Chương 1. Chết tự nguyện
Chương 1. Chết tự nguyện
Khi Liệt Tử đang ăn bên vệ đường trên cuộc hành trình về Vi, ông ấy thấy một cái sọ trăm tuổi. Bẻ một thân cây ông ấy trỏ vào chiếc sọ và quay sang đệ tử Bái Phong nói, 'Chỉ ông ấy và ta biết rằng ông không bao giờ sinh và sẽ không bao giờ chết. Có phải ông ấy thực sự khổ không, có phải chúng ta thực sự sướng không?'
Tôi hân hoan cùng Liệt Tử - ông ấy là một trong những cách diễn đạt hoàn hảo nhất cho điều không thể diễn đạt được. Chân lí không thể được diễn đạt: tính không thể diễn đạt được đó là bản chất của chân lí. Hàng nghìn và hàng nghìn người đã thử diễn đạt nó - rất ít người đã thành công ngay cả việc cho một phản xạ của nó. Liệt Tử là một trong những người rất ít ỏi đó; ông ấy thực hiếm hoi.
Trước khi chúng ta bắt đầu đi vào trong lời của ông ấy, đôi điều phải được hiểu về ông ấy... cách tiếp cận của ông ấy. Cách tiếp cận của ông ấy là cách tiếp cận của nghệ sĩ: nhà thơ, người kể chuyện - và ông ấy là bậc thầy kể chuyện. Bất kì khi nào ai đó đã kinh nghiệm cuộc sống, kinh nghiệm của người đó nở hoa thành chuyện ngụ ngôn: điều đó dường như là cách dễ nhất để hướng dẫn về điều không thể được nói ra.
Chuyện ngụ ngôn là phương cách, phương cách lớn; nó không chỉ là chuyện thường. Mục đích của nó không phải là để giải trí cho bạn, mục đích của nó là nói cái gì đó mà không có cách nào khác để nói. Cuộc sống không thể được đưa vào lí thuyết - nó bao la thế, nó vô hạn thế. Và lí thuyết bởi chính bản tính của nó là bị đóng. Lí thuyết phải bị đóng nếu nó là lí thuyết nó không thể có chỗ mở được, bằng không nó sẽ vô nghĩa. Chuyện ngụ ngôn là có chỗ mở: nó nói vậy mà nó bỏ lại nhiều thứ được nói, nó chỉ hướng dẫn. Và cái không thể được nói ra thì có thể được chỉ ra. Nó là ngón tay chỉ trăng. Đừng bám vào ngón tay - cái đó không liên quan - nhìn vào trăng ấy. Những chuyện ngụ ngôn này trong bản thân chúng là hay, nhưng đó không phải là mục đích của chúng... chúng vượt ra ngoài, chúng siêu việt lên. Nếu bạn phân tích chi li bản thân chuyện ngụ ngôn bạn sẽ không đi đến hiểu gì được mấy. Nó cũng giống như cái rốn trong thân thể con người. Nếu bạn đi tới nhà giải phẫu và hỏi ông ấy mục đích của rốn là gì trong thân thể, và nếu ông ấy mổ thân thể ra, ông ấy sẽ không thấy mục đích nào cái rốn dường như vô dụng. Mục đích của rốn là gì?
Nó đã có mục đích khi đứa trẻ còn trong bụng mẹ: mục đích của nó là ở chỗ nó nối đứa trẻ với người mẹ. Nhưng bây giờ đứa trẻ không còn trong bụng mẹ nữa - người mẹ có thể đã chết, đứa con đã trở nên già bây giờ mục đích của rốn là gì? Nó có mục đích siêu việt; mục đích không phải ở trong bản thân nó. Bạn sẽ phải nhìn mọi nơi, khắp xung quanh, để tìm ra chỉ dẫn của chúng - nơi nó chỉ ra. Nó chỉ ra rằng người này đã có thời là đứa trẻ, rằng đứa trẻ đã có thời trong bụng của người mẹ, rằng đứa trẻ đã được nối với người mẹ. Đây chỉ là một dấu hiệu mà quá khử đã bỏ lại.
Như rốn chỉ ra cái gì đó về quá khứ, chuyện ngụ ngôn chỉ ra cái gì đó về tương lai. Nó chỉ ra rằng có khả năng của trưởng thành, của việc được nối với sự tồn tại. Ngay bây giờ nó chỉ là khả năng, nó không là thực tại. Nếu bạn phân tích chi li chuyện ngụ ngôn nó trở thành chuyện thường. Nếu bạn không phân tích chi li nó mà chỉ uống nghĩa của nó, chất thơ của nó, chất nhạc của nó - quên đi câu chuyện và chỉ mang ý nghĩa của nó - chẳng mấy chốc bạn sẽ thấy rằng nó chỉ tới tương lai, hướng tới cái gì đó mà có thể có nhưng còn chưa có. Nó là siêu việt.
Ở phương Tây, ngoại trừ chuyện ngụ ngôn của Jesus, không có cái gì giống như Liệt Tử, Trang Tử, Phật... không cái gì giống như chuyện ngụ ngôn của những người này, tồn tại chỉ mỗi Jesus. Và thậm chí chuyện ngụ ngôn của Jesus dường như là tới mức ông ấy phải đã mang chúng tới từ phương Đông. Có chuyện ngụ ngôn của Aesop, nhưng chúng cũng là những phản xạ của cuốn sách vĩ đại về ngụ ngôn của phương Đông, Panchatantra. Chuyện ngụ ngôn là phát minh của phương Đông, và nhiều ý nghĩa vô cùng.
Cho nên điều đầu tiên cần được hiểu về Liệt Tử, ông ấy không phải là nhà lí thuyết, ông ấy sẽ không cho bạn bất kì lí thuyết nào; ông ấy sẽ đơn giản cho bạn chuyện ngụ ngôn. Lí thuyết có thể được phân tích chi li - nghĩa của nó là ở trong nó, nó không có siêu việt, nghĩa là nội tại. Chuyện ngụ ngôn không thể được phân tích chi li; phân tích, và nó sẽ chết. Nghĩa là siêu việt, không ở trong nó, ở chỗ nào đó khác - nó phải vậy. Bạn phải sống chuyện ngụ ngôn, thế thì bạn sẽ đi tới nghĩa của nó. Nó phải trở thành trái tim của bạn, hơi thở của bạn; nó phải trở thành nhịp điệu bên trong của bạn.
Cho nên những chuyện ngụ ngôn này là cực kì có tính nghệ thuật nhưng không là nghệ thuật đơn thuần: tôn giáo lớn được hàm chứa trong chúng. Liệt Tử không phải là người theo thượng đế học; ông ấy không nói về Thượng đế. Ông ấy nói về trời, nhưng ông ấy không nói về Thượng đế. Bất kì điều gì ông ấy nói đều tới từ cội nguồn, nhưng ông ấy không nói về cội nguồn đó để nó thành rất rõ ràng cho bạn.
Có hai kiểu người: người nói về Thượng đế, người đó là nhà thượng đế học; người nói Thượng đế, người đó là nhà huyền môn. Liệt Tử là nhà huyền môn. Người nói về Thượng đế đã không biết tới Thượng đế, bằng không tại sao người đó phải 'nói về'? Chữ 'về' chỉ ra dốt nát của người đó. Khi một người nói Thượng đế người đó đã kinh nghiệm. Thế thì Thượng đế không phải là lí thuyết để được chứng minh, bác bỏ, không; thế thì Thượng đế là chính cuộc đời người đó: để được sống.
Để hiểu một người như Liệt Tử bạn sẽ phải sống cuộc sống đích thực. Chỉ thế thì, qua kinh nghiệm riêng của bạn, bạn sẽ có khả năng cảm thấy điều ông ấy ngụ ý bởi chuyện ngụ ngôn của ông ấy. Không phải là bạn có thể học được các lí thuyết và trở nên được biết; thông tin sẽ không ích gì. Chừng nào bạn còn chưa biết, không cái gì sẽ có ích. Cho nên nếu những chuyện ngụ ngôn này tạo ra khát khao trong bạn để biết, ham muốn lớn để biết, cơn đói lớn để biết; nếu những chuyện ngụ ngôn này dẫn bạn vào cuộc hành trình không biết, vào cuộc hành hương - chỉ thế thì, chỉ bằng việc bước đi trên đường, bạn sẽ trở nên quen thuộc với con đường.
Liệt Tử, Trang Tử, Lão tử, ba bậc thầy Đạo, chỉ nói về cách 'Đạo' ngụ ý con đường - họ không nói về mục đích chút nào. Họ nói: Mục đích sẽ chăm nom cho chính nó; ông không cần lo nghĩ về mục đích. Nếu bạn biết con đường bạn biết mục đích, bởi vì mục đích không phải ở chính cuối con đường, mục đích là mọi thứ trên con đường - từng khoảnh khắc và từng bước nó đều có đó. Không phải là khi con đường kết thúc bạn đạt tới mục đích đâu; từng khoảnh khắc, bất kì chỗ nào bạn ở, bạn đều ở tại mục đích nếu bạn ở trên đường. Ở trên đường là đánh vào mục đích. Do đó họ không nói về mục đích, họ không nói về Thượng đế, họ không nói về moksha, niết bàn, chứng ngộ - không, không chút nào. Thông điệp của họ rất đơn giản: Bạn phải tìm ra con đường.
