Chương 2. Qua siêu việt

Dhammapada: Con đường của Phật
The Dhammapada: The way of the buddha
Osho
Tập 04

 
Chương 2. Qua siêu việt

Câu hỏi thứ nhất:

Thưa thầy kính yêu,

Hoạt động trí tuệ có thể có tính sáng tạo được không?

Anand Savita, trí tuệ là cái gì đó rởm, cái gì đó giả. Nó là cái thay thế cho thông minh. Thông minh là hiện tượng hoàn toàn khác - cái thực.

Thông minh cần dũng cảm vô cùng, thông minh cần cuộc sống phiêu lưu. Thông minh cần rằng bạn bao giờ cũng đi vào trong cái không biết, vào trong biển chưa thăm dò. Thế thì thông minh phát triển, nó trở nên sắc bén. Nó phát triển chỉ khi nó đương đầu với cái không biết mọi khoảnh khắc. Mọi người sợ cái không biết, mọi người cảm thấy bất an với cái không biết. Họ không muốn đi ra ngoài cái quen thuộc. Do đó họ đã tạo ra cái thay thế giả, bằng chất dẻo cho thông minh - họ gọi nó là trí tuệ.

Trí tuệ chỉ là trò chơi tâm trí; nó không thể có tính sáng tạo được. Trí tuệ có tính tưởng tượng, nhưng không sáng tạo. Thông minh có tính sáng tạo. Thông minh sáng tạo bởi vì thông minh làm cho bạn có khả năng tham gia cùng Thượng đế. Thượng đế là cội nguồn của mọi sáng tạo. Bạn có thể có tính sáng tạo chỉ khi bạn có quan hệ với Thượng đế, khi bạn được bắt rễ vào chính sự tồn tại, khi bạn là một phần của năng lượng thiêng liêng. Bạn không thể có tính sáng tạo theo cách riêng của mình được; bạn có thể có tính sáng tạo chỉ như trung gian của Thượng đế.

Khi nhà thơ sáng tạo ông ấy chỉ là phương tiện, cây trúc hổng trên môi của Thượng đế. Và bỗng nhiên cây trúc hổng không còn là cây trúc hổng nữa - nó trở thành cây sáo. Trống rỗng của cây trúc trở thành đầy bài ca, điệu vũ, lễ hội.

Tính sáng tạo nghĩa là bạn phải biến mất, bạn phải cho phép Thượng đế hiện hữu, bạn phải bước ra khỏi con đường. Trí tuệ có tính bản ngã; thông minh là khiêm tốn, vô ngã. Khác biệt này là tinh tế; bởi vì cả hai từ này đều bắt nguồn từ cùng một gốc, do đó người ta có thể dễ dàng bị lừa. Cẩn thận, tỉnh táo vào! Trí tuệ không phải là thông minh. Thông minh có tính sáng tạo, trí tuệ chỉ là kẻ giả vờ. Nhân danh của tính sáng tạo nó cứ tạo ra rác rưởi.

Bạn có thể đi và nhìn vào các đại học và thấy loại công việc sáng tạo nào đang diễn ra ở đó. Hàng nghìn chuyên luận đang được viết ra; luận văn tiến sĩ, tiến sĩ triết học, tiến sĩ văn chương, những bằng cấp lớn lao được ban cho mọi người. Không ai đã bao giờ đi tới biết điều gì xảy ra cho các luận án tiến sĩ của họ; chúng cứ trở thành đống rác trong các thư viện. Không ai đọc chúng, không ai đã bao giờ được hứng khởi bởi chúng. Vâng, vài người có đọc chúng; nhưng họ là cùng kiểu người sắp viết ra các luận án khác. Các tiến sĩ tương lai tất nhiên sẽ đọc chúng.

Nhưng các đại học của bạn không tạo ra Shakespeares, Miltons, Dostoevskys, Tolstoys, Rabindranaths, Kahlil Gibrans. Các đại học của bạn chỉ tạo ra đồ đồng nát, vô dụng hoàn toàn. Đây là hoạt động trí tuệ cứ diễn ra trong các đại học. Thông minh tạo ra Picasso, Van Gogh, Mozart, Beethoven.

