Chương 8. Cười đau cả bụng
Chương 8. Cười đau cả bụng
Câu hỏi thứ nhất:
Thưa thầy kính yêu,
Thầy đã nhân từ gửi cho tôi câu trả lời ghi băng cho một câu hỏi vào mùa thu trước. Ý chính của câu trả lời của thầy đã là điều tôi cố gắng quá vất vả theo đuổi tâm linh. Tôi đã dừng gần hết mọi thứ trong chín tháng và thu được kết quả tốt từ việc theo lời chỉ bảo của thầy.
Bây giờ tôi lại đang tham dự vào một nhóm sannyasin, nhưng tôi cảm thấy rằng trở thành một sannyasin sẽ là làm điều thầy bảo tôi đừng làm - cố gắng quá vất vả. Tôi đã từng được điểm đạo vào nhiều nhóm và cảm thấy rằng điều này có thể mang triệu chứng của việc cố gắng quá vất vả. Tôi có phải thảnh thơi và tận hưởng thầy theo cách chúng tôi đang vậy bây giờ không?
Mariel Strauss này, điều đó đích xác là tính chất sannyas đấy: thảnh thơi và tận hưởng bất kì cái gì đang đang vậy. Nó không phải là điểm đạo như các điểm đạo khác bạn đã từng trải qua - nó là hiện tượng hoàn toàn khác. Nó không phải là chuyện nghiêm chỉnh chút nào, nó về cơ bản là vui đùa. Chính là lần đầu tiên trên trái đất chúng ta đang cố gắng đem vui đùa cho tôn giáo.
Tôn giáo bao giờ cũng là mặt dài, buồn bã, nghiêm chỉnh, u ám. Bởi vì sự nghiêm chỉnh đó, hàng triệu người vẫn còn xa cánh với tôn giáo. Những người sống động không thể trở thành mang tính tôn giáo được bởi vì tôn giáo có nghĩa là một loại tự tử với họ - và nó là vậy. Những người đã chết hay đang chết, những người ốm yếu, bệnh hoạn, tự tử, chỉ họ mới quan tâm tới tôn giáo cũ.
Tôn giáo cũ không nhảy múa, ca hát, mở hội; chúng là phản cuộc sống, phải trần thế, phản thân thể. Chúng mang tính phủ định thuần tuý; chúng không có gì để khẳng định. Thượng đế của chúng được dựa trên sự phủ định. Cứ phủ định mãi: bạn càng phủ định cuộc sống nhiều, bạn càng được coi là mang tính tôn giáo nhiều.
Tôi đem tới một cách nhìn mới về tôn giáo cho thế gian: tôi đang giới thiệu cho bạn một tôn giáo có thể cười, một tôn giáo có thể yêu, một tôn giáo có thể sống cuộc sống đời thường với nhận biết phi thường.
Tôn giáo không phải là vấn đề thay đổi hình mẫu cuộc sống, hay thay đổi mọi thứ và tình huống. Tôn giáo thay đổi bạn, không phải là tình huống của bạn. Nó không thay đổi mọi thứ: nó thay đổi cách bạn nhìn vào mọi thứ. Nó thay đổi con mắt của bạn, cách nhìn của bạn; nó cho bạn sự sáng suốt. Thế thì Thượng đế không phải là cái gì đó chống lại cuộc sống: thế thì Thượng đế là cốt lõi bản chất của cuộc sống. Thế thì tâm linh không chống đối vật chất mà là dạng cao nhất của vật chất, hương thơm thuần khiết của vật chất.
Mariel Strauss này, nếu bạn né tránh tính chất sannyas điều đó sẽ là việc nghiêm chỉnh đấy. Bạn đã không hiểu rằng đây không phải là cùng loại điểm đạo. Bạn đã từng ở trong nhiều trường phái, và bạn đã thu thập nhiều tri thức về điểm đạo và bí ẩn - nhưng đây không phải là loại điểm đạo đó. Nó chính là điều đối lập: nó đưa người được điểm đạo vào cuộc sống, vào cuộc sống bình thường. Một khi cuộc sống bình thường của bạn trở thành được thấm đẫm tính thiền của bạn thì bạn là một sannyasin. Đấy không phải là vấn đề chỉ thay đổi quần áo của bạn đâu - cái đó chỉ là biểu tượng - sannyasin thực là đem thiền tới chuyện bình thường của cuộc sống, đem thiền tới bãi chợ. Ăn, đi, ngủ, người ta có thể vẫn còn liên tục trong trạng thái thiền. Không có gì đặc biệt là bạn làm, nhưng làm cùng mọi điều với cách thức mới, với phương pháp mới, với nghệ thuật mới.
Tính chất sannya thay đổi cái nhìn của bạn.
Bạn nghe lời khuyên của tôi và trong chín tháng, bạn nói, bạn dừng hầu hết mọi thứ và nhận được kết quả tốt từ việc theo lời chỉ bảo. Nhưng ở đâu đó sâu bên dưới bạn vẫn còn nghiêm chỉnh; bằng không bạn đã lấy bước nhảy vào tính chất sannyas - không nghiêm chỉnh. Ngay cả hỏi về nó cũng biểu lộ ra tính nghiêm chỉnh của bạn. Bạn không thể chấp nhận được nó một cách vui đùa, với tiếng cười.
Tính chất sannyas chỉ là chơi đùa thôi - leela. Khái niệm đó không được biết tới ở phương Tây; phương Tây đã bỏ lỡ nhiều bởi vì không biết tới khái niệm đó. Ở phương Tây, tôn giáo không có ý tưởng rằng Thượng đế không phải là đấng sáng tạo mà là người chơi đùa, rằng sự tồn tại không phải là sáng tạo của ngài mà chỉ là việc chơi của ngài với năng lượng. Cũng giống như sóng đại dương gầm thét, vỗ tung toé lên bờ và đá, một cách vĩnh hằng, chỉ là trò chơi của năng lượng, Thượng đế cũng vậy. Hàng triệu hình dạng này không phải do Thượng đế tạo ra đâu, chúng có đó chỉ bởi vì năng lượng tuôn trào của ngài mà thôi.
Thượng đế không phải là người chút nào. Bạn không thể tôn thờ Thượng đế được. Bạn có thể sống theo cách thức có tính thượng đế nhưng bạn không thể tôn thờ Thượng đế được - không có ai để tôn thờ. Mọi tôn thờ của bạn là ngu xuẩn cực kì, mọi hình ảnh Thượng đế của bạn là bịa đặt riêng của bạn thôi. Làm gì có Thượng đế như thế, nhưng có tính thượng đế, chắc chắn - trong hoa, trong chim, trong sao, trong mắt của mọi người, khi bài ca cất lên trong trái tim và thơ ca bao quanh bạn... tất cả điều này là Thượng đế đấy. Chúng ta nói 'tính thượng đế' thay vì dùng từ 'Thượng đế' - từ đó cho bạn ý tưởng về một người, và Thượng đế không phải là người mà là sự hiện diện.
Tính chất sannyas không giống như trở thành người Hindu hay người Ki tô giáo hay người Mô ha mét giáo. Thực ra, nó chính là việc vứt bỏ đi mọi cuộc hành trình này - người Hindu, người Ki tô giáo, người Mô ha mét giáo, mọi cuộc hành trình này. Tính chất sannyas đơn giản là vứt bỏ mọi ý thức hệ. Ý thức hệ nhất định là nghiêm chỉnh rồi; không ý thức hệ nào có thể có tiếng cười làm tinh thần của nó, bởi vì các ý thức hệ phải tranh đấu với nhau, tranh biện với nhau, và biện luận không thể được thực hiện với tiếng cười.
Biện luận phải nghiêm chỉnh chứ! Biện luận về cơ bản mang tính bản ngã, làm sao nó có thể cười được? Bản ngã không biết tới tới tiếng cười chút nào.
Có lần chuyện xảy ra:
Một triết gia và nhà tư tưởng lớn, Keshav Chandra Sen, đi tới gặp Ramakrishna. Ông ta muốn đánh bại Ramakrishna, và, chắc chắn, ông ta có khả năng biện luận lớn lao. Ông ta đã tranh luận chống lại Thượng đế, chống lại tôn giáo, chống lại toàn thể những cái vô nghĩa mà Ramakrishna đang làm. Ông ấy đang cố gắng chứng minh rằng Ramakrishna là người ngu, rằng không có Thượng đế, rằng không ai đã bao giờ chứng minh được sự tồn tại của Thượng đế. Ông ấy cứ nói mãi, và dần dần ông ấy bắt đầu cảm thấy chút ít kì quái bởi vì Ramakrishna chỉ cười. Ông ấy nghe các biện luận và cười - mà không chỉ cười đâu, ông ấy còn nhảy lên, ôm ghì lấy Keshav Chandra Sen, hôm ông này và nói, 'Hay lắm! Luận điểm này tôi chưa bao giờ nghe cả! Nó thực sự thông minh, láu cá.'