Mọi sự trở nên phức tạp hơn chút ít bởi vì họ nói: Con đường không có bản đồ, con đường không được vẽ bản đồ, con đường không phải là chỗ ông có thể đi theo ai đó và tìm ra nó. Con đường không giống như siêu xa lộ; con đường giống như chim bay trên trời - nó không để lại dấu vết nào đằng sau. Chim đã bay nhưng không dấu vết nào để lại; không ai có thể theo được. Cho nên con đường là đường vô lộ. Nó là con đường đấy, nhưng nó là con đường vô lộ. Nó không được làm sẵn, sẵn có; bạn không thể chỉ quyết định bước đi trên nó, bạn sẽ phải tìm ra nó. Và bạn sẽ phải tìm ra nó theo cách riêng của bạn; không con đường của ai sẽ có tác dụng. Phật đã bước đi, Lão Tử đã bước đi, Jesus đã bước đi, nhưng những con đường đó sẽ không giúp ích gì cho bạn cả vì bạn không phải là Jesus, và bạn không là Lão Tử, và bạn không là Liệt Tử. Bạn là bạn, cá nhân duy nhất. Chỉ bằng cách bước đi, chỉ bằng cách sống cuộc sống của bạn, bạn sẽ tìm ra con đường. Đây là cái gì đó có giá trị lớn lao.
Đó là lí do tại sao Đạo giáo không phải là tôn giáo có tổ chức, không thể vậy được. Nó là tôn giáo tổng thể nhưng không phải là tôn giáo có tổ chức. Bạn có thể là một đạo nhân nếu bạn đơn giản sống cuộc sống của mình một cách chân thực, tự phát; nếu bạn có dũng cảm để đi vào trong cái không biết theo cách riêng của bạn, cá nhân, không nghiêng về bất kì người nào, không theo bất kì ai, đơn giản đi trong đêm tối không biết liệu bạn sẽ tới bất kì đâu hay bạn sẽ bị lạc. Nếu bạn có dũng cảm, rằng rủi ro có đó – nó là mạo hiểm, nó là phiêu lưu. Ki tô giáo, Hindu giáo, Mô ha mét giáo đều là những siêu xa lộ: bạn không cần mạo hiểm cái gì, bạn đơn giản đi theo đám đông, bạn đi cùng quần chúng.
Với Đạo bạn phải đi một mình, bạn phải là một mình. Đạo kính trọng cá nhân và không kính trọng xã hội. Đạo kính trọng tính duy nhất và không kính trọng đám đông. Đạo kính trọng tự do và không kính trọng tuân thủ. Đạo không có truyền thống. Đạo là nổi dậy, và nổi dậy vĩ đại nhất có thể được. Đó là lí do tại sao tôi gọi Đạo là 'đường vô lộ'. Nó là đường đấy, nhưng không giống như những con đường khác. Nó có phẩm chất rất khác biệt của nó, phẩm chất của tự do, phẩm chấp của hỗn loạn, phẩm chất của hỗn độn. Đạo nói rằng nếu bạn áp đặt kỉ luật lên bản thân mình, bạn sẽ là kẻ nô lệ. Kỉ luật phải nảy sinh ra từ nhận biết của bạn, thế thì bạn sẽ là người chủ. Nếu bạn áp đặt trật tự lên cuộc sống của bạn, điều này sẽ là chỉ là giả vờ: mất trật tự sẽ vẫn còn sâu trong chính cốt lõi của con người bạn; trật tự này sẽ trên bề mặt, tại trung tâm sẽ có mất trật tự. Điều này sẽ không ích gì. Trật tự thật nảy sinh không phải từ bên ngoài, mà từ cốt lõi bên trong nhất của bản thể bạn. Cho phép mất trật tự, đừng kìm nén nó. Đối diện với nó, nhận thách thức của mất trật tự - và bằng việc nhận thách thức của mất trật tự và sống nó, sống một cách nguy hiểm, trật tự nảy sinh trong bản thể bạn.
Trật tự đó bắt nguồn từ hỗn độn, không từ bất kì hình mẫu nào. Đây là động thái khác toàn bộ: nó được sinh ra trong bạn và nó tươi tắn; nó không mang tính truyền thống, nó là mới tinh; nó không phải là qua trung gian. Đạo không tin vào tôn giáo trung gian và vào Thượng đế trung gian. Nếu bạn lấy Thượng đế của Jesus bạn trở thành người Ki tô giáo, nếu bạn lấy Thượng đế của Krishna bạn trở thành người Hindu, nếu bạn lấy Thượng đế của Mohammed bạn trở thành người Mô ha mét giáo. Đạo nói: Nhưng chừng nào bạn còn chưa tìm ra Thượng đế của mình, bạn không trên đường.
Cho nên tất cả những con đường này chỉ làm sao lãng bạn khỏi con đường thực. Theo người khác, bạn đi lạc lối. Theo bất kì hình mẫu cuộc sống nào, bạn trở thành nô lệ. Theo bất kì hình mẫu nào, bạn đang cầm tù bản thân mình. Và Thượng đế, hay Đạo, hay pháp, hay chân lí là có thể chỉ cho người tuyệt đối tự do, tự do vô điều kiện. Tất nhiên, tự do là nguy hiểm bởi vì không có an ninh trong nó, không có an toàn trong nó. Có an toàn lớn bất kì khi nào bạn theo đám đông: đám đông bảo vệ bạn. Có an toàn lớn khi bạn theo đám đông; bởi vì chính sự hiện diện của nhiều người mà bạn cảm thấy rằng bạn không một mình - bạn không thể bị lạc được. Bởi vì an ninh này, bạn bị lạc đấy, bởi vì an ninh này, bạn chưa bao giờ tìm và bạn chưa bao giờ kiếm và bạn chưa bao giờ truy tìm. Và chân lí không thể được tìm ra chừng nào bạn còn chưa truy tìm, chừng nào bạn còn chưa truy tìm theo cách riêng của bạn. Nếu bạn nhận chân lí vay mượn, bạn trở nên thông thái; nhưng là thông thái tức là không biết.
Đạo rất chống đối tri thức. Đạo nói rằng cho dù bạn là người dốt và dốt nát là của bạn, điều đó vẫn là tốt: ít nhất nó là của bạn. Và nó có hồn nhiên của nó. Nhưng nếu bạn bị nặng gánh với tri thức, kinh sách, truyền thống được tích luỹ, thế thì bạn đang sống cuộc sống giả, rởm. Thế thì bạn không thực sự sống đâu, bạn đang chỉ giả vờ rằng bạn sống thôi. Bạn đang làm những cử chỉ bất lực, những cử chỉ trống rỗng. Cuộc sống của bạn không có mãnh liệt, đam mê - không thể có đam mê được. Đam mê đó nảy sinh chỉ khi bạn đi theo cách riêng của mình, một mình, trong bầu trời bao la của sự tồn tại.
Tại sao bạn không thể đi một mình được? Bởi vì bạn không tin cậy vào cuộc sống. Bạn đi cùng những người Mô ha mét giáo, bạn đi cùng những người Hindu, bạn đi cùng với những người Do Thái, bởi vì bạn không tin cậy cuộc sống, bạn tin vào đám đông. Đi một mình, người ta cần tin cậy lớn lao vào cuộc sống... cây, sông, trời, cái vĩnh hằng của tất cả - người ta tin cậy vào điều này. Bạn tin cậy vào các quan niệm nhân tạo, bạn tin cậy vào hệ thống nhân tạo, bạn tin cậy vào các ý thức hệ nhân tạo. Làm sao các ý thức hệ nhân tạo có thể thực được?
Con người đã tạo ra những ý thức hệ này chỉ để che giấu sự kiện là người đó không biết, để che giấu sự kiện là người đó dốt nát. Người đó tinh ranh, láu cá, và người đó có thể tạo ra cách hợp lí hoá; nhưng những cách hợp lí hoá này đều là hư huyễn - bạn không thể đi với chúng vào chân lí được. Bạn sẽ phải vứt bỏ chúng. Đạo nói rằng dốt nát không phải là rào chắn chân lí - tri thức là rào chắn. Để tôi kể cho bạn vài giai thoại.
Trong công trình lớn của Samuel Beckett, Chờ đợi Godot, xảy ra sự cố nhỏ này. Suy ngẫm về nó đi.
Hai kẻ lang thang, Vladimir và Estragon, đang trên sân khấu. Họ ở đó để đợi - cũng như mọi người khác trên thế giới này đều đợi - chẳng ai biết đích xác đợi cái gì. Mọi người đều đợi, cứ hi vọng rằng cái gì đó sẽ xảy ra: hôm nay nó đã không xảy ra, ngày mai nó chắc xảy ra. Đây là tâm trí con người: hôm nay đang bị phí hoài, nhưng cứ hi vọng rằng ngày mai cái gì đó sẽ xảy ra. Và hai kẻ lang thang này đang ngồi dưới một gốc cây và chờ đợi... chờ đợi Godot.
Chẳng ai biết đích xác Godot này là ai. Từ này nghe có vẻ giống God - Thượng đế, nhưng nó chỉ là âm thanh thôi, và thực ra thượng đế bạn đang chờ đợi tất cả đều là Godot. Bạn đã tạo ra họ bởi vì người ta phải chờ đợi cái gì đó chứ, bằng không làm sao bạn dung thứ được sự tồn tại này? Để làm gì? Làm sao bạn trì hoãn việc sống được? Làm sao bạn hi vọng được? Cuộc sống sẽ trở thành không thể dung thứ nổi, không thể được, nếu không có cái gì để chờ đợi.