Thông minh là chiều hướng hoàn toàn khác. Nó chẳng liên quan gì tới cái đầu cả, nó có cái gì đó liên quan tới trái tim. Trí tuệ là ở trong đầu; thông minh là trạng thái của sự thức tỉnh trái tim. Khi trái tim bạn thức tỉnh, khi trái tim bạn nhảy múa trong biết ơn sâu sắc, khi trái tim bạn trong hoà điệu với sự tồn tại, trong hài hoà với sự tồn tại, từ hài hoà đó là tính sáng tạo.

Savita này, không có khả năng nào cho bất kì sáng tạo trí tuệ. Nó có thể tạo ra rác rưởi, nó có tính sản xuất, nó có thể chế tạo, nhưng nó không thể sáng tạo. Và cái gì là khác biệt giữa chế tạo và sáng tạo? Chế tạo là hoạt động máy móc. Máy tính có thể làm được điều đó - chúng đã làm điều đó rồi, và làm điều đó theo cách hiệu quả hơn nhiều việc bạn có thể hi vọng từ con người. Thông minh sáng tạo, nó không chế tạo.

Chế tạo nghĩa là thực hiện lặp lại: điều đã được làm, bạn cứ làm đi làm lại mãi. Sáng tạo nghĩa là đem cái mới vào sự tồn tại, tạo ra cách để cái không biết thấm vào cái biết, làm ra cách cho trời đi tới đất.

Khi có Beethoven hay Michelangelo hay Kalidas, bầu trời mở ra, hoa mưa rào xuống từ cõi bên kia. Tôi không nói với bạn điều gì về Phật, Christ, Krishna, Mahavira, Zarathustra, Mohammed, bởi một lí do nào đó: bởi vì điều họ tạo ra tinh tế tới mức bạn sẽ không có khả năng bắt giữ nó. Điều Michelangelo tạo ra là thô; điều Van Gogh tạo ra có thể nhìn được, là thấy được. Điều vị phật tạo ra tuyệt đối vô hình. Nó cần một loại cảm thụ hoàn toàn khác để hiểu.

Để hiểu vị phật bạn phải thông minh. Sáng tạo của Phật không chỉ thông minh vô cùng, mà nó còn siêu phàm, phi phàm tới mức để hiểu nó bạn sẽ phải là thông minh. Trí tuệ sẽ không ích gì ngay cả trong việc hiểu biết.

Chỉ có hai loại người sáng tạo - nhà thơ và nhà huyền môn. Nhà thơ sáng tạo trong thế giới thô còn nhà huyền môn sáng tạo trong thế giới tinh. Nhà thơ sáng tạo trong thế giới bên ngoài: bức tranh, bài thơ, bài ca, âm nhạc, điệu vũ; còn nhà huyền môn sáng tạo trong thế giới bên trong. Sáng tạo của nhà thơ có tính đối thể còn sáng tạo của nhà huyền môn có tính chủ thể, toàn bộ về cái bên trong. Trước hết bạn phải hiểu nhà thơ, chỉ thế thì ngày nào đó bạn mới có thể hiểu được - ít nhất một ngày nào đó cũng hi vọng hiểu - nhà huyền môn. Nhà huyền môn là đoá hoa sáng tạo cao nhất. Nhưng bạn có thể không thấy cái gì nhà huyền môn đang làm.