Keshav Chandra Sen bắt đầu cảm thấy rất lúng túng. Một đám đông đã tụ tập lại xem Keshav Chandra, một triết gia lớn, tới Ramakrishna; nhiều người đã tới để nghe, nghe nói rằng điều gì đó sẽ được tiết lộ ở đó. Ngay cả họ cũng bắt đầu cảm thấy rằng toàn thể cuộc hành trình đã là vô tích sự. 'Đây là điều kì lạ đang xảy ra!'
Và Keshav Chandra đã viết trong hồi kí của ông ấy, 'Tiếng cười của Ramakrishna đã đánh bại tôi - đánh bại tôi vĩnh viễn. Tôi quên hết mọi luận cứ. Nó có vẻ ngu xuẩn thế! Và ông ấy đã không tranh cãi chống tôi, ông ấy thậm chí đã chẳng nói lấy một lời chống tôi. Ông ấy đơn giản hôn tôi, ôm ghì tôi, cười, nhảy múa. Ông ấy ca ngợi tôi mà không ai đã từng ca ngợi cả - và tôi đang nói chống lại ông ấy! Ông ấy nói, 'Keshav Chandra, sự hiện diện của ông, thông minh thế, thiên tài thế, là đủ bằng chứng rằng có Thượng đế đấy!' Ông ấy nói điều này với tôi,' Keshav Chandra viết, 'nhưng thực ra sự hiện diện của ông ấy, tiếng cười của ông ấy, điệu vũ của ông ấy, việc ôm ghì và hôn của ông ấy, đã chứng minh cho tôi rằng có Thượng đế; bằng không thì làm sao một hiện tượng như Ramakrishna là có thể có được?'
Ramakrishna không được giáo dục, người dân làng Ramakrishna, đã chứng minh còn sâu sắc hơn Keshav Chandra có giáo dục, rất tinh vi. Điều gì đã xảy ra? Cái gì đó cực kì đẹp đã xảy ra. Ramakrishna thực sự mang tính tôn giáo; ông ấy biết tôn giáo là gì, ông ấy biết tính thượng đế là gì: là nhận cuộc sống theo cách nhảy múa, là nhận cuộc sống khi ca hát, chấp nhận cuộc sống trong mọi cách biểu lộ của nó, không phán xét gì - yêu nó vì điều nó đang là vậy.
Còn Ramakrishna nhảy múa và cười và ông ấy nói, 'Cho dù đã có hoài nghi nào trong tâm trí tôi về Thượng đế, thì ông đã phá huỷ nó đi rồi. Làm sao có thể có thông minh như thế mà không có Thượng đế cơ chứ? Ông là bằng chứng, Keshav Chandra này - tôi tin vào ông đấy.'
Sannyasin nghĩa là người không cố gắng giải bí ẩn của cuộc sống mà chìm sâu vào trong bản thân bí ẩn. Sống điều bí ẩn là tính chất sannyas, không giải quyết bí ẩn này. Nếu bạn bắt đầu giải nó bạn trở nên nghiêm chỉnh. Nếu bạn bắt đầu sống nó bạn trở nên ngày một vui đùa hơn.
Mariel Strauss này, thấy khác biệt giữa tính chất sannyas và những việc điểm đạo khác đi. Nó không phải là điểm đạo theo nghĩa cũ đâu - nó là việc dỡ bỏ, và như vậy tôi có thể nói nó là phi điểm đạo. Nó sẽ đem bạn ra khỏi mọi điểm đạo của bạn, bởi vì nếu bạn đã từng ở nhiều trường phái và giáo phái và ý thức hệ, thì nhiều điều phải vẫn treo đó bên trong bạn. Bạn cần việc dọn dẹp sạch sẽ, bạn cần việc lau chùi kĩ càng, bạn cần tắm kĩ - và tính chất sannyas sẽ cho bạn việc tắm táp, nó sẽ lau sạch linh hồn bạn. Nó sẽ cho bạn trở lại sự hồn nhiên của trẻ con, tiếng cười của trẻ con, đôi mắt đầy ngạc nhiên và kính nể.
Đừng ngần ngại... nhảy đi. Nó là việc nhảy, bởi vì bạn không thể đi tới nó qua suy nghĩ được. Nó là việc nhảy bởi vì nó không phải là kết luận của tâm trí bạn. Với người khác nó sẽ có vẻ giống như điên khùng - thực ra mọi tình yêu đều điên khùng và mọi tình yêu đều mù quáng, ít nhất với những người không biết yêu là gì. Với người không yêu thì yêu là mù quáng; với những người yêu thì yêu là con mắt có thể có duy nhất mà có thể nhìn vào chính cốt lõi của sự tồn tại. Với những người không biết hương vị của tôn giáo, tính chất sannyas là điên khùng; nhưng với những người biết, mọi thứ khác đều điên khùng ngoại trừ tính chất sannyas. Đây là việc đi vào trong sự lành mạnh. Tôi không thấy gì lành mạnh hơn tiếng cười, lành mạnh hơn tình yêu, lành mạnh hơn lễ hội.
Nhưng bạn vẫn nghĩ dưới dạng nghiêm chỉnh: 'điểm đạo' là một từ lớn lao. Bạn vẫn bị ám ảnh bởi ý tưởng cũ của bạn, vẫn sợ rằng bạn có thể bắt đầu cố gắng quá vất vả. Thực ra, bạn vẫn đang cố gắng đấy.
Trước hết tôi đã gợi ý cho bạn đừng cố gắng quá vất vả. Bây giờ bạn đang cố gắng quá vất vả ở đầu đối diện, ở cực đối diện: cố gắng quá vất vả để không cố gắng vất vả! Nó là cùng điều đó thôi. Trở thành sannyasin đi và quên mọi thứ vô nghĩa này. Thế thì người ta siêu việt lên trên cố gắng và không cố gắng cả hai. Một tiếng cười lớn đang chờ đợi bạn đấy. Và khoảnh khắc cõi bên kia bắt đầu cười bên trong bạn, khúc khích bên trong bạn, thế thì lần đầu tiên bạn biết là một christ nghĩa là gì, là vị phật nghĩa là gì.
Nhưng người Ki tô giáo nói Christ chưa bao giờ cười cả - đây là ý tưởng của họ về Christ. Điều này là không đúng về Christ thực - tôi biết con người này mà! Không thể nào quan niệm được rằng ông ấy không bao giờ cười. Ông ấy tận hưởng thức ăn ngon, bạn biết đấy, ăn tối và uống rượu cả hai; ông ấy tận hưởng bạn bè tốt. Và nếu bạn muốn bạn bè tốt bạn phải tìm nó không ở các học giả mà ở những người liều lĩnh; nếu bạn thực sự muốn có bầu bạn tốt bạn sẽ phải đi tới những người sống bên lề cái gọi là xã hội của bạn - những người bên lề xã hội, người ngoài, người liều lĩnh, người say, gái mãi dâm - bởi vì xã hội của bạn đã trở nên đờ đẫn và chết thế. Xã hội đã được thiết lập gần như là nghĩa địa; bạn không gặp mọi người ở đó, bạn chỉ gặp thân thể chết, những cái xác - bước đi, nói năng, chuyển động, làm mọi việc... nó là phép màu đấy!
Một hôm một chú bé hỏi tôi, 'Bác có tin vào ma không?'
Tôi nói, 'Tin á? - Bác bị ma vây quanh đây này!'
Nó hiểu ra vấn đề ngay lập tức. Nó nói, 'Thế... thế bác định nói... mọi người trên phố và ở chợ tất cả đều là ma sao?'
Tôi nói, 'Ừ, họ toàn là ma cả. Họ tất cả đều sống sự tồn tại sau cái chết. Họ đã chết từ lâu rồi trước đây. Thực ra, họ đã chết trước khi họ được sinh ra.'
Xã hội giết chết và giết dần, tài nghệ lắm. Bạn chưa bao giờ trở nên nhận biết bởi vì điều đó được làm chậm chạp thế, đó là lí do tại sao. Đứa trẻ bị đầu độc dần.
Ở phương Đông, trong quá khứ, đã có việc dùng một loại thám tử nữ nào đó. Nhưng thám tử nữ đó được gọi là vishkanyas - con gái có chất độc. Những cô gái đẹp nào đó đã bị đầu độc rất chậm chạp từ ngay ban đầu bằng sữa mẹ - nó là một sự kiện lịch sử - nhưng chất độc đã được cho theo những liều nhỏ tới mức nó sẽ không giết họ ngay lập tức; mà dần dần toàn thể hệ thống của họ sẽ bị đầu độc. Chất độc sẽ chảy trong máu họ, hơi thở của họ sẽ trở nên độc. Đến lúc họ thành người lớn, họ sẽ sẵn sàng được các nhà vua sử dụng, và họ đẹp tới mức họ rất dễ quyến rũ bất kì ai với họ. Họ được gửi cho vua kẻ thù, người này nhất định bị sập bẫy với người đàn bà đẹp, và một khi người đàn bà này hôn người đàn ông kia thì đó là sự kết thúc cho ông ta. Chỉ hôn cũng đủ giết chết; nó là cái hôn chết người.