Ai đó đang chờ đợi tiền, và ai đó đang chờ đợi quyền, và ai đó đang chờ đợi chứng ngộ, và ai đó đang chờ cái gì đó khác; nhưng mọi người đều chờ. Và những người chờ là những người bỏ lỡ. Hai kẻ lang thang này có đó chỉ để chờ. Điều họ chờ là việc tới của một người, Godot, người được mong đợi cung cấp cho họ chỗ trú ngụ và đồ ăn uống. Trong khi đó, họ cố làm cho thời gian trôi qua bằng chuyện phiếm, trò chơi, và cãi nhau lặt vặt.... Đó là điều cuộc sống của bạn là gì đấy: người ta tham gia vào những thứ nhỏ bé. Cái lớn lao sẽ xảy ra ngày mai. Godot mai sẽ tới. Hôm nay người ta cãi nhau - vợ cãi chồng, chồng cãi vợ. Những điều nhỏ bé, 'chuyện phiếm, trò đùa, trò chơi... tẻ nhạt và trống rỗng'. Hôm nay, đó là điều mọi người cảm thấy: tẻ nhạt, trống rỗng.... 'Chẳng cái gì để làm' là điệp khúc ngân đi ngân lại.... Họ nói đi nói lại 'Chẳng cái gì để làm', nhưng thế rồi họ tự an ủi mình, 'nhưng ngày mai ông ấy sẽ tới.' Và thực ra ông ấy chưa bao giờ hứa với họ, họ chưa bao giờ gặp ông ấy - đó là chuyện bịa.
Người ta phải bịa, từ khổ sở người ta phải bịa ra ngày mai và cái gì đó để níu bám lấy. Thượng đế của bạn, cõi trời của bạn, thiên đường của bạn, moska của bạn, tất cả đều là chuyện bịa. Đạo không nói về chúng.
Vở kịch này của Samuel Beckett, Chờ đợi Godot, mang tính Đạo rất bản chất.
... Vào giữa chừng của màn một, hai người lạ - Pozzo và Lucky la lối trên sân khấu. Pozzo dường như là con người của sung túc; Lucky, người hầu, được đưa tới chợ gần đó để được bán. Pozzo nói cho những người lang thang về đức hạnh của Lucky điều nổi bật nhất mà anh ta có thể nghĩ được. Để chỉ cho họ, Pozzo quất roi và là lệnh 'Nghĩ đi!' và tiếp đó là độc thoại không nhất quán điên cuồng, dài dòng trong đó từng mảnh chen lấn nào là thượng đế học, khoa học, thể thao và bài học được sắp xếp trong lộn xộn cho tới khi cả ba người kia lật nhào anh ta và làm anh ta im lặng.
Bạn đang nghĩ gì? Bạn định nói gì khi bạn nói 'Tôi đang nghĩ'? Đó là 'độc thoại không nhất quán điên cuồng, dài dòng trong đó từng mảnh chen lấn nào là thượng đế học, khoa học, thể thao và bài học được sắp xếp trong lộn xộn'... cho tới khi cái chết tới và làm bạn im lặng. Toàn bộ suy nghĩ của bạn là gì? Bạn có thể nghĩ gì? Cái gì có đó để mà nghĩ? Và qua suy nghĩ làm sao người ta có thể đi tới chân lí? Suy nghĩ không thể chuyển giao được chân lí. Chân lí là kinh nghiệm, và kinh nghiệm xảy ra chỉ khi suy nghĩ không còn đó nữa.
Cho nên Đạo nói rằng lí thuyết sẽ không ích gì, triết lí sẽ không ích gì, logic sẽ không ích gì, lập luận sẽ không ích gì. Bạn có thể cứ suy nghĩ và suy nghĩ, và nó sẽ không là gì ngoài bịa đặt - bịa đặt thuần khiết của tâm trí con người để che giấu cái ngu xuẩn riêng của nó. Và thế rồi bạn có thể cứ suy nghĩ nữa và nữa, mơ này có thể dẫn tới mơ khác và mơ khác đó có thể dẫn bạn vào mơ khác nữa... mơ bên trong mơ, bên trong mơ đó là điều tất cả triết lí, lí thuyết là gì.
Tôi đã nghe một chuyện ngụ ngôn của Đạo:
Một người ở nước Trịnh một hôm đi nhặt củi bắt gặp một con hươu hoảng sợ, anh ta đuổi theo và giết chết nó. Sợ bất kì ai thấy mình, anh ta vội vàng giấu xác con vật trong một cái rãnh và che nó bằng lá chuối, hân hoan quá mức với vận may của mình. Dần dần, anh ta quên mất chỗ để nó, và tưởng anh ta phải đã mơ, anh ta bắt đầu lên đường trở về nhà, lẩm bẩm mãi về câu chuyện trên đường.
Trong khi đó, một người đã nghe được lời lẩm bẩm của anh ta, hành động theo chúng và đi và kiếm được con hươu. Về sau, khi anh ta về tới nhà, kể lại cho vợ, nói 'Một tiều phu mơ anh ta kiếm được con hươu, nhưng anh không biết nó ở đâu. Bây giờ tôi đã kiếm được con hươu đó, cho nên mơ của anh ta là thực tại.'
'Chính anh' vợ anh đáp 'là người đã mơ anh thấy người tiều phu. Người đó đã kiếm được hươu không?
Và có thực có người như vậy không? Chính anh đã kiếm được hươu. Vậy làm sao mơ của người đó có thể là thực tại được?'
'Đúng là' người chồng đồng ý 'anh đã kiếm được con hươu đó. Do đó chẳng quan trọng gì mấy liệu người tiều phu mơ về con hươu hay anh mơ về người tiều phu.'
Bây giờ khi người tiều phu về tới nhà mình, anh ta trở nên rất bất ổn về việc mất con hươu và trong đêm anh ta thực tế đã mơ về chỗ để con hươu và ai đã lấy nó. Cho nên sáng hôm sau anh ta tới chỗ được chỉ ra trong giấc mơ của mình - và nó có đó. Thế rồi anh ta tiến hành các bước pháp lí để khôi phục sở hữu. Và khi vụ kiện diễn ra, quan toà đưa ra phán quyết sau:
'Nguyên đơn bắt đầu bằng một con hươu thực và một giấc mơ được dẫn ra. Bên bị thực sự có được con hươu mà bên nguyên đã nói mình mơ, và bây giờ đang cố giữ nó; trong khi đó, theo vợ ông ta, cả người tiều phu và con hươu đều có nhưng là điều tưởng tượng của mơ, cho nên không ai được con hươu cả.
Tuy nhiên, đây là con hươu, điều tốt hơn cả là các ông phân chia với nhau. Không cái gì khác có thể được làm.'
Khi hoàng tử nước Trịnh nghe thấy câu chuyện này, ông ta kêu lên 'Bản thân quan toà cũng phải đã mơ về vụ kiện rồi!'
Mơ bên trong mơ bên trong mơ... đây là cách tâm trí cứ tiếp diễn mãi. Một khi bạn bắt đầu mơ, không có kết thúc cho nó; và điều bạn gọi là nghĩ thì tốt hơn cả nên được gọi là đang mơ - nó không phải là nghĩ. Nhớ lấy, chân lí không cần suy nghĩ, nó cần kinh nghiệm. Khi bạn thấy mặt trời và ánh sáng bạn không nghĩ về nó, bạn thấy nó. Khi bạn bắt gặp bông hồng bạn không nghĩ về nó, bạn thấy nó. Khi hương thơm tới mũi, bạn ngửi nó, bạn không nghĩ về nó. Tôi ở đây, bạn đang nhìn tôi, không cần nghĩ về tôi. Bất kì khi nào bạn ở gần thực tại, nghĩ là không được cần tới - thế thì thực tại là đủ, thế thì kinh nghiệm là đủ. Khi bạn ở xa xăm với thực tại, bạn nghĩ: bạn thay thế thực tại bằng suy nghĩ. Người đã ăn ngon không mơ trong đêm rằng người đó đã được mời tới bữa tiệc. Người đã nhịn ăn trong ngày nhất định mơ trong đêm rằng người đó đã được mời tới bữa tiệc. Người được thoả mãn về dục sẽ không mơ về các đối tượng dục. Đó là toàn thể tâm lí của trường phái Freud: bạn mơ về những điều bị bỏ lỡ trong cuộc sống của bạn, bạn mơ để bù lại. Đó là toàn thể cách tiếp cận của Đạo nữa.
Điều Freud nói về nghĩ, về mơ, cách tiếp cận của Đạo nói về nghĩ cũng vậy. Và mơ chỉ là một phần của nghĩ chứ không là gì khác. Nghĩ là mơ bằng lời, mơ là nghĩ bằng hình - đó là khác biệt duy nhất. Mơ là cách nghĩ nguyên thuỷ và nghĩ là cách mơ tiến hoá hơn - văn minh hơn, văn hoá hơn, trí tuệ hơn, nhưng nó là một - chỉ hình đã được thay thế bằng lời. Và, theo một cách nào đó, bởi vì hình đã được thay thế bằng lời, nó đã đi thậm chí còn xa hơn khỏi thực tại, bởi vì thực tại gần với hình hơn với lời.