Phật chưa bao giờ vẽ một bức tranh, chưa bao giờ cầm chổi vẽ trong tay, chưa soạn một bài thơ, chưa hát một bài ca, không ai đã từng thấy ông ấy nhảy múa. Nếu bạn ngắm ông ấy, ông ấy chỉ ngồi im lặng; toàn thể bản thể ông ấy là im lặng. Vâng, duyên dáng bao quanh ông ấy, duyên dáng của cái đẹp vô hạn, của cái đẹp thanh tao, nhưng bạn sẽ cần rất mong manh để cảm thấy nó. Bạn sẽ phải rất cởi mở, không cãi lí. Bạn không thể là khán giả với vị Phật; bạn phải là người tham gia, bởi vì chính bí ẩn là việc được tham gia vào. Thế thì bạn sẽ thấy điều ông ấy đang sáng tạo. Ông ấy đang sáng tạo ra tâm thức, và tâm thức là dạng thuần khiết nhất, dạng cao nhất có thể có, của việc diễn đạt Thượng đế.

Một bài ca hay, một điệu vũ đẹp bởi vì cái gì đó của điều thiêng liêng đang hiện diện trong nó. Nhưng trong vị Phật cái toàn thể của Thượng đế hiện diện. Đó là lí do tại sao chúng ta đã gọi Phật là 'Bhagwan,' chúng ta đã gọi Mahavira là 'Bhagwan' - cái toàn thể của Thượng đế đang hiện diện.

Nhưng học sinh sẽ không có khả năng thấy được điều đó. Đệ tử sẽ có khả năng giải mã một chút ít, và người thành tâm sẽ có khả năng uống nó.

Hoạt động trí tuệ có thể làm cho bạn thành chuyên gia trong những điều nào đó, có ích, hiệu quả. Nhưng trí tuệ là việc dò dẫm trong bóng tối; nó không có mắt, bởi vì nó còn chưa có tính thiền. Trí tuệ được vay mượn, nó không có sáng suốt của riêng nó.

Chủ đề là về làm tình. Trong nhiều tuần Arthur đã trả lời thành công tất cả các câu hỏi nêu cho anh ta trong các mục thi đố trên truyền hình. Anh ta bây giờ đủ tư cách để trả lời câu hỏi lớn trị giá một trăm nghìn đô la. Với một câu hỏi này anh ta được phép mời một chuyên gia. Arthur tất nhiên chọn một giáo sư nổi tiếng thế giới về tình dục từ Pháp.

Câu hỏi lớn là, 'Nếu anh được làm vua trong năm mươi năm đầu tiên của đế quốc Assyrian, anh sẽ được trông đợi hôn vào ba phần nào trong xác ướp của cô dâu của anh trong đêm tân hôn?'

Hai câu trả lời đầu tiên tới nhanh chóng. Arthur đáp, 'Môi và cổ cô ấy.'

Bây giờ, bị bí với câu trả lời cho phần thứ ba của câu hỏi, Arthur cuống cuồng quay sang vị chuyên gia của mình. Người Pháp giơ hai tay lên và rên rỉ, 'Alors, mon ami, đừng hỏi tôi. Tôi đã sai hai lần rồi.'

Vị chuyên gia này, nhà thông thái này, người trí tuệ này, chẳng có sáng suốt gì của riêng mình cả. Người đó phụ thuộc vào tri thức vay mượn, vào truyền thống, vào qui ước. Người đó mang các thư viện trong đầu, một gánh nặng lớn, nhưng người đó không có viễn kiến. Người đó biết nhiều mà lại chẳng biết gì cả.

Và bởi vì cuộc sống không bao giờ như cũ - nó thường xuyên thay đổi, khoảnh khắc sang khoảnh khắc nó đều mới - vị chuyên gia này bao giờ cũng bị tụt hậu, đáp ứng của người đó bao giờ cũng không thích hợp. Người đó chỉ có thể phản ứng, người đó không thể đáp ứng, bởi vì người đó không tự phát. Người đó đã đi tới kết luận, người đó đang mang câu trả lời làm sẵn - và câu hỏi mà cuộc sống nêu ra bao giờ cũng mới.