Làm tình với người đàn bà như vậy sẽ là sự chấm dứt - bạn sẽ chết như vài con nhện chết. Có vài loại nhện chết trong khi làm tình - bởi vì bạn gái bắt đầu ăn chúng khi chúng đang lên ngày một cao hơn, và chúng đang trong cực lạc thế - bạn biết nhện đấy - run rẩy, và chúng đã hoàn toàn quên mất thế giới. Chúng không còn là vật chất, chúng là tâm linh. Nhưng đàn bà là đàn bà; họ rất vật chất. Khoảnh khắc nhện đực đi vào cơn cực thích, bạn gái bắt đầu ăn nó. Đến lúc nó trở lại, nó không còn nữa. Nó nghĩ nó quay lại - nó thực sự đi!
Những cô gái có độc đó... nhưng phép màu là ở chỗ nhiều chất độc đã không giết chết họ. Nó đã được cho theo những liều nhẹ thế, rất chậm.
Một nhà khoa học làm thực nghiệm với ếch: ông ta ném con ếch vào nước sôi - tất nhiên con ếch nhảy ra khỏi nước ngay lập tức. Thế rồi ông ta cho con ếch vào nước thường, nhiệt độ thường; con ếch tận hưởng thùng nước đó, ngồi tận đáy, thảnh thơi, và nhà khoa học bắt đầu đun nóng nó lên dần dần, rất chậm. Trong vài giờ nước sôi lên, nhưng con ếch đã không nhảy ra khỏi thùng... nó chết. Nó chưa bao giờ trở nên nhận biết, sự việc xảy ra chậm thế.
Và đó là điều đang xảy ra trong xã hội. Phải mất hai mươi nhăm năm để giết một đứa trẻ hoàn toàn, để đầu độc đứa trẻ hoàn toàn. Đến lúc nó vào đại học nó chết rồi, nó bị kết thúc rồi; bây giờ nó sẽ sống sự tồn tại sau cái chết.
Tôi có thể thấy một chút chân lí trong ý tưởng hippy rằng đừng tin cậy vào người ngoài ba mươi tuổi. Có chân lí nào đó trong nó. Vào lúc một người ba mươi tuổi người đó không còn sống động nữa - nếu người đó vẫn còn sống động người đó sẽ trở thành vị Phật, người đó sẽ là một Christ, người đó sẽ là một Krishna. Nhưng trước lúc đó mọi người chết - và họ chết một cách vô ý thức tới mức họ cứ sống dường như họ sống động.
Tính chất sannyas nghĩa là cho lại bạn cuộc sống của bạn. Nó là quá trình giải lập trình bạn, hoá giải ước định cho bạn, tiêu độc cho bạn. Bạn không thể quyết định một cách logic để là một sannyasin, bởi vì chính tâm trí đó là vấn đề, và bạn đang cố gắng để quyết định với chính tâm trí đó. Tính chất sannyas phải là cú nhảy. Nó xảy ra từ trong trái tim, không từ cái đầu.
Mariel Strauss này, bạn vẫn nghĩ từ cái đầu. Xin bạn đi xuống từ đầu đi. Ít nhất để cho một điều xảy ra từ trái tim - không logic mà phi logic, không theo cách nôm na mà theo cách thơ ca. Tính chất sannyas phải là chuyện tình! Không nghiêm chỉnh, tràn đầy tiếng cười, đi vào trong nó... và bạn sẽ ngạc nhiên rằng đây không phải là cách điểm đạo khác nào đó. Điều này sẽ lôi ra mọi điểm đạo của bạn và mọi triết học của bạn và mọi hệ thống ý nghĩ của bạn.
Tính chất sannyas là thảnh thơi trong cuộc sống, tin cậy vào cuộc sống, nghỉ ngơi trong cuộc sống. Không đâu mà đi, không gì mà đạt tới, thế thì toàn thể năng lượng là sẵn có cho nhảy múa và ca hát và mở hội.
Câu hỏi thứ hai:
Thưa thầy kính yêu, Là đệ tử nghĩa là gì?
Prem Samadhi này, đó là một trong những bí ẩn tinh tế nhất. Không có định nghĩa nào là có thể về đệ tử, nhưng vài điều hướng dẫn có thể được cho, chỉ là ngón tay chỉ trăng mà thôi. Đừng bám lấy ngón tay - nhìn lên trăng và quên ngón tay đi.
Đệ tử là hiện tượng hiếm hoi. Rất dễ là học sinh bởi vì học sinh tìm kiếm tri thức. Học sinh chỉ có thể gặp thầy giáo, anh ta không bao giờ có thể gặp được thầy. Thực tại của thầy sẽ vẫn còn bị giấu kín đối với học sinh. Học sinh vận hành từ cái đầu. Anh ta vận hành một cách logic, hợp lí. Anh ta thu thập tri thức, anh ta trở thành ngày một thông thái hơn. Cuối cùng đến lượt mình anh ta sẽ trở thành thầy giáo, nhưng mọi điều anh ta biết đều là vay mượn, không cái gì thực sự là của riêng anh ta.
Sự tồn tại của anh ta là giả; nó là sự tồn tại bản sao. Anh ta không biết tới khuôn mặt nguyên thuỷ của mình. Anh ta biết về Thượng đế, nhưng anh ta không biết bản thân Thượng đế. Anh ta biết về tình yêu, nhưng anh ta chưa bao giờ dám yêu bản thân mình. Anh ta biết nhiều về thơ ca, nhưng anh ta đã không nếm trải tâm linh của bản thân thơ ca. Anh ta có thể nói về cái đẹp, anh ta có thể viết chuyên luận về cái đẹp, nhưng anh ta lại không có linh ảnh, không có kinh nghiệm, không có sự thân thiết mang tính tồn tại với cái đẹp. Anh ta chưa bao giờ nhảy múa cùng hoa hồng. Mặt trời mọc xảy ra đó bên ngoài kia, nhưng không cái gì xảy ra bên trong trái tim anh ta. Bóng tối đó bên trong anh ta vẫn còn như nó vậy trước đây.
Anh ta chỉ nói về các khái niệm, anh ta không biết gì về chân lí - bởi vì chân lí không thể được biết qua lời, kinh sách. Học sinh chỉ quan tâm tới lời, kinh sách, lí thuyết, hệ thống tư tưởng, triết lí, ý thức hệ.
Đệ tử là hiện tượng hoàn toàn khác. Đệ tử không phải là học sinh; đệ tử không quan tâm tới việc biết về Thượng đế, tình yêu, chân lí - người đó quan tâm tới việc trở thành Thượng đế, trở thành chân lí, trở thành tình yêu. Nhớ khác biệt này. Biết về là một điều, trở thành là điều khác toàn bộ. Học sinh không nhận mạo hiểm nào; đệ tử đi vào vùng biển chưa từng thăm dò. Học sinh hà tiện, anh ta là kẻ tích trữ; chỉ thế thì anh ta mới có thể thu thập được tri thức. Anh ta tham lam; anh ta tích luỹ tri thức như người tham lam tích luỹ của cải - tri thức là của cải của anh ta. Đệ tử không quan tâm tới tích trữ; người đó muốn kinh nghiệm, người đó muốn nếm trải, và vì điều đó mà người đó sẵn sàng cho mọi mạo hiểm tất cả.
Đệ tử sẽ có khả năng tìm thấy thầy. Mối quan hệ giữa học sinh và thầy giáo là mối quan hệ của cái đầu, còn mối quan hệ giữa đệ tử và thầy là mối quan hệ của trái tim - nó là mối quan hệ yêu đương, điên trong con mắt của thế giới, điên hoàn toàn. Thực ra, không tình yêu nào là toàn bộ như tình yêu xảy ra giữa thầy và đệ tử. Tình yêu đã xảy ra giữa John và Jesus, tình yêu đã xảy ra giữa Sariputta và Phật, Gautama và Mahavira, Arjuna và Krishna, Trang Tử và Lão Tử - đây là những chuyện tình thực, đỉnh cao nhất của tình yêu.
Đệ tử bắt đầu tan chảy vào trong thầy. Đệ tử phá bỏ đi tất cả khoảng cách giữa bản thân mình và thầy; đệ tử nhường nhịn, đệ tử buông xuôi, đệ tử xoá bản thân mình. Người đó trở thành phi thực thể, người đó trở thành cái không. Và trong cái không đó trái tim người đó mở ra. Trong sự vắng bóng đó bản ngã của người đó đã biến mất và thầy có thể thấm vào trong bản thể của người đó.
Đệ tử cảm nhận, mong manh, không phòng thủ; người đó vứt bỏ mọi áo giáp. Người đó vứt bỏ mọi biện pháp đề phòng. Người đó sẵn sàng chết. Nếu thầy nói, 'Chết đi!' người đó sẽ không đợi đến một khoảnh khắc. Thầy là linh hồn của người đó, chính bản thể của người đó; sùng kính của người đó là vô điều kiện và tuyệt đối. Và biết tới sùng kính tuyệt đối là biết Thượng đế. Biết buông xuôi tuyệt đối là biết tới bí ẩn bí mật nhất của cuộc sống.