Liệt Tử không phải là nhà tư tưởng. Để điều đó chìm sâu vào trong bạn điều đó sẽ giúp cho bạn hiểu chuyện ngụ ngôn của ông ấy. Liệt Tử là nhà thơ, không phải nhà tư tưởng; và khi tôi nói 'nhà thơ', tôi ngụ ý người tin vào việc kinh nghiệm, không tin vào suy đoán.
Nhà thơ là trong tìm kiếm. Việc tìm kiếm của ông ấy là về cái đẹp, nhưng cái đẹp không là gì ngoài chân lí được thoáng nhìn thấy. Chân lí, khi bạn mới thoáng nhìn thấy nó trong một khoảnh khắc, dường như là đẹp. Khi chân lí được nhận ra một cách toàn bộ, thế thì bạn đi tới biết rằng cái đẹp chỉ là một chức năng của chân lí. Bất kì khi nào chân lí tồn tại, đều tồn tại cái đẹp - nó là cái bóng của chân lí. Khi chân lí được thấy qua màn ảnh, nó là cái đẹp; khi chân lí được lộ trần, nó là chân lí.
Cho nên khác biệt giữa nhà thơ và nhà huyền môn là không nhiều. Nhà thơ tới gần hơn, nhà huyền môn đã đạt tới. Với nhà thơ, chỉ có các thoáng nhìn về chân lí, với nhà huyền môn, chân lí đã trở thành chính cuộc sống của người đó. Nhà thơ chỉ thỉnh thoảng mới được đưa tới thế giới của chân lí và rồi rơi trở lại lần nữa. Với nhà huyền môn, chân lí đã trở thành chỗ trú ngụ của người đó: người đó sống ở đó; người đó sống như chân lí. Nhà thơ tới gần nhất với tôn giáo. Nhà tư tưởng, triết gia, nhà logic, nhà thượng đế học, nhà khoa học, là rất xa xôi. Toàn thể cách tiếp cận của họ là bằng lời. Cách tiếp cận của nhà thơ mang tính tồn tại nhiều hơn, và cách tiếp cận của nhà huyền môn là có tính tồn tại cao nhất; nó là tính tồn tại tuyệt đối.
Đạo nghĩa là tồn tại trên đường, và tồn tại theo cách mà con đường và bạn không phải là hai. Sự tồn tại này là một - chúng ta không tách rời khỏi nó. Tách rời, ý tưởng về tách rời, là rất ảo tưởng. Chúng ta được nối cùng nhau, chúng ta là một toàn thể. Chúng ta không phải là những hòn đảo, chúng ta là một lục địa. Bạn ở trong tôi, tôi ở trong bạn. Cây ở trong bạn, bạn ở trong cây. Nó là một toàn thể được liên nối.
Basho đã nói: Dường như là có một mạng nhện bao la. Bạn đã từng thử chưa? Chạm vào mạng nhện ở bất kì đâu và toàn thể mạng bắt đầu rung lên, rung rinh; toàn thể mạng rúng động. Chạm vào một chiếc lá trên cây và bạn đã làm cho mọi vì sao rung động cùng nó. Bạn có thể không có khả năng thấy điều đó ngay bây giờ, nhưng mọi sự có quan hệ sâu sắc tới mức không thể nào không chạm tới các vì sao bằng việc chạm vào một chiếc lá, chiếc lá nhỏ của cây.
Cái toàn thể là một - tách rời là không thể được. Chính ý tưởng về tách rời là rào chắn. Ý tưởng về tách rời là điều chúng ta gọi là bản ngã. Nếu bạn ở cùng bản ngã, bạn không trên con đường, bạn không trong Đạo. Khi bản ngã bị vứt bỏ, bạn ở trong Đạo. Đạo nghĩa là sự tồn tại vô ngã, sống như một phần của cái toàn thể vô hạn này, không sống như một thực thể tách biệt. Bây giờ, bình thường chúng ta đã được dạy sống như các thực thể tách biệt, chúng ta đã được dạy có ý chí riêng của mình. Mọi người tới tôi và họ hỏi tôi 'Làm sao chúng tôi phải phát triển sức mạnh ý chí của mình được?' Đạo là chống lại ý chí, Đạo là chống lại sức mạnh ý chí, bởi vì Đạo là vì cái toàn thể và không vì bộ phận. Khi bộ phận tồn tại trong toàn thể, mọi thứ là hài hoà. Khi bộ phận bắt đầu tồn tại theo ý riêng của nó, mọi thứ trở thành không hài hoà - có bất hoà, xung đột, lẫn lộn. Khi bạn không được nối mạch với cái toàn thể, có lẫn lộn. Nếu việc nối mạch không xảy ra với cái toàn thể, nhất định có lẫn lộn. Bất kì khi nào bạn không ở cùng cái toàn thể bạn đều bất hạnh.
Để điều này là định nghĩa của hạnh phúc: Cùng với cái toàn thể là hạnh phúc. Cùng với cái toàn thể là mạnh khoẻ. Cùng cái toàn thể là linh thiêng. Tách rời là không mạnh khoẻ. Tách rời là thần kinh. Tách rời là sa ngã khỏi ân huệ. Sa ngã của con người không phải bởi vì con người đã không vâng lời Thượng đế. Sa ngã là bởi vì con người nghĩ mình có đấy. Sa ngã là bởi vì con người nghĩ rằng mình là thực thể tách rời. Điều này là ngu xuẩn: bạn không thể tồn tại được nếu bố mẹ bạn không có đó, và bố mẹ của bố mẹ bạn nữa, và bố mẹ của bố mẹ của họ nữa cứ lùi lại mãi... đi tới Adam và Eve. Nếu Adam và Eve mà không tồn tại bạn sẽ không ở đây. Cho nên bạn được nối với toàn thể quá khứ. Và Adam và Eve chỉ là huyền thoại. Quá khứ không có bắt đầu - không thể có bắt đầu nào cả; chính ý tưởng về bắt đầu là ngớ ngẩn. Làm sao mọi thứ có thể đột nhiên bắt đầu được? Nó là cuộc diễu hành vô thuỷ các biến cố. Bạn được nối với toàn thể quá khứ; và bạn được nối với toàn thể tương lai nữa, bởi vì không có bạn tương lai sẽ không là cùng một điều.
Bạn có thể là không ai cả, nhưng bạn sẽ để lại dấu hiệu của bạn. Toàn thể tương lai, toàn thể tương lai vĩnh hằng, sẽ có phẩm chất nào đó bởi vì bạn đã tồn tại. Có thể bạn đã tồn tại chỉ trong bẩy mươi năm, và trong bẩy mươi năm đó có thể bạn đã tồn tại một cách có ý thức chỉ trong bẩy giây, nhưng dầu vậy bạn sẽ để lại dấu hiệu: cái toàn thể sẽ không như cũ nữa. Nếu như bạn đã không có đó nhiều điều chắc đã hoàn toàn khác; nhiều điều bây giờ sẽ khác toàn bộ bởi vì bạn đã tồn tại. Bạn sẽ tiếp tục. Bạn có thể không làm điều gì đặc biệt, điều gì lớn lao và vĩ đại - chỉ cuộc sống bình thường - nhưng dầu vậy bạn sẽ ảnh hưởng tới toàn thể định mệnh của sự tồn tại.
Quá khứ, tương lai - bạn được nối: đây là chiều của thời gian. Và thế rồi trong không gian bạn được nối với mọi thứ. Cây cối này, mặt trời, mặt trăng, các vì sao... bạn được nối với mọi thứ. Nếu mặt trời đi ra khỏi sự tồn tại hay đơn giản trở nên lạnh đi, vì một ngày nào đó điều đó nhất định trở thành vậy bởi vì năng lượng đang bị tiêu tán đi mọi ngày.... Vài nhà khoa học nghĩ rằng trong vòng bốn nghìn năm nó sẽ lạnh đi - hay bốn mươi nghìn năm, hay bốn triệu năm - điều đó không thành vấn đề, một ngày nào đó mặt trời sẽ lạnh đi. Khoảnh khắc mặt trời lạnh đi, tất cả chúng ta cũng lạnh đi ngay lập tức. Chúng ta sẽ mất cuộc sống bởi vì cuộc sống cần hơi ấm; cho nên mặt trời đang liên tục cho bạn cuộc sống đấy. Và nhớ lấy, trong cuộc sống không có quá trình nào một chiều - không thể thế được. Có cho và nhận: mọi con đường đều đi theo hai chiều. Nếu mặt trời đang cho bạn cuộc sống, bạn phải cho mặt trời cuộc sống theo cách này cách khác.