Hơn nữa, cuộc sống không phải là hiện tượng logic. Và trí tuệ sống qua logic; do đó người đó chưa bao giờ khớp được với cuộc sống và cuộc sống chẳng bao giờ khớp với người đó. Tất nhiên cuộc sống không lúng túng, bản thân người trí thức mới lúng túng. Người đó bao giờ cũng cảm thấy như người ngoài - không phải là cuộc sống đã xua đuổi người đó; bản thân người đó đã quyết định vẫn còn ở ngoài cuộc sống. Nếu bạn níu bám quá nhiều vào logic bạn sẽ chẳng bao giờ có khả năng là một phần của quá trình sống chính là sự tồn tại này.

Cuộc sống còn nhiều hơn logic: cuộc sống là ngược đời, cuộc sống là điều bí ẩn.

Gannaway và O'Casey đã dàn xếp cuộc đọ súng tay đôi. Gannaway béo phục phịch, và khi anh ta thấy đối thủ còm nhom đối diện với mình anh ta phản đối. 'Tước quyền!' anh ta nói, 'Tôi béo gấp đôi anh ta, cho nên tôi phải đứng xa gấp đôi so với anh ta đứng xa với tôi.'

Tuyệt đối logic, nhưng làm sao bạn làm được điều đó?

'Cứ thoải mái đi,' người giúp đỡ của anh ta trả lời. 'Tôi sẽ làm điều đó đúng lại ngay.' Rồi lấy một mẩu phấn từ túi mình anh vẽ ra hai đường thẳng xuôi theo áo của người béo chừa một khoảng cách giữa chúng.

'Bây giờ,' anh ta nói, khi quay sang O'Casey, 'bắn đi, và nhớ rằng bất kì phát nào ra ngoài đường phấn kẻ đều không được tính đâu nhé.'

Toán học hoàn hảo, logic hoàn hảo! - nhưng cuộc sống không logic thế, cuộc sống không toán học thế. Và mọi người cứ sống trong trí tuệ của mình một cách rất logic. Logic cho họ cảm giác dường như họ biết, nhưng đó là cái 'dường như' lớn và người ta có xu hướng quên mất nó hoàn toàn. Bất kì điều gì bạn định làm qua trí tuệ, đó chỉ là suy diễn. Nó không phải là kinh nghiệm về chân lí, mà chỉ là suy luận dựa trên logic của bạn - và logic của bạn là bịa đặt của bạn.

Cudahy, đã uống nhiều rượu, đứng ngắm nhìn cuộc diễu hành nhân ngày lễ Thánh Patrick. Một cách vô ý thức anh vứt mẩu thuốc lá đang cháy vào một chiếc nệm cũ nằm tại lề đường.

Vừa lúc đó các đội viên tóc xám của Đoàn nữ y tá khệnh khạng đi qua. Đồng thời, tấm nệm cháy âm ỉ bắt đầu toả ra mùi kinh khủng.

Cudahy khụt khịt vài lần rồi tuyên bố với viên cảnh sát đứng gần đó, 'Ông sĩ quan ơi, những nữ y tá kia diễu hành quá nhanh!'

Trí tuệ có thể đạt tới những suy luận nào đó, nhưng trí tuệ là hiện tượng vô ý thức. Bạn cư xử gần như trong khi ngủ.

Thông minh là thức tỉnh, và chừng nào bạn còn chưa thức tỉnh đầy đủ, bất kì điều gì bạn quyết định nhất định sai ở đâu đó hay này khác. Nó nhất định là như vậy, nó phải chịu số phận là sai, bởi vì nó là kết luận được đạt tới bởi tâm trí vô ý thức.

Đem thông minh vào hoạt động đi, bạn không cần nhiều thông tin, bạn cần nhiều thiền hơn. Bạn cần trở nên im lặng hơn, bạn cần trở nên vô ý nghĩ hơn. Bạn cần trở nên ít tâm trí hơn và nhiều trái tim hơn. Bạn cần trở nên nhận biết về điều kì diệu đang bao quanh bạn: điều kì diệu đó là cuộc sống, điều kì diệu đó là Thượng đế, điều kì diệu đó có trong cây xanh và hoa đỏ, điều kì diệu đó có trong mắt mọi người. Điều kì diệu đang xảy ra ở mọi nơi! Tất cả đều là điều huyền bí, nhưng bởi vì trí tuệ của mình mà bạn vẫn còn bị khép chặt bên trong bản thân mình, níu bám lấy những kết luận ngu xuẩn của mình đã đạt tới trong vô ý thức, hay được người khác trao cho bạn, những người cũng vô ý thức như bạn vậy.