Từ 'disciple - đệ tử' cũng hay - nó nghĩa là người sẵn sàng học. Từ đây có từ 'discipline - môn học' - môn học nghĩa là tạo ra không gian cho việc học. Và đệ tử nghĩa là người sẵn sàng học. Ai có thể sẵn sàng học được? Chỉ người sẵn sàng vứt bỏ mọi định kiến của mình. Nếu bạn trở thành người Ki tô giáo hay Hindu giáo hay Mô ha mét giáo, bạn không thể là đệ tử được. Nếu bạn đơn giản tới như một con người, không định kiến nào có từ trước, không niềm tin, chỉ thế thì bạn mới có thể trở thành đệ tử được.
Đệ tử là việc nở hoa hiếm hoi nhất của tâm thức con người, bởi vì bên ngoài đệ tử chỉ còn một đỉnh nữa thôi - thầy. Và người đã là đệ tử toàn bộ một ngày nào đó sẽ trở thành thầy. Đệ tử tính là quá trình trở thành thầy. Nhưng người ta không nên bắt đầu bằng ý tưởng trở thành thầy; bằng không người ta sẽ bỏ lỡ, bởi vì thế thì đó lại là trò bản ngã. Người ta nên đơn giản tới để bay hơi.
Bạn đã sống qua bản ngã, và cuộc sống của bạn đã chỉ là khổ và không là gì khác. Thế là đủ rồi! Một ngày nào đó sẽ có việc nhận ra rằng, 'Mình đã làm phí hoài một cơ hội lớn lao bởi việc thường xuyên nghe theo bản ngã của riêng mình. Nó đã lái mình vào những con đường không cần thiết không dẫn tới đâu cả, và nó đã tạo ra cả nghìn lẻ một khổ.' Cái ngày người ta nhận ra rằng 'Bản ngã là căn nguyên gốc rễ của khổ của mình,' người ta bắt đầu tìm kiếm chỗ mà bản ngã có thể bị vứt bỏ. Thầy là cái cớ để vứt bỏ bản ngã.
Bạn có thể vứt bỏ bản ngã của mình chỉ nếu bạn bắt gặp một người bắt giữ trái tim bạn mãnh liệt tới mức bản thể người đó trở thành quan trọng hơn bản thể riêng của bạn, tới mức bạn có thể hi sinh mọi cái bạn có cho người đó.
Mới vài ngày trước đây, tôi nhận được một bức thư từ Gunakar ở Đức. Trong các báo chí Đức một phát biểu của Teertha đã bị cho là quá quan trọng và đã bị chỉ trích - và nó có thể bị chỉ trích, bị thao túng, bởi vì điều đã xảy ra ở Jonestown đã trở thành câu chuyện của thế giới. Ai đó, một nhà báo từ Đức, đã hỏi Teertha, 'Nếu thầy ông yêu cầu ông tự bắn mình, tự giết mình, ông sẽ làm gì?' Và Teertha nói, 'Không có vấn đề suy nghĩ chút nào. Tôi sẽ tự giết mình ngay lập tức.'
Bây giờ, phát biểu này có thể bị thao túng theo cách chỗ tôi đang tạo ra đây sẽ là một Jonestown khác. Teertha đã nói điều đó từ trái tim anh ấy; anh ấy đã không có tính chính trị, ngoại giao; bằng không thì anh ấy đã tránh phát biểu như vậy. Anh ấy đã đơn giản nói điều một đệ tử nhất định nói.
Đệ tử này đã sẵn sàng. Thực ra nói rằng người đó sẵn sàng chết vẫn còn là cái gì đó kém hơn chân lí. Đệ tử này đã chết trong thầy rồi; điều đó sẽ không xảy ra trong tương lai, nó đã xảy ra rồi. Nó đã xảy ra cái ngày đệ tử chấp nhận thầy là thầy của mình: kể từ đó người này không còn nữa, chỉ thầy sống trong người này.
Dần dần, dần dần sự hiện diện của thầy tràn ngập đệ tử. Và sự hiện diện của thầy không thực là sự hiện diện của bản thân thầy đâu: thầy được tràn ngập bởi Thượng đế. Thầy chỉ là phương tiện, lối chuyển, sứ giả; chính Thượng đế tuôn chảy qua thầy. Khi đệ tử buông xuôi theo thầy một cách toàn bộ, người đó thực sự buông xuôi theo Thượng đế dưới hình hài thầy. Thượng đế người đó không thể thấy được, nhưng thầy người đó có thể thấy, và trong thầy người đó có thể thấy cái gì đó mang tính thượng đế. Thầy trở thành bằng chứng đầu tiên về Thượng đế với người đó. Buông xuôi theo thầy là buông xuôi theo Thượng đế hữu hình.
Và dần dần khi việc buông xuôi sâu sắc thêm, cái hữu hình biến mất thành cái vô hình. Thầy biến mất. Khi đệ tử đạt tới trái tim bên trong nhất của thầy, người đó không tìm thấy thầy ở đó mà thấy chính bản thân Thượng đế, chính bản thân cuộc sống - không định nghĩa được, không diễn đạt được.
Prem Samadhi này, câu hỏi của bạn là có ý nghĩa đấy. Bạn hỏi, 'Là đệ tử nghĩa là gì?'
Nó nghĩa là cái chết và nó nghĩa là sự phục sinh. Nó nghĩa là chết vào trong thầy và được tái sinh qua thầy.
Câu hỏi thứ ba:
Thưa thầy kính yêu,
Thầy là ai? Thầy có là Christ quay lại không?
Premananda này, bạn có cho rằng tôi lẩm cẩm hay cái gì đó không? Tôi là bản thân tôi. Sao tôi lại phải là Christ hay ai đó khác? Christ là Christ. Ông ấy không phải là Krishna và ông ấy không phải là Phật và ông ấy không phải là Zarathustra. Phật là Phật; ông ấy không là Yagnavalka, ông ấy không là Lão Tử. Và Socrates là Socrates; ông ấy không là Mahavira và ông ấy không là Patanjali.
Tôi là bản thân tôi. Sao tôi lại phải là Christ? Thực ra không cái gì trong sự tồn tại này lại đã bao giờ lặp lại. Sự tồn tại sáng tạo thế, nó bao giờ cũng tạo ra người mới. Và điều đó không chỉ đúng cho Christ, Phật và tôi - nó đúng cho cả bạn nữa. Chưa bao giờ có cá nhân nào khác như bạn, và sẽ không bao giờ có cả. Bạn là tuyệt đối duy nhất. Sự tồn tại không bao giờ lặp lại, nhớ điều đó; do đó bạn là vô song, không cao hơn không thấp hơn. Đó là lí do tại sao tôi nói không có cấp bậc trong sự tồn tại. Từng người đều tuyệt vời và từng người đều duy nhất và từng người đều một mình. Nhưng những câu hỏi như thế cứ liên tục nảy sinh. Có lí do cho những câu hỏi như vậy.
Premananda này, bạn phải đã từng được dạy từ hồi trẻ thơ của mình về việc tới lần thứ hai của Christ. Bây giờ bạn đã rơi vào tình yêu với tôi, và bạn bằng cách nào đó làm hài hoà tâm trí trẻ thơ của mình với kinh nghiệm mới của bạn đang xảy ra ở đây. Bạn sẽ muốn bắc cầu điều đã được nói cho bạn và điều đang xảy ra cho bạn. Nếu bằng cách nào đó điều đó có thể được bắc cầu thì bạn sẽ cảm thấy chút ít thanh thản. Nếu nó không thể được bắc cầu thế thì sẽ vẫn còn chút ít căng thẳng bên trong bạn. Bạn sẽ phải quyết định cách này hay cách khác.
Bạn không thể phục vụ cho hai thầy - đó là vấn đề, đó là lí do tại sao những câu hỏi này nảy sinh. Bây giờ vấn đề là, 'Phải làm gì đây? Mình có nên vẫn còn với Christ không?' Nhưng bạn không biết gì về Christ ngoại trừ điều đã được nói cho bạn. Christ chỉ là huyền thoại với bạn. Ông ấy đã là thực tại cho John, cho Luke, ông ấy đã là thực tại cho Matthew. Ông ấy không là thực tại cho bạn, Premananda.
Tôi là thực tại cho bạn; tôi sẽ không là thực tại cho con bạn. Bạn sẽ dạy con bạn về tôi, và một ngày nào đó nếu chúng bắt gặp một thầy vấn đề sẽ nảy sinh: bây giờ phải làm gì đây? Chọn quá khứ hay chọn hiện tại? Đó là vấn đề.
Bạn lưỡng lự. Bạn sợ rằng nếu bạn chọn tôi bạn sẽ phản bội Jesus. Không, tôi không là Christ. Nhưng bằng việc chọn tôi bạn sẽ không phản bội Jesus, bạn sẽ hoàn thành ông ấy. Tôi không là Phật, nhưng bằng việc chọn tôi bạn sẽ không phản bội Phật; bạn sẽ làm cho ông ấy hạnh phúc nhất có thể được, bởi vì bằng việc chọn tôi bạn sẽ chọn cốt lõi bản chất của tôn giáo. Vấn đề không phải là về Christ, Phật hay tôi; đây chỉ là các hình dạng. Đừng bị quá gắn bó với hình dạng: nhớ cốt lõi bản chất.