Đó là nghĩa khi Gurdjieff hay nói với các đệ tử của ông ấy rằng trăng nuôi người. Có một khả năng: bạn cho con vật ăn, bạn cho cây cối ăn - mọi thứ đều là thức ăn cho cái gì đó - cho nên tại sao con người là ngoại lệ? Gurdjieff có ý kiến cá nhân nào đó ở đó. Mọi thứ đều là thức ăn cho cái gì đó khác, cho nên tại sao con người là ngoại lệ mà không phải là thức ăn cho cái gì? Con người là kẻ ăn của toàn thể sự tồn tại - và con người không phải là thức ăn cho cái gì sao? Điều đó là không thể được; mọi thứ đều được móc nối. Cho nên ông ấy đã phát minh ra một lí thuyết hay rằng con người là thức ăn cho mặt trăng; mặt trăng ăn con người, tâm thức của con người. Và nó có chân lí nào đó trong nó, bởi vì đêm trăng tròn làm cho người ta phát cuồng. Đó là lí do tại sao người điên được gọi là người trên cung trăng - lunatic, luna nghĩa là trăng - gàn, hâm; người trên cung trăng là người gàn, hâm. Đại dương phát rồ. Có khả năng là con người cũng phát rồ vào đêm trăng tròn, bởi vì chín mươi phần trăm của con người là đại dương và không là gì khác. Chín mươi phần trăm của bạn chỉ là đại dương; bạn được làm từ đại dương. Chín mươi phần trăm là nước, và nước này có cùng vị mặn như đại dương đích xác theo cùng tỉ lệ. Cho nên khi đại dương phát rồ, cái gì đó phải xảy ra trong than thể của bạn nữa. Chín mươi phần trăm là đại dương bên trong bạn - cái gì đó phải phát rồ. Các nhà thơ nói rằng họ viết những bài thơ hay vào đêm trăng tròn; những người yêu nói rằng cái gì đó trở nên cực kì lãng mạn. Và điều này đã là sự kiện được thiết lập rõ bây giờ rằng nhiều người phát điên vào đêm trăng tròn hơn bất kì đêm nào khác. Số người phát điên ít nhất vào đêm không trăng, và số lớn nhất phát điên là vào đêm trăng tròn.
Có thể Gurdjieff có ý kiến nào đó trong điều đó khi ông ấy nói rằng mặt trăng nuôi dưỡng tâm thức bạn. Điều đó có thể chỉ là hư cấu, nhưng ngay cả hư cấu cũng có một phần chân lí nào đó trong chúng. Và khi một người như Gurdjieff tạo ra hư cấu, nó phải có chân lí nào đó trong nó.
Cái toàn thể là được kết nối. Chúng ta đang ăn, chúng ta đang bị ăn: từ phía này chúng ta lấy vào, từ phí kia chúng ta cho đi. Bạn ăn táo; một ngày nào đó, cây táo sẽ ăn từ thân thể bạn, thân thể bạn sẽ trở thành phân bón. Khi bạn ăn táo, bạn thậm chí có thể không nghĩ rằng bố bạn hay ông bạn có thể ở trong quả táo này và rằng bạn có thể đang ăn bà bạn hay ông bạn. Và, một ngày nào đó, con bạn sẽ ăn bạn. Mọi thứ đều được kết nối. Tính được kết nối này là điều được ngụ ý bởi từ 'Đạo': tính được kết nối, tính được liên nối, tính liên thuộc của tất cả. Không ai là tách rời, do đó bản ngã là ngớ ngẩn. Chỉ cái toàn thể mới có thể nói 'tôi'; bộ phận không nên nói 'tôi'. Nếu họ phải nói, họ nên nói điều đó chỉ là về hình thức ngôn ngữ, nhưng họ không nên tuyên bố cái 'tôi'. Khi bạn tồn tại một cách tách rời khỏi sự tồn tại bạn tồn tại trong khổ sở, bởi vì bạn trở nên bị ngắt ra; và không ai khác chịu trách nhiệm cho điều đó - chính bạn chịu trách nhiệm. Khi bạn hạnh phúc, quan sát điều xảy ra đi. Bất kì khi nào bạn hạnh phúc, bạn không có bản ngã. Trong những khoảnh khắc đó của hạnh phúc, vui vẻ, phúc lạc, đột nhiên bản ngã biến mất - bạn tan chảy nhiều hơn vào trong cái toàn thể; các biên giới ít rõ ràng, các biên giới mờ hơn. Khi các biên giới bị mờ đi toàn bộ cứ dường như sông đã biến mất trong đại dương, khi mọi biên giới mờ đi và bạn là một, đập rộn ràng cùng cái toàn thể, có hạnh phúc.
Chuyện kể ở đâu đó, vào lúc nào đó, có một ông vua. Ông vua này có mọi thứ mà có thể được ham muốn: của cải, quyền lực, thậm chí sức khoẻ. Ông ấy có vợ và con mà ông ấy yêu lắm, nhưng ông ấy đã không có hạnh phúc. Buồn bã và mòn mỏi ông ấy ngồi trên ngai vàng....
Điều đó là tự nhiên. Bạn càng có nhiều của thế giới này, bạn càng có ít hạnh phúc hơn, bởi vì bạn càng có nhiều của thế giới này, bản ngã của bạn càng trở nên mạnh hơn, bản ngã của bạn được làm mạnh hơn, kết tinh hơn - do đó mới có bất hạnh. Cho nên chả bao giờ nghe nói về ông vua nào đã từng hạnh phúc. Rất hiếm hoi. Không phải trùng hợp ngẫu nhiên Phật và Mahavir đã rời bỏ vương quốc và trở thành người ăn xin, và bởi việc trở thành người ăn xin họ đã tuyên bố 'Bây giờ chúng ta đã trở thành hoàng đế' - bởi vì họ đã trở nên hạnh phúc.
Sannyasin là người đã học được con đường của Đạo, và người đó nói 'Tôi không còn nữa. Chỉ cái toàn thể có đấy.' Đây là nghĩa của Jesus khi ông ấy cứ nói: Người được phúc lành là người nghèo trong tâm linh, vì cái nghèo của họ là Vương quốc của Thượng đế. 'Nghèo trong tâm linh' nghĩa là người không có bản ngã, nghèo tới mức người đó thậm chí không có ý tưởng về 'tôi'. Nhưng, từ phía bên kia, người đó là người giầu nhất. Đó là lí do tại sao Jesus nói: Những người đứng cuối cùng ở đây sẽ là người đầu tiên trong Vương quốc Thượng đế của ta. Người nghèo nhất sẽ trở thành giầu nhất. Nhớ lấy, rằng với 'nghèo' không được ngụ ý khái niệm tài chính, với 'nghèo' được ngụ ý là người không có gì cả. Bằng việc trở thành cái không bạn trở thành một phần của cái toàn thể.
Vua phải rất bất hạnh. 'Ta phải có hạnh phúc' nhà vua nói. Ngự y được triệu tới. 'Ta muốn hạnh phúc. Làm cho ta hạnh phúc đi và ta sẽ làm cho ông giầu có. Nếu ông không làm cho ta hạnh phúc, ta sẽ chặt đầu ông' nhà vua nói. Ngự y đâm lúng túng. Làm gì đây? Làm sao làm cho ai đó hạnh phúc? Không ai biết cách thức, không ai đã bao giờ có khả năng làm cho ai đó hạnh phúc. Nhưng nhà vua điên và ông ta có thể giết người. Ngự y nói 'Thần sẽ phải thiền, tâu bệ hạ, và tra cứu kinh sách. Sáng mai thần sẽ tới.'
Và ông ấy thiền cả đêm và đến sáng ông ấy đi tới kết luận: 'Điều đó rất đơn giản.' Ông ấy tra cứu các sách, nhưng hạnh phúc không được nhắc tới trong sách y. Vấn đề là khó, nhưng thế rồi ông ấy phát minh ra - ông ấy kê ra một phương thuốc chữa. Ông ấy nói 'Tâu bệ hạ, bệ hạ phải tìm chiếc áo sơ mi của người hạnh phúc và lấy nó từ người đó. Thế rồi bệ hạ sẽ có hạnh phúc và bệ hạ sẽ biết hạnh phúc là gì.' Một phương cách trị liệu đơn giản: tìm chiếc áo sơ mi của người hạnh phúc và mặc nó vào.
Nhà vua rất hài lòng khi nghe điều này, ông ta nói 'Đơn giản thế sao?' Ông ta nói với thừa tướng 'Đi và tìm một người hạnh phúc và đem chiếc áo sơ mi của anh ta lại ngay lập tức có thể được.'
Thừa tướng ra đi. Ông ta đi tới người giầu nhất và hỏi xin chiếc áo sơ mi của ông này, nhưng ông này nói 'Ông có thể lấy bao nhiêu áo sơ mi tuỳ thích, nhưng tôi không phải là người hạnh phúc. Áo sơ mi ông có thể có, nhiều tuỳ ý muốn, nhưng bản thân tôi không hạnh phúc, và tôi cũng sẽ phái người hầu của tôi đi tìm người hạnh phúc và áo sơ mi của người đó. Cám ơn ông về phương cách chữa trị của ông.'
Và ông ta đã tới thăm nhiều người thế mà chẳng ai hạnh phúc cả. Họ tất cả đều sẵn sàng, họ nói 'Chúng tôi có thể cho mạng sống của chúng tôi nếu nhà vua có thể trở nên hạnh phúc. Áo sơ mi có là gì đâu? Chúng tôi có thể cho cả mạng sống của chúng tôi, nhưng chúng tôi không hạnh phúc - áo sơ mi của chúng tôi sẽ không có tác dụng đâu.'
