bạn sẽ vật lộn để đóng các cánh cửa của bạn lại lần nữa.

Đó là lí do tại sao thầy nói, 'Nhớ lấy, đừng quên.' Đây là kho báu, vương quốc của Thượng đế bên trong bạn. Đây là kho báu - ở trong trạng thái thảnh thơi và cho phép Thượng đế vận hành.

Bây giờ Liệt Tử không làm gì cả. Vâng, anh ta cầm cung, anh ta cầm tên, anh ta nhắm vào mục tiêu, nhưng anh ta không có - đó là Thượng đế trong anh ta. Đây là trạng thái mà Krishna, trong Gita, muốn Arjuna ở vào - đây là trạng thái đó. Krishna muốn Arjuna trở thành trống rỗng như Liệt Tử để cho Thượng đế có thể vận hành. Ông ấy muốn Arjuna cầm cung và chiến đấu trận chiến. Nếu điều đó phải là như vậy, nó phải là như vậy.

Arjuna đem tâm trí anh ta vào. Anh ta nói, 'Làm sao tôi có thể làm được điều đó? Điều đó dường như không đúng.' Và Krishna nói, 'Anh là ai mà nghĩ về cái gì đúng và cái gì sai? Để điều đó cho Thượng đế. Đừng bước vào. Gạt bản thân mình sang bên. Đừng đứng giữa đường.' Nhưng Arjuna nói, 'Làm sao tôi có thể giết được những người này? Điều đó là bạo hành.' Và Krishna nói với anh ta, 'Nếu anh không giết họ thế thì ai đó khác sẽ giết họ, bởi vì ta có thể thấy rằng họ đã chết rồi. Ai đó phải là công cụ đưa họ vào nấm mồ của họ - họ là người chết. Nếu anh không trở thành công cụ, ai đó khác sẽ làm, và anh sẽ bỏ lỡ cơ hội trở thành công cụ.'

Chẳng phải riêng việc bắn như vậy đâu, việc trị nước và tu thân cũng vậy. Cho nên bậc thánh nhân không quan tâm tới sự tồn vong bằng cái lẽ tại sao tồn vong.'

Chẳng phải riêng việc bắn như vậy đâu, việc trị nước và tu thân cũng vậy: Thực ra, trong Đạo và Thiền, cung thuật chỉ là cách để học cái gì đó về cuộc sống. Khi ai đó xúc phạm bạn, nhớ rằng người đó, người đã xúc phạm bạn là ở bên ngoài bạn, ở ngoại vi, như mục tiêu; bạn ở sâu bên trong bản thân bạn, cội nguồn. Và giữa bạn và người xúc phạm là tâm trí đứng đó - tựa như mũi tên.

Nếu tâm trí bạn nhắm tới người đã xúc phạm bạn, bạn sẽ lỡ. Để cho nó được nhắm tới cội nguồn đi. Thay vì nghĩ rằng người đó đã xúc phạm bạn, nhìn vào trong bản thể riêng của bạn: bạn phải đang mang vết thương nào đó, đó là lí do tại sao bạn cảm thấy bị xúc phạm. Bằng không làm sao người nào có thể xúc phạm bạn được? Nếu ai đó gọi bạn là ngu và bạn cảm thấy xúc phạm điều đó đơn giản nghĩa là bạn nghĩ rằng bạn rất khôn - không gì khác. Nếu bản thân bạn nghĩ bạn là ngu, bạn sẽ ôm ghì người này. Bạn sẽ nói, 'Đúng! Đích xác đúng! Đó là cách tôi cảm thấy tôi.' Thế thì xúc phạm ở đâu?

Nếu ai đó nói bạn là kẻ cắp và bạn cảm thấy mất mặt điều đó đơn giản nghĩa là bạn bao giờ cũng cho rằng bạn là nhà đạo đức lớn, đức hạnh, thế này thế nọ - nhưng sâu bên dưới bạn cũng biết rằng bạn là kẻ cắp. Người đó đã đánh vào điểm mềm yếu trong con người bạn, điểm mong manh.

Cho nên bây giờ có hai khả năng: hoặc bạn nhảy lên người đó và chứng minh rằng bạn không phải là kẻ cắp, hoặc bạn nhìn vào bên trong bản thân bạn. Bao giờ cũng đi về cội nguồn. Trong yoga, đi về cội nguồn được gọi là pratyahara. Mahavira gọi việc đi về cội nguồn này là pratikramana. Jesus gọi nó là 'hối tiếc'.