Một người vào tiệm ăn gọi người phục vụ lên và kêu, 'Em ơi! Có ruồi đang bơi trong bát súp của tôi.'
Người phục vụ quì xuống, giơ tay lên trời và kêu, 'Jesus trở lại trái đất đấy!'
Và tôi biết rằng Jesus đã hứa là ông ấy sẽ quay lại, nhưng tôi cho rằng ông ấy không thể điên đến mức hoàn thành lời hứa này. Nhớ lại bạn đã làm gì với ông ấy? Và nếu ông ấy vẫn tới sau điều bạn đã làm với ông ấy thì ông ấy sẽ thực sự dở hơi. Điều đó là không thể được; ông ấy không thể tới được. Ông ấy có thể đã hứa nhưng ông ấy không thể hoàn thành nó được. Nếu ông ấy hoàn thành nó bạn sẽ đóng đinh ông ấy lần nữa; bạn không thể làm khác được. Đó là cách bạn đã từng cư xử với mọi người đã thức tỉnh trên khắp thế giới. Bạn không thể dung thứ được họ khi họ còn sống động, và khi họ chết rồi bạn tôn thờ họ: điều này đã là truyền thống của bạn. Khi họ còn sống họ nguy hiểm; bạn sẽ muốn giết họ bằng cách này cách khác. Khi họ chết họ lại rất an ủi; thế thì bạn sẽ mang xác của họ hàng thế kỉ.
Nhớ lấy, Jesus không bị những kẻ tội phạm, tội lỗi đóng đinh đâu. Ông ấy đã bị các giáo sĩ, các linh mục, các chính khách đóng đinh - những người được kính trọng. Ông ấy đã làm gì cho cái gọi là những người đáng kính này? Ông ấy đã trở thành mối nguy hiểm cho chính kiểu sống của họ. Ông ấy đã tạo ra mặc cảm lớn trong con người họ; chính sự hiện diện của ông ấy là chiếc gai đâm vào da thịt họ: nếu ông ấy đúng, thế thì họ tất cả đều sai.
Và đây là khó khăn, gần như họ không thể nào chấp nhận được - rằng người con này của ông thợ mộc, tuyệt đối vô giáo dục, chất phác, quá trẻ không đủ khôn ngoan... Ông ấy mới chỉ ba mươi khi ông ấy bắt đầu thuyết giảng, và họ không thể dung thứ được cho ông ấy thậm chí trong ba năm. Đến ba mươi ba tuổi ông ấy đã bị đóng đinh; địa vị mục sư của ông ấy chỉ kéo dài có ba năm.
Phật còn may mắn hơn nhiều: ông ấy đã có khả năng làm việc bốn mươi hai năm. Nhưng Phật lại ở trong một loại đất nước hoàn toàn khác - không phải là người Hindu đã cư xử theo cách nào khác với người Do Thái đâu, nhưng người Hindu có cách thức tinh ranh của riêng của họ để phá huỷ chân lí. Người Do Thái thẳng thừng hơn nhiều: thấy nguy hiểm, họ giết luôn người này đi. Người Hindu tinh ranh hơn nhiều, nhất định là vậy bởi vì họ là giống nòi cổ đại nhất trên trái đất. Và Phật không phải là vị phật mới họ phải đương đầu; họ đã đương đầu với nhiều chư phật rồi, họ đã đương đầu với hai mươi bốn tirthankara Jaina. Họ đã thấy Krishna và Rama và Parasuram và Patanjali và Kapil và Kanad và hàng nghìn người khác. Họ đã trở thành rất láu cá và tinh ranh về cách ngăn cản những người này khỏi làm ảnh hưởng tới mọi người, khỏi tác động tới mọi người.
Không cần phải giết; họ biết các phương pháp tốt hơn nhiều để giết, mà không giết. Họ bắt đầu diễn giải lời của Phật, những câu nói của Phật, theo cách mà chúng mất đi mọi ý nghĩa. Không cần phải giết Phật; đây là cách dễ hơn: diễn giải Phật theo các kinh sách cũ, cứ dường như ông ấy đơn giản lặp lại kinh sách cũ. Phương pháp của họ là, 'Ông ấy có nói điều gì mới đâu. Nó đã được ghi trong Upanishad rồi, nó đã được ghi trong Veda rồi - vậy thì cái gì đây? Chúng ta đã có tất cả điều này rồi; ông ấy không phải là nguyên bản.'
Và ông ấy là nguyên bản hoàn toàn. Điều đó không được viết trong Upanishad, và điều đó không được viết trong Vedas, bởi vì ngay chỗ đầu tiên nó không thể được viết ra chút nào. Vâng, những người đã viết Upanishad phải đã biết điều đó, nhưng nó không được viết ra.
Người Hindu rất láu cá. Họ bắt đầu viết lời bình luận về Phật và họ bóp méo toàn thể triết lí của ông ấy. Họ đã tạo ra luận cứ triết lí nhiều thế, ồn ào nhiều đến mức tiếng nói bé nhỏ, tĩnh lặng của Phật hoàn toàn bị mất tăm. Và cái ngày ông ấy chết, người Hindu đã tạo ra ba mươi hai trường phái triết lí Phật giáo; từng từ đều được diễn giải theo ba mươi hai cách. Họ đã tạo ra nhiều lẫn lộn tới mức toàn thể vấn đề bị mất hút.
Thực ra, nếu mà họ đã đóng đinh Phật thì điều đó chắc đã tốt hơn nhiều rồi. Jesus bị giết, người Do Thái đã không bình luận về Jesus chút nào. Một khi họ đã giết ông ấy họ nghĩ, 'Bây giờ chuyện đó kết thúc và thế là xong!' Họ đã quên hết về Jesus, họ chưa bao giờ nhắc tới ngay cả tên ông ấy trong kinh sách của họ. Họ chưa bao giờ nghĩ tới việc viết bất kì lời bình luận nào về phát biểu của ông ấy. Họ nghĩ họ đã giết chết ông ấy và sớm hay muộn mọi người sẽ quên tất cả về ông ấy và không có vấn đề gì còn lại.
Theo một cách nào đó, những lời của Jesus đã được cất giữ còn chính xác hơn lời của Phật, bởi vì các brahmins, những brahmin láu cá và tinh ranh đã tụ tập quanh Phật, đã bóp méo mọi thứ ông ấy đã nói. Nó đã bị bóp méo nhiều tới mức nếu Phật quay lại ông ấy sẽ không thể nào tin được vào điều đã xảy ra.
Nhưng những người này chưa bao giờ quay lại. Vị phật chỉ có thể ở đây một lần thôi. Một khi một người đã trở thành phật hay christ, người đó bay hơi và trở thành hương thơm của vũ trụ. Người đó không thể vật chất hoá lần nữa.
Jesus có thể đã hứa bởi vì ông ấy phải rời các đệ tử của mình sớm thế. Không cái gì đã sẵn sàng... các đệ tử còn chưa sẵn sàng - thậm chí chưa có đến một đệ tử trở nên chứng ngộ. Và họ đều lúng túng không biết phải làm gì khi không có thầy. Họ mới tới gần ông ấy; thời gian chỉ ba năm là không nhiều. Họ vẫn chưa thấm đẫm tâm linh ông ấy. Để an ủi họ, để giúp họ, để giữ họ vẫn còn được hoà nhập, để cho họ không rời ra, ông ấy phải đã hứa. Ông ấy phải đã nói, 'Đừng lo nghĩ, ta sẽ quay lại sớm thôi.'
Lời hứa này chỉ là một phương cách. Nhớ lấy, phương cách không đúng cũng không sai, chúng chỉ là phương cách. Nó là một phương cách để giữ cho tâm linh trong các đệ tử tuôn chảy, để giữ họ được hội nhập, để giữ họ tin tưởng, định tâm, bắt rễ. Nó đơn giản là một phương cách! Và nó đã giúp đỡ, phương cách đã có tác dụng; bằng không thì đã không có người Ki tô giáo chút nào. Những đệ tử đáng thương đó đã phải tản mác đi và dần dần đã quên hết mọi điều về Jesus. Đó là điều các giáo sĩ và linh mục đã nghĩ sẽ xảy ra.
Nhưng Jesus đã sáng suốt hơn nhiều. Ông ấy đã cho họ lời hứa rằng, 'Đợi đấy! Đừng lo nghĩ, ta sẽ quay lại. Ta không thể bỏ các ông được, ta sẽ không bao giờ bỏ các ông đâu.'
Và lời hứa này đã giúp đỡ theo cách khác nữa: bởi vì lời hứa này đã có đó, nhà huyền môn Ki tô giáo đã có khả năng nhớ tới Christ một cách tập trung hơn nhiều so với người Jaina có thể nhớ tới Mahavira - bởi vì không có lời hứa. Mahavira đã không nói rằng, 'Ta sẽ quay lại,' ông ấy đã không nói, 'Ta sẽ giúp các ông,' ông ấy đã không nói, 'Ta sẽ sẵn có cho các ông sau khi ta đã qua đời.' Thực ra ông ấy đã nói, 'Các ông phải phụ thuộc vào mỗi bản thân mình thôi.' Điều đó là đúng, nhưng điều đó sẽ thành vất vả cho các đệ tử.