Thế là thừa tướng rất khổ sở. Phải làm gì đây? Bây giờ ông ta sẽ có lỗi - tay ngự y đã chơi xỏ, cho nên ông ta rất lo lắng. Thế rồi ai đó nói 'Đừng lo nghĩ thế, tôi biết một người hạnh phúc đấy. Và ông phải đã nghe nói về người đó ở đâu đó, lúc nào đó rồi - người đó chơi sáo ban đêm, chỉ ở ngay bên bờ sông thôi. Ông phải đã nghe nói.'
Ông ta nói 'Vâng, đôi khi vào nửa đêm, tôi bị say mê vui thích - những nốt nhạc hay thế. Người này là ai vậy?
Người đó ở đâu?'
Người này nói 'Vào ban đêm chúng ta sẽ đi và tìm người đó. Người đó bao giờ cũng tới, mọi đêm.'
Thế là họ đi trong đêm và người đó đang thổi sáo và điệu sáo cực kì hay. Các nốt nhạc phúc lạc tới mức ông thừa tướng cũng hạnh phúc. Ông ta nói 'Bây giờ ta đã tìm ra được người này!'
Khi họ đi tới đó, người đó dừng thổi sáo. Người đó nói 'Các ông muốn gì?'
Thừa tướng nói 'Ông có hạnh phúc không?'
Người đó nói 'Tôi hạnh phúc, tôi là hạnh phúc. Các ông muốn gì?'
Thừa tướng nhảy lên với sung sướng. Ông ta nói 'Bây giờ, ông cho chiếc áo sơ mi của ông đi!' - và người này vẫn còn im lặng. Và thừa tướng nói 'Sao ông im lặng? Cho cái áo sơ mi của ông đi! Nhà vua cần nó.'
Người này nói 'Điều đó là không thể được, bởi vì tôi không có áo sơ mi nào cả. Các ông không thấy được bởi vì trời tối, nhưng tôi đang ngồi trần trụi đây. Tôi sẽ cho áo sơ mi của tôi - tôi có thể cho cả mạng sống của tôi, nhưng tôi không có áo sơ mi nào.'
'Thế thì tại sao ông hạnh phúc?' thừa tướng hỏi 'Thế thì làm sao ông hạnh phúc?'
Và người này nói 'Cái ngày tôi đánh mất tất cả - áo sơ mi và tất cả - tôi trở nên hạnh phúc... cái ngày tôi đánh mất tất cả ấy. Thực ra tôi chẳng có cái gì cả, và tôi thậm chí không có cả bản thân mình. Tôi không thổi chiếc sáo này, cái toàn thể đang thổi qua tôi. Tôi là vô thực thể, cái không, không ai cả....'
Đây là nghĩa của 'nghèo trong tâm linh': người không sở hữu cái gì, người không có cái gì, người không biết cái gì, người là không cái gì. Đạo nói: Khi ông là không cái gì ông sẽ trở thành tất cả. Tan biến đi và ông sẽ trở thành cái toàn thể. Cứ nói rằng ông có đấy và ông sẽ khổ.
Đạo này, việc hội nhập này với cái toàn thể, việc biến mất này vào trong vũ trụ, không thể được dạy. Bạn có thể học nó, nhưng nó không thể được dạy. Cho nên Liệt Tử và những Đạo sĩ khác không thuyết giảng cái gì cả; họ không có gì để thuyết giảng. Họ nói bằng chuyện ngụ ngôn. Bạn có thể lắng nghe câu chuyện này, và nếu bạn thực sự lắng nghe, cái gì đó... cái gì đó sẽ bùng mở ra trong bạn. Cho nên toàn thể sự việc tuỳ thuộc vào cách bạn lắng nghe.
Bản thân Liệt Tử đã ở cùng với thầy ông ấy trong nhiều năm, chỉ ngồi im lặng, không làm gì, chỉ học im lặng, học thụ động, học cảm nhận, học nữ tính - đó là cách người ta trở thành đệ tử. Để tôi nói với bạn: không có Thầy nào cả, chỉ có đệ tử - bởi vì điều đó không thể được dạy, cho nên làm sao nói rằng có Thầy được? Phật không thể dạy bạn được, Liệt Tử không thể dạy bạn được, cho nên tại sao gọi họ là Thầy? Nhưng nếu có đệ tử, người đó học.
Cho nên thầy không phải là người dạy bạn, thầy là người mà trong sự hiện diện của người đó bạn có thể học. Để khác biệt này được biết tới: Thầy không phải là người dạy bạn - bởi vì không có gì để dạy cả. Thầy là người mà trong sự hiện diện của người đó việc học là có thể.
Một người tìm kiếm tới Jalaluddin Rumi, nhà huyền môn Sufi, và nói 'Thầy sẽ dạy tôi chứ? Thầy sẽ dạy tôi chứ, thưa thầy?'
Jalaluddin nhìn người đó và nói 'Anh sẽ cho phép ta dạy chứ?'
Người này nói 'Sao tôi lại không cho phép thầy dạy? Tôi đã tới để học mà.'
Jalaluddin nói 'Bởi vì đó là điều chính - anh có cho phép ta dạy không? Bằng không ta không thể dạy được, bởi vì thực ra dạy là không thể được, chỉ học là có thể thôi. Nếu anh cho phép, thế thì việc học sẽ nở hoa.'
Liệt Tử ở với thầy trong nhiều năm, chỉ ngồi im lặng, không làm gì, chỉ trở thành ngày một thụ động hơn. Một ngày tới khi ông ấy tuyệt đối im lặng: không một gợn song ý nghĩ trong bản thể ông ấy, không một con sóng. Năng lượng của ông ấy toàn bộ ở đó, một kho chứa, cái hồ yên bình không sóng, không gió thổi - và ông ấy đã hiểu.
Trong một khoảnh khắc điều đó xảy ra. Chân lí không phải là quá trình, nó là việc xảy ra. Nó không dần dần, nó không cần thời gian để xảy ra. Nếu thời gian được cần tới, thời gian được cần chỉ cho bạn bởi vì bạn không thể im lặng ngay bây giờ. Nếu bạn có thể im lặng, nó có thể xảy ra ngay bây giờ. Nó bao giờ cũng xảy ra trong im lặng.
Cái gì xảy ra trong im lặng? Khi bạn im lặng, bạn không có, biên giới tan biến, bạn là một với cái toàn bộ. Thế thì chức năng của thầy là gì? Chức năng của thầy là chỉ ở gần bạn, để cho bạn có thể có hương vị về ai đó đã nếm trải cái toàn thể, để cho người đó có thể trở thành một phương tiện đi qua. Khó cho bạn nếm trải cái toàn thể vì bạn đầy bản ngã thế. Ai đó, người vô ngã, trong người đó Thượng đế dễ dàng tuôn chảy, người rực sáng với Thượng đế, tuôn trào với năng lượng của ngài... chỉ ở ngay bên cạnh người đó, ngồi im lặng, chờ đợi, một ngày nào đó bạn được tràn ngập.
Để tôi kể cho bạn một câu chuyện Đạo.
Một đệ tử của Lão Tử nói 'Thưa thầy, tôi đã đạt tới rồi.'
Lão Tử nói 'Nếu ông nói ông đã đạt tới rồi, thế thì chắc chắn là ông đã chưa đạt tới đâu.'
Đệ tử này đợi trong vài tháng, thế rồi một hôm anh ta nói 'Thầy đúng, thưa thầy. Bây giờ, nó đã đạt tới.'
Đầu tiên anh ta đã nói 'Tôi đã đạt tới.' và thầy phủ nhận. Và thế rồi sau vài tháng, một hôm đột nhiên anh ta buột mở ra, và anh ta nói 'Nó đã đạt tới.'
Lão Tử nhìn với từ bi và tình yêu vô cùng và vỗ nhẹ đầu anh ta. Và ông ấy nói 'Bây giờ điều đó là đúng. Bây giờ, nói cho ta điều đã xảy ra. Bây giờ ta thích nghe. Điều gì đã xảy ra?'
Anh ta nói 'Mãi cho tới ngày hôm đó khi thầy nói 'Nếu ông nói ông đã đạt tới, thế thì chắc chắn là ông đã không đạt tới' tôi đã làm nỗ lực. Tôi đã làm mọi điều tôi có thể làm, tôi đã cố gắng vất vả. Cái ngày thầy nói 'Nếu ông nói ông đã đạt tới, thế thì ông đã không đạt tới ' nó đánh đúng chỗ. Làm sao 'tôi' có thể đạt tới được? bởi vì 'tôi' là rào chắn. Cho nên tôi phải nhường đường.'
Nó có thể đạt tới, và đạo nhân thậm chí gọi điều đó là 'Nó'. Họ không gọi nó là 'ông'. Họ không gọi nó là 'bà', họ không gọi nó là 'Thượng đế cha', họ không gọi nó bằng bất kì tên người nào, họ đơn giản nói 'nó'. 'Nó' là vô nhân tính, đó là cái tên của cái toàn thể: 'Đạo' nghĩa là nó.
'Đạo đã đạt tới' anh ta nói 'và nó tới chỉ khi tôi không có đó.'