Savita này, thông minh chắc chắn có tính sáng tạo, bởi vì thông minh đem tính toàn bộ của bạn vào vận hành - không chỉ là một phần, một phần nhỏ, cái đầu. Thông minh làm rung động toàn thể bản thể bạn; từng tế bào của bản thể bạn, từng thớ thịt của cuộc sống bạn bắt đầu nhảy múa và đi vào sự hài hoà tinh tế với toàn bộ.

Đó chính là tính sáng tạo là gì: rung động trong hài hoà tuyệt đối với cái toàn bộ. Đó là cách người ta trở thành một Phật, Christ, Zarathustra. Đây là những người sáng tạo thực.

Cái gì đó giống thế này đang xảy ra ngay bây giờ, ở đây. Nếu bạn là đệ tử bạn sẽ có khả năng cảm thấy cái gì đó của nó. Nếu bạn là người thành tâm bạn sẽ có khả năng uống từ cội nguồn này, cái đã trở thành sẵn có cho bạn. Và thế thì tính sáng tạo sẽ tới với bạn, mọi sự sẽ bắt đầu xảy ra theo cách riêng của nó. Trái tim bạn sẽ bắt đầu rót ra bài ca của vui vẻ, bàn tay bạn sẽ bắt đầu làm biến đổi mọi thứ. Bạn sẽ chạm vào bùn và nó sẽ trở thành hoa sen. Bạn sẽ có khả năng trở thành nhà giả kim thuật. Nhưng điều đó là có thể chỉ qua thức tỉnh lớn lao của thông minh, thức tỉnh lớn lao của trái tim.

Câu hỏi thứ hai:

Thưa thầy kính yêu,

Mọi người đều muốn yêu và được yêu. Tại sao? 'Cái nhìn đầu tiên của tình yêu, cái nhìn cuối cùng của trí huệ.' Điều đó đúng không?

Bal Krishna Bharti, tình yêu là lời cầu nguyện dò dẫm tới Thượng đế. Tình yêu là thơ ca sinh ra từ niềm vui vô cùng của bản thể. Tình yêu là bài ca, điệu vũ, lễ hội: bài ca của lòng biết ơn, điệu vũ của sự cảm ơn, lễ hội chẳng bởi lí do gì cả... vì món quà vô cùng này cứ mưa rào lên chúng ta, vì toàn thể vũ trụ này, từ cát bụi tới điều thiêng liêng. Tình yêu không phải là điều bạn hiểu nó là vậy, do đó mới có câu hỏi này.

Bạn hỏi, 'Mọi người đều muốn yêu và được yêu.

Tại sao?'

Bởi vì tình yêu là tôn giáo ở đỉnh cao nhất của nó; tình yêu là tôn giáo tối cao. Tình yêu là việc tìm kiếm Thượng đế - tất nhiên, tìm kiếm vô ý thức lúc bắt đầu, loạng choạng, dò dẫm trong bóng tối. Chiều hướng có thể không đúng, nhưng ý định là tuyệt đối đúng.

Tình yêu không phải là điều bình thường mà bạn vẫn hiểu nó; nó không chỉ là hấp dẫn sinh học giữa đàn ông và đàn bà. Nó là cái đó đấy, nhưng điều đó chỉ là bắt đầu, chỉ là bước đầu tiên. Ngay cả ở đó, nếu bạn nhìn sâu xuống, nó không thực sự là hấp dẫn giữa đàn ông và đàn bà, nó là hấp dẫn giữa năng lượng nam tính và năng lượng nữ tính. Nó không phải là hấp dẫn giữa A và B; những điều bí ẩn sâu hơn nhiều có tham gia vào ngay cả trong chuyện tình bình thường.