Và nhớ lấy, Gurdjieff thường nói rằng một người như Phật hay Christ có thể nói dối. Và tôi đồng ý với Gurdjieff hoàn toàn. Nếu họ thấy rằng nói dối sẽ phục vụ cho chân lí, họ sẽ không lo nghĩ gì. Họ sẽ không cảm thấy xấu hổ hay mặc cảm đâu; họ sẽ dùng dối trá để phục vụ chân lí. Dối trá trở thành phương cách. Phật gọi nó là upaya - một phương cách.
Các nhà huyền môn Ki tô giáo đã có khả năng nhớ Jesus còn sâu sắc hơn nhiều bởi vì sự tin tưởng này rằng ông ấy sẽ có ích, rằng ông ấy đang quanh đâu đây, rằng bất kì khi nào ông ấy được gọi tới ông ấy sẽ quay lại... Không phải là ông ấy sẽ tới đâu, không phải là ông ấy đang ở quanh đây, không phải là ông ấy sẽ giúp đỡ, nhưng chính ý tưởng này rằng sự giúp đỡ của ông ấy là sẵn có làm cho bạn được định tâm. Cho nên theo một cách nào đó, không giúp bạn, nhưng ông ấy lại đã giúp rồi. Lời dối trá trở thành đúng; dối trá không còn là dối trá nữa, nó trở thành chân lí.
Nhưng đừng coi lời hứa như thế là nghiêm chỉnh. Không có nhu cầu cho tôi là christ chỉ để an ủi bạn. Bạn phải vứt bỏ các ý tưởng cũ của mình đi; bằng không nó sẽ là vấn đề thật cho tôi. Ở đây có người Hindu giáo, người Mô ha mét giáo, người Ki tô giáo, người Jaina giáo, Phật tử, người Parsi giáo, người Sikh giáo, và nếu người Sikh giáo nói, 'Thầy có phải là Nanak không?' và người Jaina giáo nói, 'Thầy có là Jaina không?' và Phật tử nói, 'Thầy có là Phật không?' thì nó sẽ trở thành rắc rối. Tôi không thể là mọi người này được.
Đây là tụ hội không của một tôn giáo, đây là tụ hội của mọi tôn giáo của thế giới. Đây là tụ hội nhân loại thực, đây là tụ hội quốc tế, tình huynh đệ vũ trụ.
Đừng chú ý nhiều tới những lời hứa như vậy, chúng là phương cách thôi. Nhưng bây giờ chúng không còn hữu dụng cho bạn nữa. Tôi đang sẵn có đây đang sống động - phỏng có ích gì mà nghĩ tới một phương cách đã được phát minh ra từ hai nghìn năm trước? Tôi đang phát minh ra các phương cách mọi ngày cho bạn, và trong khi tôi còn sống, xin dùng chúng. Nó sẽ ích lợi hơn nhiều và các bạn sẽ dễ dàng được lợi bởi chúng.
Họ gặp gỡ tại bữa tiệc. Anh ta bị choáng ngợp trước vẻ đẹp lộng lẫy và rực rỡ của cô ấy. 'Anh cho rằng em nhận được nhiều lời mời hơn là em có thể chấp nhận,' anh ta nói.
'Em không thể đi chơi rất thường xuyên được đâu,' cô ấy trả lời thoái thác bằng cách nào đó, 'bởi vì em còn làm việc. Nhưng khi em không muốn đi với đàn ông, em đơn giản nói với anh ấy rằng em sống ở ngoại ô.'
'Ý tưởng lanh lợi ghê,' anh ta vừa nói vừa cười. 'Vậy thế em sống ở đâu?'
'Ở ngoại ô anh ạ,' cô ấy dịu dàng trả lời.
Rất tỉnh táo đi. Jesus chắc chắn nói, 'Ta sẽ tới.' Điều đó chỉ để lau nước mắt trong mắt của đệ tử ông ấy, điều đó là từ từ bi. Nhưng một người đã đạt tới Thượng đế không thể quay lại được. Điều đó là không thể được; trong chính bản chất của mọi vật điều đó là không thể được - bởi vì người đó không thể đi vào thân thể lần nữa được. Để đi vào thân thể, bạn cần một ham muốn nào đó, ham muốn vô cùng. Và người đã đạt tới Thượng đế không có ham muốn nào còn lại. Chính qua cánh cửa của ham muốn mà con người đi vào thân thể. Nếu mọi ham muốn đều mất đi, thế thì không có cách nào đi vào trong thân thể, đi vào trong bụng mẹ.
Do đó, ở phương Đông, chúng ta biết rằng một khi vị phật đã đi rồi, ông ấy đi vĩnh viễn. Bạn có thể cố gắng hiểu giáo huấn của ông ấy, nhưng sẽ tốt hơn nhiều nếu bạn có thể tìm thấy vị phật sống ở đâu đó. Và chưa bao giờ có chuyện là nếu bạn tìm bạn sẽ không tìm ra vị phật ở đâu đó. Nếu bạn thực sự tìm kiếm bạn nhất định tìm thấy vị phật ở đâu đó chỗ này hay chỗ khác. Ở đâu đó chỗ này hay chỗ khác trong bóng tối của thế giới này bao giờ cũng có vài ngọn lửa; chúng bao giờ cũng có đó bởi vì Thượng đế vẫn còn hi vọng, bởi vì Thượng đế vẫn còn từ bi, bởi vì sự tồn tại chăm sóc cho bạn.
Nếu bạn có thể bắt gặp vị phật sống, một christ sống, quên hết về chư phật quá khứ và christ quá khứ đi. Ông ấy chứa tất cả rồi, và vậy mà ông ấy vẫn không thể bị đồng nhất với bất kì ai nói riêng. Bản thân ông ấy là vị phật, bản thân ông ấy là christ theo quyền riêng của ông ấy.
Cho nên tôi không tuyên bố rằng tôi là Christ, tôi không tuyên bố rằng tôi là Phật. Tôi đơn giản tuyên bố rằng tôi đã đạt tới, rằng tôi về nhà. Và tôi đã để cửa mở. Nếu bạn thực sự là người tìm kiếm, người yêu chân lí, đừng bỏ lỡ cơ hội này...
Câu hỏi thứ tư:
Thưa thầy kính yêu,
Khi thầy tới trong xe sáng nay tôi nghe thấy tiếng cười giòn giã vang tới từ trời. Đấy có phải là một người bạn của thầy không?
Dharma Chetana này, tôi cũng đã nghe thấy tiếng cười đó. Nó không tới từ trên trời đâu - hồn ma của Jugal Kishore Birla đang đứng ngay cạnh Shiva đấy. Ông ta chơi xỏ Charlie anh kĩ sư và thợ cơ khí của tôi về xe Benz. Ông ta đã chơi xỏ Charlie: anh ta nối ắc qui sai qui cách. Bây giờ, một kĩ sư Đức, đặc biệt một thợ cơ khí về xe Mercedes Benz, một chuyên gia có đào tạo, thông minh lắm, lại nối nhầm ắc qui! Làm sao điều này có thể được? Hồn của Jugal Kishore Birla đã chơi xỏ anh ta, cho nên cái gì đó đã bị cháy, và tôi phải lên xe của Jugal Kishore Birla - chiếc Ambassador.
Chắc chắn ông ấy đang đợi ở đây bên cạnh Shiva. Shiva có thể đã cảm thấy điều đó, bởi vì anh ấy nhìn quanh; anh ấy phải đã cảm thấy cái gì đó. Và Chetana này, bạn nghe đúng đấy.
Jugal Kishore Birla là nhà chế tạo xe Ambassador. Ông ấy đã chết rồi. Chúng tôi đã gặp nhau vài lần. Ông ấy là một người kiểu gia trưởng Hindu, và ông ấy muốn tôi trở thành đại sứ trên thế giới cho Hindu giáo. Với mục đích đó ông ấy đã gặp tôi vài lần; đó là cách chúng tôi trở thành bạn bè. Ông ấy nói với tôi, 'Tôi có thể giúp ông bao nhiêu tiền tuỳ ý ông.' Thực ra ông ấy là người giầu nhất Ấn Độ.
Tôi nói, 'Tôi có thể lấy nhiều tiền hơn là ông có, nhưng với một điều kiện.'
Ông ấy nói, 'Điều kiện đó là gì?'
Tôi nói, 'Tôi sẽ lấy nó một cách vô điều kiện. Ông không thể ra điều kiện nào cho tôi được. Tôi có thể lấy mọi cái ông có.'
Ông ấy nói, 'Một cách vô điều kiện sao? Nhưng một điều kiện tôi phải đưa ra chứ; đó là lí do tại sao tôi sẵn sàng cho mọi sự ủng hộ.'
Tôi nói, 'Xin ông đừng nhắc tới điều đó vội.' Nhưng ông ấy vẫn cứ nhắc tới. Ông ấy nói, 'Điều kiện của tôi rất đơn giản: không lẽ ông không thể trở thành sứ giả Hindu giáo cho thế giới được sao? Hindu giáo cần ai đó lan truyền nó theo cách đương đại và hiện đại để nó hấp dẫn tâm trí thế giới.'