Lão Tử nói 'Kể cho các đệ tử khác về tình huống mà nó đã xảy ra.' Và anh ta nói 'Điều duy nhất mà tôi có thể nói là ở chỗ tôi đã không tốt, tôi đã không xấu, tôi không là tội nhân, tôi không là thánh nhân, tôi không là cái này, tôi không là cái nọ, tôi không là bất kì ai nói riêng khi nó đạt tới. Tôi chỉ là là tính thụ động, cực kì thụ động, chỉ là cánh cửa, lối mở. Tôi thậm chí đã không mời nó. Nghe đây! Tôi thậm chí đã không mời nó, bởi vì ngay cả lời mời đã đi với chữ kí của tôi. Tôi thậm chí đã không mời.... Thực ra, tôi đã hoàn toàn quên mất về nó. Tôi chỉ ngồi. Tôi thậm chí không tìm, kiếm, truy tìm. Tôi đã không có đó, và đột nhiên nó tràn ngập tôi.' Nó xảy ra theo cách đó. Nó có thể xảy ra cho bạn ở đây nếu bạn trở nên ngày một thụ động hơn. Đạo là cách thức của nữ tính. Tất cả các tôn giáo khác đều năng nổ, tất cả các tôn giáo khác đều mang nhiều nam tính hơn; Đạo nhiều nữ tính hơn. Và nhớ lấy, chân lí tới chỉ khi bạn ở trong trạng thái nữ tính của tâm thức - không bao giờ khác hơn. Bạn không thể chinh phục được chân lí. Điều đó là ngu xuẩn, đần độn ngay cả nghĩ tới, rằng bạn có thể chinh phục được chân lí. Bộ phận mà chinh phục cái toàn thể! Bộ phận chỉ có thể cho phép, bộ phận chỉ có thể trong buông bỏ.
Buông bỏ này sẽ xảy ra nếu bạn có thể làm một điều: dừng níu bám lấy tri thức, dừng níu bám lấy triết lí, dừng níu bám lấy học thuyết, giáo điều. Dừng níu bám lấy nhà thờ và tôn giáo có tổ chức, bằng không bạn sẽ có những quan niệm giả. Và những quan niệm giả đó sẽ không cho phép chân lí đi vào bạn.
Một chuyện ngụ ngôn hay:
Suốt dọc sân trại trên đầu hồi nhà lũ én đậu thành một hàng, líu ríu một cách lo lắng với nhau, kể cho nhau nhiều điều, nhưng suy nghĩ chỉ về mùa hè và miền nam, vì mùa thu đang tới và gió bấc đang chờ đợi.
Và đột nhiên, một hôm chúng tất cả rời đi mất. Và mọi con vật đều nói về chim én và miền nam.
'Tôi nghĩ đích thân tôi sẽ đi về miền nam sang năm' gà mái nói.
Và năm đó rồi cũng qua và én lại về; năm hết và chúng lại về đậu trên đầu hồi nhà, và mọi gia cầm lại thảo luận về việc ra đi của gà mái.
Và vào một sáng rất sớm, gió bắt đầu thổi từ phương bắc, đột nhiên lũ chim én tất cả soải cánh bay lên và cảm thấy gió nâng cánh chúng; và sức mạnh tới với chúng, và thấy một tri thức cổ kì lạ và còn hơn cả niềm tin của con người; và bay cao, chúng rời bỏ làn khói của thành phố chúng ta.
'Tôi nghĩ gió là đúng' gà mái nói, và nó giang cánh và chạy ra khỏi sân gia cầm. Và nó chạy xô lên đường và theo cách nào đó đi xuống đường, cho tới khi nó đi tới một khu vườn.
Đến tối nó quay về thở hổn hển. Và trong sân gia cầm nó kể lại cho lũ gia cầm về cách nó đã đi miền nam xa như đường cái, và đã thấy luồng giao thông của thế giới lớn đi qua. Và nó đã đi tới những miền đất nơi khoai tây mọc và đã thấy những gốc rạ mà con người sống. Ở cuối con đường nó đã thấy một khu vườn, và có hoa hồng trong đó những hoa hồng đẹp và bản thân người làm vườn cũng có đó.
'Cực kì thú vị làm sao' lũ gia cầm nói 'và mô tả thực hay làm sao!'
Và mùa đông mòn mỏi đi, và những tháng cay đắng qua đi, và mùa xuân của năm lại xuất hiện, và chim én lại tới. Nhưng lũ gia cầm không đồng ý rằng đã có biển ở miền nam, 'Các bạn nên nghe chị gà mái của chúng tôi!' chúng nói.
Bây giờ gà mái đã trở thành người biết. Nó biết cái gì ở phương nam, và nó thậm chí chưa đi ra ngoài thị trấn - chỉ xuôi xuống con đường một chút ít. Trí tuệ là con gà mái.... Nó không thể đi xa lắm. Nhưng một khi con gà mái biết cái gì đó, nó ngăn cản; nó trở thành chướng ngại. Vứt trí tuệ của bạn đi, và bạn sẽ không mất gì cả. Mang trí tuệ cùng bạn và bạn sẽ mất tất cả. Vứt trí tuệ của bạn đi, và bạn sẽ chỉ mất cầm tù của bạn, cái giả của bạn.
Vứt trí tuệ, và đột nhiên tâm thức của bạn sẽ soải cánh bay cao, sẽ trên đôi cánh của nó... và bạn có thể đi tới chính phương nam, tới biển khơi nơi bạn thuộc về. Trí tuệ là gánh nặng lên con người.
Điều cuối cùng trước khi chúng ta đi vào trong chuyện ngụ ngôn này: Đạo bắt đầu với cái chết. Tại sao? Có cái gì đó có ý nghĩa ở chỗ bắt đầu. Đạo nói rằng nếu bạn hiểu cái chết bạn sẽ hiểu mọi thứ, bởi vì trong chết các biên giới của bạn sẽ mờ đi. Trong chết, bạn sẽ biến mất. Trong chết, bản ngã sẽ bị vứt bỏ. Trong chết, tâm trí sẽ không còn đó nữa. Trong chết, mọi cái không bản chất sẽ bị vứt bỏ và chỉ cái bản chất sẽ còn lại.
Nếu bạn có thể hiểu được cái chết bạn sẽ có khả năng hiểu Đạo là gì, đường vô lộ là gì - bởi vì tôn giáo cũng là cách chết, yêu cũng là cách chết, lời cầu nguyện cũng là cách chết. Thiền là cái chết tự nguyện. Chết là hiện tượng lớn lao nhất. Nó là cực điểm của sống, cao trào, đỉnh cao nhất. Bạn chỉ biết một đỉnh, và đỉnh đó là dục, và đó là đỉnh thấp nhất của Himalayas. Vâng, nó là đỉnh, nhưng là đỉnh thấp nhất; chết là đỉnh cao nhất.
Dục là sự sinh: nó là chỗ bắt đầu của Himalayas, đỉnh thấp nhất. Chỉ là ở lúc bắt đầu cái cao nhất là không thể được. Dần dần, dần dần, các đỉnh vươn lên ngày một cao hơn, chung cuộc chúng đi tới thượng đỉnh. Chết là thượng đỉnh, dục là bắt đầu. Giữa dục và chết là toàn thể câu chuyện cuộc đời.
Tâm lí học phương Tây bắt đầu bằng việc hiểu dục. Tâm lí học phương Đông, tâm lí của chư Phật, bắt đầu bằng việc hiểu tâm lí của chết. Hiểu dục là rất sơ khởi; hiểu chết là điều tối thượng. Và bằng việc hiểu chết bạn có thể chết một cách có ý thức. Nếu bạn chết một cách có ý thức bạn sẽ không được sinh ra lần nữa - sẽ không có nhu cầu. Bạn đã học xong bài học, bạn sẽ không bị ném đi ném lại vào bánh xe sinh tử. Bạn đã biết, bạn đã học xong - không cần bạn được gửi lần nữa tới trường; bạn đã siêu việt. Nếu bạn không học nghĩa của cái chết, bạn sẽ phải bị ném trở lại. Sống là tình huống để học chết là gì.
Câu chuyện ngụ ngôn này:
Khi Liệt Tử đang ăn bên vệ đường trên cuộc hành trình về Vi, ông ấy thấy một cái sọ trăm tuổi. Bẻ một thân cây ông ấy trỏ vào chiếc sọ và, quay sang đệ tử Bái Phong, nói 'Chỉ ông ấy và ta biết rằng ông không bao giờ sinh và sẽ không bao giờ chết. Có phải ông ấy thực sự khổ không, có phải chúng ta thực sự sướng không?'
Một phát biểu rất bí ẩn: một mã phải được giải mã. 'Chỉ ông ấy và ta biết' Liệt Tử nói, vừa trỏ vào chiếc sọ một trăm tuổi, 'rằng ông không bao giờ sinh và sẽ không bao giờ chết.' Tại sao ông ấy nói 'Chỉ ông ấy và ta biết?' Cái sọ đã chết cái chết không tự nguyện, và Liệt Tử đã chết cái chết tự nguyện - cả hai đều là chết theo cách nào đó.
Liệt Tử đã chết qua thiền. Liệt Tử đã chết vì ông ấy không còn là một bản ngã nữa, vì ông ấy không còn tách rời với cái toàn thể, vì ông ấy không còn nữa. Đây là cái chết thực, thực ra còn sâu hơn cái chết của chiếc sọ. Không thực chắc liệu người đã chết, người có chiếc sọ nằm đó một trăm năm, có biết không. Điều đó không chắc chắn - người đó có thể đã không biết, người đó có thể đã biết.