Do đó không ai có thể định nghĩa được tình yêu. Hàng nghìn định nghĩa đã được thử - tất cả đều thất bại. Tình yêu vẫn còn không định nghĩa được, rất khó nắm, rất hay thay đổi. Bạn càng muốn nắm lấy nó, điều đó lại càng trở nên khó hơn, nó càng đi xa hơn. Bạn không thể bắt giữ được nó, bạn không thể xoay xở để biết đích xác nó là gì, bạn không thể kiểm soát được nó. Tình yêu vẫn còn không thể nào biết được. Con người muốn biết, bởi vì tri thức cho sức mạnh. Bạn muốn mạnh trên tình yêu, nhưng điều đó là không thể được; tình yêu lớn hơn bạn nhiều lắm. Bạn không thể sở hữu nó, bạn chỉ có thể bị nó sở hữu. Do đó những người muốn sở hữu tình yêu không bao giờ đi tới biết cái gì về nó.

Chỉ những người đủ dũng cảm, chỉ những người liều lĩnh, người có thể mạo hiểm chính cuộc sống của họ và bị sở hữu bởi năng lượng không biết nào đó, mới có khả năng biết tình yêu là gì.

Tình yêu là bước đầu tiên hướng tới Thượng đế - do đó nó có vẻ như điên khùng đối với những người bị treo trong đầu họ. Và bởi vì mọi người không hiểu toàn thể bí ẩn của tình yêu, bởi vì họ cố gắng hiểu nó qua tâm trí... Nó có thể được hiểu chỉ qua trái tim. Nhớ lấy: mọi điều lớn lao đều có sẵn cho trái tim. Trái tim là cánh cửa tới mọi giá trị lớn lao của cuộc sống, tới mọi giá trị tối thượng, và cái đầu chỉ là cái máy hữu dụng, một vật dụng - tốt ở bãi chợ nhưng hoàn toàn vô dụng trong đền chùa. Và tình yêu là ngôi đền, nó không phải là bãi chợ. Nếu bạn lái tình yêu vào bãi chợ nó bị thu lại thành dâm dục xấu xí.

Đó là điều mọi người đã làm: thay vì nâng tình yêu tới Thượng đế, họ đã thu tình yêu thành dâm dục con vật, xấu xí. Và điều kì lạ là, cùng những người đó - tu sĩ, chính khách, nhà đạo đức - cùng những người đã thu tình yêu thành hiện tượng xấu xa, đều chống lại dục, đều là kẻ thù của dục. Và họ là những người đã phá huỷ sức mạnh tiềm năng vô cùng!

Tình yêu là hoa sen ẩn kín trong bùn. Hoa sen được sinh ra từ bùn, nhưng bạn không kết án hoa sen bởi vì nó được sinh ra từ bùn; bạn không gọi hoa sen là đồ bùn nhơ, bạn không gọi hoa sen là bẩn thỉu. Tình yêu được sinh ra từ dục, và thế rồi lời cầu nguyện được sinh ra từ tình yêu, và thế rồi Thượng đế được sinh ra từ lời cầu nguyện. Người ta cứ soải cánh bay lên ngày một cao hơn, cao hơn.

Nhưng các tu sĩ và nhà đạo đức đã thu toàn thể hiện tượng này thành dâm dục. Và một khi tình yêu trở thành dục nó trở thành xấu, người ta bắt đầu cảm thấy mặc cảm về nó. Và chính bởi vì mặc cảm đó mà có câu tục ngữ này, câu ngạn ngữ này: Cái nhìn đầu tiên về tình yêu, cái nhìn cuối cùng về trí huệ... Nếu bạn hỏi tôi, tôi sẽ đổi nó một chút ít. Tôi sẽ nói: Cái nhìn đầu tiên về tình yêu, cái nhìn đầu tiên về trí huệ.