Tôi nói, 'Thế thì tôi không thể nhận lấy một xu của ông được.'
Ông ấy nói với tôi, 'Điều này thực lạ - bởi vì ngay cả Mahatma Gandhi cũng đã chấp nhận điều kiện của tôi.'
Tôi bảo ông ấy, 'Đó là lí do tại sao tôi chưa bao giờ gọi Mahatma Gandhi là 'Mahatma' Gandhi. Tôi gọi ông ta là cái gọi là Mahatma Gandhi; bằng không làm sao bất kì ai cũng có thể chấp nhận điều kiện của ông được? Nếu ông ấy biết, ông ấy sẽ không chấp nhận điều kiện nào từ bất kì ai chỉ vì tiền. Tôi biết điều thế giới cần. Nó không phải là Hindu giáo, nó không phải là Ki tô giáo, nó không phải là Hồi giáo. Đủ cho mọi cái vô nghĩa này rồi! Thế giới cần một tâm thức tôn giáo thuần khiết, không tính từ nào được gắn vào nó.'
Nhưng ông ấy là người tốt theo cách nào đó. Khi ông ấy già ông ấy đã thử nhiều lần; bất kì khi nào tôi tới Delhi ông ấy đều mời tôi tới lâu đài của ông ấy và ông ấy lại nêu chủ đề này ra theo cách này cách khác. Tôi nói với ông ấy, 'Ông đã làm đủ việc phục vụ cho nhân loại rồi; bây giờ không cần thêm phục vụ nào nữa. Ông đã làm xe Ambassador này rồi - đây thực sự là cái gì đó tuyệt vời! Mọi bộ phận của nó đều phát ra tiếng động ngoại trừ cái còi. Ông còn muốn làm phục vụ nào nữa cho nhân loại?'
Thế là một cách tự nhiên khi tôi nói điều gì đó về ông ấy chỉ vài ngày trước đây, ông ấy phải đã giận lắm. Ông ấy chơi xỏ Charlie. Điều này rất hiếm khi - ma Ấn Độ đi lừa người Đức đang sống!
Ông ấy đã ở đây, Chetana này, bạn nghe thấy ông ấy đúng đấy. Nhưng xin đừng bắt đầu nghe tiếng cười của các hồn ma; bằng không bạn sẽ bị rắc rối. Ma bao giờ cũng có đó; bởi vì bạn không nghe thấy họ nên bạn vẫn còn quên lãng sự hiện diện của họ đó thôi. Cho nên Chetana này, đừng phát triển năng lực này thêm nữa; nó là nguy hiểm đấy. Nghe tôi là đủ rồi; không cần cho bạn nghe tiếng nói khác trên trời. Có vài nhà huyền môn ở đây nữa người cứ nghe thấy tiếng nói trên trời. Mọi ngày tôi đều nhận được những bức thư nói, 'Tôi nghe thấy điều này và tôi nghe thấy điều nọ.' Tôi đang dạy bạn im lặng và tôi đang dạy bạn không nghe cái gì cả. Và mọi tiếng nói đó đều ở trong đầu bạn; chúng không tới từ trên trời đâu. Nó thực sự là lời gọi rất xa xăm - nó không có tác dụng, đặc biệt vào ngày mưa, và không ở Ấn Độ.
Nhớ một điều: mọi điều được nghe, mọi điều được đọc, đều là tầm thường. Chỉ im lặng của bạn - cái đó mới nên nghe thấy, cái im lặng mà trong đó âm thanh tới - cái im lặng đó là có ý nghĩa. Dịch chuyển tâm thức bạn từ mọi đối thể sang chủ thể, từ điều bạn nghe thấy sang người nghe, từ điều bạn nhìn sang người nhìn.
Nhưng Chetana đã đùa đấy, cho nên tôi không lo nghĩ về cô ấy. Và tôi yêu những chuyện đùa nhỏ như vậy: chúng giữ ý tưởng về chơi đùa sống động. Chúng giữ cho ý tưởng của tôi về tôn giáo sống động.
Câu hỏi cuối cùng:
Thưa thầy kính yêu,
Sao có nhiều tôn giáo thế trên thế giới?
Nagesh này, sao có nhiều ngôn ngữ trên thế giới vậy? - bởi vì có nhiều người thế, nhiều cách diễn đạt thế. Và điều đó là không tệ đâu, nó là tốt; thế giới giầu có hơn bởi vì nó. Nhiều ngôn ngữ thế làm cho thế giới thành cực kì giầu có. Nó cho sự đa dạng, giống như nhiều hoa thế trong vườn và nhiều chim thế.
Nghĩ mà xem: chỉ một hoa trên khắp thế giới, hoa cúc vạn thọ, và cả thế giới sẽ trông xấu; hay hoa hồng - chỉ một loài hoa trên khắp thế giới. Và bạn sẽ làm gì với những hoa hồng đó? Không ai sẽ viết bài thơ nào về hoa hồng thêm nữa. Và nếu bạn so sánh khuôn mặt người đàn bà của bạn với hoa của hoa hồng thì cô ấy sẽ trở nên giận, cô ấy sẽ doạ li dị bạn đấy. Hoa hồng sẽ mất mọi ý nghĩa; chúng là đẹp bởi vì có hàng triệu hoa khác nữa.
Tôi cho rằng thế giới không cần một tôn giáo. Thế giới cần tâm thức tôn giáo, và thế thì tâm thức đó có thể tuôn chảy trong nhiều luồng mạch nhất có thể được. Thực ra, ý tưởng riêng của tôi về tôn giáo là ở chỗ nên có nhiều tôn giáo như có mọi người - từng người đều có tôn giáo riêng của mình.
Khó mà có ngôn ngữ riêng của bạn; từng người không thể có ngôn ngữ riêng của mình được, bằng không thì không ai sẽ hiểu nó.
Mulla Nasruddin đã xin được một việc làm. Người quản lí nhìn anh ta và đã cảm thấy rằng anh ta thậm chí không đủ phẩm chất xin làm việc đó. Ông ta hỏi anh ta, 'Anh có biết đọc viết không?'
Mulla Nasruddin nói, 'Tôi không đọc được nhưng tôi có thể viết được.'
Người quản lí ngạc nhiên; đây là tình huống hiếm có - ông ta chưa bao giờ có thể quan niệm được về một người không biết đọc nhưng có thể biết viết. Ông ta nói, 'Thế thì viết đi!' Ông ta đưa cho anh ta tờ giấy và Mulla lập tức bắt đầu viết lên nó. Anh ta viết thật nhanh - một trang, hai trang, ba trang.
Người quản lí nói, 'Thôi, dừng lại! Anh đọc điều anh đã viết, vì tôi không thể đọc nổi.'
Nasruddin nói, 'Thì tôi đã bảo ông trước rồi mà - tôi chỉ có thể viết thôi! Tôi không thể đọc được.'
Nếu bạn nói một ngôn ngữ mà chỉ bạn mới hiểu, sẽ không thể trao đổi được với mọi người. Nhưng một tôn giáo - bạn có thể có tôn giáo riêng của mình, bởi vì tôn giáo không cần được trao đổi. Tôn giáo không phải là đối thoại giữa bạn và người khác; tôn giáo là đối thoại giữa bạn và sự tồn tại. Cho nên bất kì ngôn ngữ nào cũng được, hay không ngôn ngữ nào cả, hay bất kì ngôn ngữ nào được phát minh ra - Esperanto, hay bất kì cái gì.
Mọi tôn giáo này nên được lấy như các ngôn ngữ khác nhau, thế thì chủ nghĩa cuồng tín mất đi sự nguy hiểm của nó. Thế thì nó là đẹp! Có nhà thờ và đền chùa và tu viện hồi giáo và gurudwaras - nếu chúng ta coi đây là mọi ngôn ngữ khác nhau, thì không có vấn đề gì. Bạn không thấy mọi người đánh nhau về ngôn ngữ nào là ngôn ngữ thật - tiếng Hindi, tiếng Marathi, tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Pháp. Ngôn ngữ nào là ngôn ngữ đúng? Không ai sẽ hỏi câu hỏi như vậy, bởi vì mọi ngôn ngữ đều tùy ý, đều được tạo ra. Chúng không thật hay giả, chúng hữu dụng.
Một người Anh, người Pháp và người Đức tranh luận với nhau về giá trị tương ứng của ngôn ngữ của họ. Người Pháp nói, 'Tiếng Pháp là ngôn ngữ của tình yêu, ngôn ngữ của lãng mạn, ngôn ngữ hay nhất và thuần khiết nhất trên thế giới.'
Người Đức công bố, 'Tiếng Đức là ngôn ngữ sôi nổi nhất, ngôn ngữ của các triết gia, ngôn ngữ của Goethe, ngôn ngữ thích ứng nhất cho thế giới khoa học và công nghệ hiện đại.'
Khi đến lượt người Anh anh ta nói, 'Tôi không hiểu điều các bạn đang nói tới. Lấy cái này ' - và anh ta rút ra một con dao ăn. 'Anh ở Pháp gọi nó là un couteau, anh người Đức gọi nó là ein Messer. Chúng tôi ở Anh đơn giản gọi nó là con dao, mà tất cả đều được nói và làm, là chính xác nó là gì.'