Người Ki tô giáp đã hiểu lầm. 'Hối tiếc' chẳng liên quan gì tới hối hận. 'Hối tiếc' nguyên thuỷ có nghĩa là quay lại, đi trở lại, đi vào bên trong bản thân bạn. Người Hi Lạp có từ đúng cho nó: 'metanoia' - quay vào bản thân bạn, quay một trăm tám mươi độ. Bạn phải đã thấy trong một số sách cổ huyền bí biểu tượng về con rắn ăn đuôi nó - đó là metanoia.

Quay về bản thân bạn đi. Thay vì đi tới người khác, đi tới bản thân bạn, quay về. Để cho mũi tên của bạn đi theo vòng tròn và quay lại tới cội nguồn từ đó nó bắt đầu. Ai đó đã xúc phạm bạn và rối loạn nảy sinh. Đây là chỗ bắt đầu của mũi tên. Mũi tên bắt đầu chuyển động hướng tới người khác. Nó muốn bắn trúng người khác, xúc phạm người khác. Đừng bị nó lừa. Để cho nó đi theo vòng tròn. Để cho nó đi tới một trăm tám mươi độ quay về bạn - về nơi nó đã bắt đầu, tới nơi bạn cảm thấy rối loạn. Để nó trở về chỗ đó; nhìn ở đó.

Điều này có thể trở thành chìa khoá của biến đổi bên trong. Con người mới là có thể.

Cung thuật chỉ là phương tiện. Đạo nhân đã phát minh ra nhiều phương cách. Nhưng trong tất cả các phương cách điều cơ bản, điều bản chất, là quay về bản tính riêng của người ta.

Thiền về chuyện ngụ ngôn này và bắt đầu dùng nó trong cuộc sống của bạn. Đầu tiên, tìm những khoảnh khắc của buông bỏ, chờ đợi chúng, đón nhận chúng với sự đón chào và hân hoan lớn, mời chúng lặp đi lặp lại, trở nên nữ tính hơn.

Thứ hai, nếu bất kì cơ hội nào nảy sinh khi mũi tên của bạn bắt đầu chuyển động ra ngoài, nhớ ngay và quay vào trong. Quay nó vào trong. Thay vì quay ra, thì quay vào. Nếu ai đó xúc phạm và bạn trở nên quay ra, nếu một người đàn bà đẹp đi qua và bạn quay ra, dục nảy sinh - quay vào thay vì quay ra đi. Người đàn bà đẹp đi qua không phải là mục tiêu thực, bạn có dâm dục nào đó trong bạn. Đi tới cội nguồn đi. Để cho nó là cơ hội lớn cho thiền. Biến từng cơ hội bình thường thành thiền và điều vĩ đại sẽ là phần thưởng. Từng khoảnh khắc sẽ bắt đầu trở nên chói sáng.

Và không có hoạt động trần tục hay báng bổ. Mọi hoạt động đều có thể được biến thành thiền - chúng phải vậy. Đây là thông điệp của tôi nữa. Thiền phải không là cái gì đó tách rời khỏi cuộc sống, nó phải trở thành cốt lõi bên trong nhất của cuộc sống. Từng hoạt động, nhỏ hay lớn, đều phải chói sáng với nhận biết có tính thiền. Thế thì bạn sẽ thấy rằng từng hoạt động đem bạn tới Thượng đế, từng hoạt động đem bạn về nhà, từng hoạt động trở thành giải thoát.

Từng hoạt động phải rơi trở lại cội nguồn nguyên thuỷ. Giận dữ nảy sinh từ bản thể bạn phải rơi trở lại vào trong bản thể bạn; dục nảy sinh từ bản thể bạn phải rơi trở lại bản thân cội nguồn. Ở đó nơi alpha và omega gặp gỡ, nơi cái bắt đầu và cái kết thúc gặp gỡ, nơi con rắn quay sang đuôi riêng của nó và bắt đầu ăn đuôi, bạn trở thành đầy đủ, vòng tròng toàn thể. Đó là giai đoạn của hiền nhân. Đó là điều tính chất sannyas tất cả là gì.

Mục lục chính.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Đứa trẻ nổi loạn - Osho

Tự truyện - Cuộc đời luận sư Osho