Nhưng điều đó tùy thuộc vào cách bạn nhìn nó. Nếu bạn nhìn vào tiềm năng của nó, ở khả năng cao nhất mà nó có thể đạt tới, thế thì tình yêu trở thành chiếc thang. Nếu bạn chỉ nhìn vào bùn và bạn hoàn toàn mù với tương lai của bùn, thế thì chắc chắn tình yêu trở thành cái gì đó xấu xí và đối kháng lớn nảy sinh trong bạn. Nhưng đối kháng với tình yêu là đối kháng với Thượng đế.

Trở về từ tuần trăng mật, Michael điện thoại cho bố mình ở văn phòng.

'Con đấy à, con trai. Kể cho bố xem nào, cuộc sống gia đình thế nào?'

'Bố ơi, con bực mình lắm. Con nghĩ con lấy phải ni cô cồi.'

'Ni cô sao?' người bố hoảng hốt hỏi. 'Con ngụ ý gì?'

'À, bố biết đấy, bố, chẳng cái gì buổi sáng và chẳng cái gì buổi tối.'

'Ồ, cái đó!' người già hơn lẩm bẩm. 'Tới ăn tối thứ bẩy và bố sẽ giới thiệu con với mẹ tối cao.'

Một khi tình yêu bị thu về chỉ dâm dục, tất nhiên thế thì cái nhìn đầu tiên về tình yêu là cái nhìn cuối cùng của trí huệ. Nhưng điều đó tuỳ thuộc vào bạn: sao thu nó về dâm dục? Sao không đổi kim loại cơ sở hơn thành vàng? Sao không học giả kim thuật của yêu? Đó là điều tôi đang dạy ở đây.

Và các tu sĩ, những người chẳng biết gì về tình yêu - bởi vì họ chưa bao giờ yêu, họ đã từ bỏ thế giới của tình yêu - họ cứ làm ra các hệ thống tư tưởng lớn chống lại nó.

Bal Krishna Bharti, tình yêu là món quà lớn lao nhất của Thượng đế. Học nghệ thuật về nó đi. Học bài ca về nó, lễ hội về nó đi. Nó là nhu cầu tuyệt đối: cũng như thân thể không thể sống sót nếu thiếu thức ăn, linh hồn không thể sống sót nếu thiếu tình yêu. Tình yêu là chất nuôi dưỡng của linh hồn, nó là cái bắt đầu của mọi điều lớn lao, nó là cánh cửa của điều thiêng liêng.
Câu hỏi thứ ba:

Thưa thầy kính yêu,

Tôi biết rằng Thượng đế là tình yêu, nhưng thế thì tại sao tôi sợ ngài thế?

Ông tu sĩ đứng trước một đám đông nín lặng các dân làng chăm chú và nói với họ, 'Quí vị phải không dùng-a viên thuốc đấy.'

Một cô tiểu thư đáng yêu bước lên và nói, 'Trông đây, ông không chơi-a trò chơi, ông không làm-a ra qui tắc!'

Đây là những người không chơi trò chơi nhưng họ làm ra qui tắc. Trong nhiều thế kỉ các tu sĩ đã làm ra qui tắc. Đó là thời giáo hội trên khắp thế giới đã kết án một nguồn tiềm năng vĩ đại, thực ra là nguồn duy nhất, của năng lượng. Một khi nó bị kết án, bạn bị kết án; cả đời bạn sẽ trở thành vô nghĩa. Một khi năng lượng dục không được phép phát triển tới những chiều cao tự nhiên của nó, bạn đang sống cuộc sống khổ sở.

Sudharma, bạn không biết rằng Thượng đế là tình yêu đâu. Bạn đã nghe tôi nói đi nói lại rằng Thượng đế là tình yêu; do đó bạn đã bắt đầu lặp lại nó. Điều đó là như vẹt thôi. Tôi biết Thượng đế là tình yêu, do đó không thể nào sợ Thượng đế được. Làm sao bạn có thể sợ tình yêu được?