Nhưng điều chắc chắn là Liệt Tử biết: cái chết của ông ấy là có ý thức. Nhưng ông ấy đã dùng tình huống này. Chuyện ngụ ngôn sử dụng tình huống. Đệ tử của ông ấy, Bái Phong, đang ngồi cạnh bên ông ấy, chiếc sọ nằm đó, và ông ấy trỏ vào chiếc sọ này.
''Chỉ ông ấy và ta biết rằng ông không bao giờ sinh và sẽ không bao giờ chết.'
Ai chết? Và ai được sinh? Bản ngã được sinh và bản ngã chết. Sâu bên dưới, nơi bản ngã không còn nữa, bạn không bao giờ được sinh và bạn không bao giờ chết. Bạn là vĩnh hằng, bạn là vĩnh viễn, bạn là chính nền tảng, chính chất liệu mà sự tồn tại được tạo nên - làm sao bạn có thể chết được? Nhưng bản ngã được sinh ra và bản ngã chết đi.
Bạn không bao giờ được sinh ra và bạn có thể không bao giờ chết, nhưng làm sao mà biết điều đó? Bạn có muốn đợi cho tới khi cái chết tới không? Điều đó rất rủi ro, bởi vì nếu bạn sống toàn thể cuộc sống của bạn một cách vô ý thức, không có mấy khả năng rằng bạn có thể trở nên có ý thức khi bạn chết đâu. Điều đó là không thể được nếu toàn thể cuộc sống của bạn đã từng là sự liên tục của việc sống vô ý thức, bạn sẽ chết một cách vô ý thức, bạn sẽ không có khả năng biết đâu. Bạn sẽ chết trong cơn mê, bạn sẽ không có khả năng quan sát và thấy điều đang xảy ra. Bạn thậm chí không có khả năng thấy cuộc sống, làm sao bạn có thể thấy chết được? Chết là tinh tế hơn.
Nếu bạn thực sự muốn biết, thế thì bắt đầu trở nên tỉnh táo, nhận biết đi. Sống có ý thức vào, học ý thức, tích luỹ ý thức. Trở thành ngọn lửa lớn của ý thức, thế thì, khi chết tới, bạn sẽ có khả năng chứng kiến nó, bạn sẽ có khả năng nhìn nó và bạn sẽ biết 'Thân thể đang chết, bản ngã đang chết, nhưng mình không chết vì mình là nhân chứng.' Nhân chứng đó là chính cốt lõi của sự tồn tại. Nhân chứng đó là điều các tôn giáo khác gọi là 'Thượng đế', và là điều Liệt Tử, Trang Tử gọi là 'Đạo': người biết, yếu tố biết, tâm thức, nhận biết, tỉnh táo.
Bắt đầu sống cuộc sống có ý thức đi. Làm bất kì cái gì bạn đang làm, nhưng làm cứ dường như bạn là nhân chứng cho nó - quan sát nó, im lặng ngắm nhìn nó. Đừng bị lạc vào trong các vật; vẫn còn tỉnh táo, vẫn còn bên ngoài. Bắt đầu từ những điều nhỏ bé: bước đi trên đường, ăn, tắm, cầm tay người bạn, nói chuyện, lắng nghe - những điều nhỏ bé, nhưng giữ tỉnh táo. Bạn sẽ quên đi quên lại. Nhặt nó lên lần nữa, tìm ra nó lần nữa, nhớ nó lần nữa. Đây là điều Phật gọi là 'lưu tâm', điều Gurdjieff gọi là 'tự nhớ'.
Cứ nhớ rằng bạn là nhân chứng. Lúc ban đầu điều đó là gian truân, vất vả, bởi vì giấc ngủ của chúng ta là dài. Chúng ta đã ngủ trong nhiều kiếp, chúng ta đã trở nên quen với ngủ, chúng ta ngáy - một cách siêu hình. Điều đó là khó, nhưng nếu bạn cố, từ từ tia sáng của tỉnh táo sẽ đi vào trong bản thể bạn. Điều đó là có thể - khó đấy, nhưng là có thể - không phải là không thể được. Và đây là điều có giá trị nhất trong cuộc sống.
''Chỉ ông ấy và ta biết rằng ông không bao giờ sinh và sẽ không bao giờ chết.'
Tôi biết bạn sẽ không bao giờ chết, bởi vì bạn không bao giờ được sinh ra, nhưng bạn không biết điều đó. Việc biết của tôi sẽ không có ích cho bạn - bạn phải biết nó. Điều đó phải trở thành hiểu biết riêng của bạn: là ánh sang lên bản thân bạn.
'Có phải ông ấy thực sự khổ không, có phải chúng ta thực sự sướng không?'
Và thế rồi ông ấy nêu ra câu hỏi cho đệ tử của ông ấy 'Ai sướng người đang sống hay người đã chết? Ai thực sự khổ - người đã chết hay người đang sống? Và ai thực sự sướng?' Và ông ấy bỏ lại câu hỏi này. Nó là công án: đệ tử này phải thiền về nó.
Chuyện ngụ ngôn này không nói cái gì cả, nó chấm dứt bất thần. Bây giờ đệ tử này phải làm việc về nó. Bây giờ anh ta phải thiền, anh ta phải nhận biết về chết, về sống, về yêu, về cái này và cái nọ. Và anh ta phải thiền về sự kiện này: Ai thực sự sướng? Bạn sướng bởi vì chỉ sống sao? Bạn không sướng, cả thế giới khổ thế. Cho nên một điều có thể được suy ra, và có thể được suy ra một cách vô điều kiện, rằng chỉ bằng việc sống người ta không nhất thiết đã sướng đâu. Chỉ sống là không đủ để sướng - cái gì đó hơn nữa là được cần tới để sướng, cái gì đó 'cộng thêm'.
Sống cộng với nhận biết... thế thì hạnh phúc nảy sinh, bởi vì trong nhận biết, trong ánh sáng của nhận biết, bóng tối của bản ngã biến mất. Bây giờ, khi sống có cộng với nhận biết, những điều lớn lao xảy ra. Thứ nhất: bản ngã biến mất, và cùng với bản ngã cái chết biến mất, bởi vì chỉ bản ngã mới có thể chết - bởi vì bản ngã được sinh ra. Với bản ngã biến mất, sinh đã biến mất, chết đã biến mất. Với bản ngã biến mất, sự tách rời của bạn khỏi sự tồn tại đã biến mất.
Đây là nghĩa của đóng đinh: bản ngã bị đóng đinh. Khi Jesus bị đóng đinh, Christ được sinh ra - đó là nghĩa của phục sinh. Mặt này là đóng đinh, mặt kia là phục sinh. Chết đi nếu bạn thực sự muốn sống - rất ngược đời, nhưng cực kì đúng, tuyệt đối đúng. Như bạn vậy, bạn không chết không sống. Bạn treo lơ lửng ở giữa, do đó mới có khổ, căng thẳng, phiền não. Bạn bị chia chẻ: bạn không sống không chết. Hoặc sống toàn bộ, và thế thì bạn sẽ biết sống là gì; hoặc chết toàn bộ, thế nữa bạn sẽ biết sống là gì - bởi vì với tính toàn bộ cánh cửa của Đạo mở ra.
Là toàn bộ đi. Người ngủ không thể toàn bộ trong bất kì cái gì. Bạn ăn, bạn không toàn bộ ở đó; bạn đang nghĩ tới cả nghìn lẻ một thứ, bạn đang mơ cả nghìn lẻ một giấc mơ, bạn chỉ tọng vào mình một cách máy móc. Bạn có thể làm tình với người đàn bà của bạn hay với người đàn ông của bạn mà bạn không toàn bộ ở đó. Bạn có thể nghĩ về người đàn bà khác: làm tình với vợ bạn và nghĩ về người đàn bà khác. Hay bạn có thể nghĩ tới chợ, hay tới giá cả của các thứ bạn muốn mua, hay nghĩ về chiếc xe hơi, hay ngôi nhà, hay cả nghìn lẻ một thứ - và bạn đang làm tình một cách máy móc.
Là toàn bộ trong hành động của bạn đi, và nếu bạn toàn bộ bạn phải nhận biết; không ai có thể toàn bộ mà không nhận biết. Là toàn bộ nghĩa là không có suy nghĩ khác. Nếu bạn đang ăn, bạn đơn giản ăn; bạn là toàn bộ ở đây-bây giờ. Việc ăn là tất cả: bạn không chỉ cho các thứ vào, bạn tận hưởng nó. Thân thể, tâm trí, linh hồn đều trong hài hoà khi bạn ăn: có hài hoà, nhịp điệu sâu sắc, giữa tất cả ba tầng của bản thể bạn. Thế thì ăn trở thành thiền, đi trở thành thiền, chẻ củi trở thành thiền, mang nước từ giếng về trở thành thiền, nấu thức ăn trở thành thiền.
Những điều nhỏ bé được biến đổi: chúng trở thành hành động chói sáng, và từng hành động trở thành toàn bộ tới mức từng hành động có phẩm chất của Đạo. Thế thì bạn không là người làm khi bạn là toàn bộ. Thế thì Thượng đế là người làm, hay cái toàn bộ là người làm - bạn chỉ là phương tiện, lối chuyển. Và việc trở thành lối chuyển đó là phúc lạc, là phúc lành.
Nhận xét
Đăng nhận xét