Đây là cách tôn giáo đã từng tranh cãi. Đích xác giống thế này đã là luận cứ giữa các tôn giáo: ai đúng? Người Ki tô giáo, người Hindu giáo, người Mô ha mét giáo, Phật tử, người Jaina giáo - đây chỉ là các ngôn ngữ khác nhau để diễn đạt cùng một hiện tượng. Nếu một khi điều này được hiểu thế thì không có vấn đề gì; tôi thích nhiều tôn giáo thêm để tiến hoá.
Thực ra trong một thế giới tốt hơn mọi người sẽ có tôn giáo riêng của mình, bởi vì tôn giáo là cách của bạn để diễn đạt cái không thể diễn đạt được. Điều đó cũng giống như thẩm mĩ: nếu bạn yêu hoa hồng và tôi không yêu hoa hồng, không có vấn đề gì. Chúng ta không đánh nhau; chúng ta không rút kiếm ra và chúng ta không cứ làm các cuộc thập tự chinh: 'Ai đúng? - bởi vì người này nói hoa sen là đẹp, còn tôi nói hoa hồng là đẹp. Bây giờ điều đó phải được quyết định trên chiến trường.'
Làm sao bạn sẽ quyết định được? Bạn có thể giết tôi, nhưng điều đó sẽ không tạo ra khác biệt gì. Ngay cả chết, tôi sẽ vẫn cứ nói hoa sen là hoa đẹp nhất; cái chết của tôi sẽ không tạo ra thay đổi gì trong cách nhìn của tôi. Bạn có thể giết người Hindu, bạn có thể giết người Mô ha mét giáo: điều đó không thay đổi cái gì chút nào.
Nhưng đây là điều, qua nhiều thời đại, mọi người đã làm cho nhau - đánh nhau một cách lố bịch. Ai đó gọi Thượng đế là 'Allah' - người đó sai. Tại sao? Ai đó gọi Thượng đế là 'Ram' - người đó sai. Tại sao? - bởi vì bạn gọi ngài là 'Thượng đế.' Thượng đế, Ram, Allah, tất cả đều là cái tên, cái tên được đặt ra cho cái gì đó không có tên riêng của nó, cái là kinh nghiệm vô danh.
Có nhiều tôn giáo thế, Nagesh này, bởi vì có nhiều người thế, các kiểu người khác nhau. Người khác nhau có ý thích khác nhau, người khác nhau có cách tiếp cận khác nhau tới thực tại, và thực tại là đa chiều.
Do đó nhấn mạnh của tôi là: chúng ta cần tâm thức tôn giáo, sự bùng phát vũ trụ của tâm thức tôn giáo. Tất nhiên nó sẽ lấy nhiều hình dạng, nhưng hình dạng không thành vấn đề; khi tâm linh sống động, hình dạng không thành vấn đề. Và từng hình dạng đều đẹp. Có biết bao nhiêu là người: từng người có khuôn mặt khác nhau, cái đẹp khác nhau. Vân tay của từng người đều khác với vân tay của mọi người khác trên thế giới - nhưng điều này không tạo ra rắc rối gì. Dấu chân của từng người hướng tới cánh cửa của Thượng đế đều sẽ khác.
Một khi chúng ta hiểu nó thì tình huynh đệ lớn lao là có thể. Bằng không cái vô nghĩa này của sự cuồng tín tôn giáo - rằng 'Chỉ ta mới đúng' - đã mang tính rất huỷ diệt. Nó đã phá huỷ bản thân tôn giáo; nó đã kết án tôn giáo và người tôn giáo. Đó là lí do tại sao lại có nhiều người phi tôn giáo thế, những người chống tôn giáo. Đó là điều tôn giáo đã làm cho nhân loại mãi tới nay, điều đã tạo ra những người chống tôn giáo - người vô thần, người vô thượng đế, người phủ nhận Thượng đế. Trách nhiệm là ở các tu sĩ, giáo sĩ, giáo hoàng, bác học, shankaracharyas - đây là những người chịu trách nhiệm. Họ đã làm cho tôn giáo thành xấu xí, vô nhân đạo, bạo hành, ngu xuẩn tới mức bất kì người hợp lí nào cũng cảm thấy chút ít xấu hổ của việc là một phần của bất kì phong trào tôn giáo nào.
Chúng ta phải phá huỷ cái gia sản kế thừa xấu xí này của quá khứ. Chúng ta phải dọn sạch không gian cho tương lai. Tất cả đều được chấp nhận: Kinh Thánh có cái đẹp riêng của nó, Koran cũng vậy, Gita cũng vậy. Và nếu bạn mang tính tôn giáo bạn sẽ thích thú Kinh Thánh nhiều cũng như bạn sẽ thích thú Koran và Gita, bởi vì bạn sẽ biết chỉ ngôn ngữ là khác nhau. Và khác biệt về ngôn ngữ tạo ra cái đẹp khác nhau. Hát Koran, và bạn sẽ thấy khác biệt. Kinh Thánh không thể hay được theo cách đó; Koran có phẩm chất ca hát của nó. Bạn có thể ca hát Koran; cho dù bạn không hiểu nghĩa, chính âm nhạc của nó sẽ là lực biến đổi. Thực ra, Koran không có mấy nghĩa; nó có tính thơ ca lớn lao nhưng không mấy nghĩa.
Nhiều người bạn Mô ha mét giáo, nhiều sannyasin Mô ha mét giáo, đã hỏi tôi khi nào tôi sẽ nói về Koran. Tôi đã nghĩ nhiều lần. Nhiều lần tôi đã cầm Koran trong tay, đọc đây đó, và lại trì hoãn nó - bởi vì Koran không có mấy nghĩa. Nó có thơ ca, nó có cái đẹp hoàn toàn khác. Nó là một tác phẩm nghệ thuật!
Nếu bạn muốn nghĩa thế thì Gita có nhiều nghĩa hơn, nhưng không mấy thơ ca chừng nấy; thế thì Kinh Thánh có nhiều nghĩa hơn, nhưng không mấy thơ ca chừng nấy. Kinh Thánh có cái đẹp riêng của nó. Nó đơn giản thế, kinh sách đơn giản nhất trên thế giới, và bởi vì nó đơn giản nó có hồn nhiên, thuần khiết. Jesus nói theo ngôn ngữ của dân làng: chuyện ngụ ngôn và biểu dụ tất cả đều nguyên thuỷ. Nhưng bởi vì chúng nguyên thuỷ chúng có thuần khiết, chúng không bị ô nhiễm - không bị ô nhiễm bởi tâm trí hiện đại. Chúng là trực tiếp, chúng đi thẳng vào tim như mũi tên. Nhưng nếu bạn muốn nghĩa thế thì bạn nên nhìn vào trong Vedas, đầy những triết lí. Chúng có cái đẹp riêng của chúng - cái đẹp của trí tuệ.
Từng kinh sách đều có cái gì đó đóng góp cho thế giới, và không kinh sách nào có thể làm được mọi điều. Nhưng bởi vì bạn không hiểu các ngôn ngữ khác nhau, vấn đề nảy sinh. Sẽ là điều tốt nếu có vài cuộc đương đầu với các tôn giáo khác nhau.
Đó là lí do tại sao tôi cứ nói mãi, lúc thì về Phật giáo, lúc thì về Hindu giáo, lúc thì về Ki tô giáo, lúc thì về Judai giáo, về Hasid, về Thiền, về Sufis - với lí do nào đó: để cho bạn những cách nhìn khác nhau, để cho con mắt riêng của bạn có thể trở nên giầu có, để cho bạn có thể hiểu ngôn ngữ khác thêm một chút ít.
Foster, đi Tokyo vì công việc, không biết tiếng Nhật nào. Cho dù vậy, anh ta cũng vẫn thuyết phục một cô gái hấp dẫn, cô này không biết tiếng Anh, tới phòng khách sạn của của anh ta. Trong khi họ đang làm tình, một giọng phương Đông kêu lên 'Machigai ana!' rất tình cảm.
Foster cảm thấy tự hào rằng mình có thể làm cho cô gái được khuấy động đến mức phải kêu lên, 'Machigai ana!' Foster phải đã nghĩ rằng đây là cái gì đó kiểu như 'Tuyệt diệu! Thích quá!'
Chiều hôm sau anh ta chơi golf với một ông trùm công nghiệp Nhật Bản. Khi người phương Đông ghi một quả, Foster cố gây ấn tượng tốt và kêu lên 'Machigai ana! Machigai ana!'
'Anh ngụ ý gì vậy,' ông trùm cáu kỉnh, 'sai lỗ à?'
Cũng tốt để biết một chút ít về các ngôn ngữ khác nữa. Nó sẽ là sự giúp đỡ lớn lao để bạn có vài thoáng nhìn về Koran, Kinh Thánh, Gita, Dhammapada. Điều đó sẽ làm cho bạn tự do hơn, khoáng đạt hơn, nhân bản hơn.
Nhận xét
Đăng nhận xét