Sợ và yêu không thể cùng tồn tại với nhau được; sự cùng tồn tại của chúng là không thể được. Thực ra, chính là cùng một năng lượng trở thành sợ cũng trở thành yêu. Nếu nó trở thành sợ, không còn năng lượng sẵn có để thành yêu; nếu nó trở thành yêu, sợ biến mất. Nó là cùng năng lượng! Cùng năng lượng này ở trạng thái hỗn độn được gọi là sợ; và khi nó trở thành hài hoà, khi nó trong hoà hợp sâu, nó được gọi là yêu. Bạn vẫn chưa biết rằng Thượng đế là tình yêu đâu.

Bạn nói, 'Tôi biết rằng Thượng đế là tình yêu...'

Bạn đã nghe nói, nhưng bạn không biết. Đây là thông tin khi có liên quan tới bạn; nó chưa là việc biết, nó không phải là kinh nghiệm đích thực riêng của bạn. Và bao giờ cũng nhớ rằng chừng nào cái gì đó còn chưa trở thành kinh nghiệm đích thực riêng của bạn, nó sẽ không biến đổi bạn; do đó có vấn đề này.

Bạn nói, 'Tôi biết rằng Thượng đế là tình yêu, nhưng thế thì tại sao tôi sợ ngài thế?'

Bạn nhất định sợ ngài bởi vì bạn không biết rằng Thượng đế là tình yêu. Bạn đã được các tu sĩ trong hàng thế kỉ bảo bạn rằng Thượng đế thường xuyên quan sát bạn, rằng Thượng đế muốn bạn phải là thế này và không là thế kia, rằng đây là mười điều răn của Thượng đế, tuân theo chúng đi. Và nếu bạn không tuân theo chúng, Thượng đế đã chuẩn bị địa ngục lớn cho bạn. Bố đang chuẩn bị ngọn lửa địa ngục cho con của riêng mình sao? - không thể được, ngay cả để quan niệm.

Các tu sĩ đã làm Thượng đế thành xấu thế chỉ để chi phối mọi người, bởi vì mọi người có thể bị chi phối chỉ qua sợ hãi. Nhớ điều này: toàn thể bí mật thương mại của tu sĩ, của người Hin du, của người Ki tô giáo, người Mô ha mét giáo, người Jaina giáo, phật tử - triết lí của họ khác nhau nhưng bí mật thương mại của họ là một. Bí mật thương mại đó là: bao giờ cũng giữ cho mọi người sợ hãi, run rẩy. Nếu mọi người sợ hãi, họ sẵn sàng chịu phục tùng. Nếu mọi người sợ hãi, họ sẵn sàng là nô lệ. Nếu mọi người sợ hãi, họ không thể thu lấy dũng cảm để nổi dậy. Sợ hãi giữ họ bất lực; sợ hãi là quá trình tâm lí của việc thiến. Trong nhiều thế kỉ điều đó đã được làm: sợ hãi đã là vũ khí lớn nhất trong tay của tu sĩ và họ đã dùng nó rất chủ ý.

Con trai của nhà Goldbergs, Jake, từ chối coi nhà trường là chuyện nghiêm chỉnh. Nó chưa bao giờ làm bài tập về nhà và thường xuyên trốn học.

Thầy hiệu trưởng gợi ý họ nên gửi nó tới một trường Do Thái Yeshiva. Nhà Goldbergs làm điều đó, nhưng sau vài tuần nó bị đuổi ra.

Nhà Goldbergs biết rằng trường phái thiển cận Cơ đốc giáo rất chặt chẽ, cho nên họ quyết định gửi Jake tới một trường giáo xứ. Họ đăng tuyển nó vào Trường Christ-the-King dành cho con trai, và cảnh báo con họ cư xử và học bài học của mình, bởi vì đây là cơ hội cuối cùng của nó. Nếu nó muốn bị tống ra bây giờ thì nó sẽ bị gửi sang trường dành cho kẻ chểnh mảng.

Sau hai tuần ở trường giáo xứ, Jake về nhà với điểm xuất sắc. Nó đã được cải sang thành một học sinh nghiêm chỉnh, tư cách hạnh kiểm tốt một cách huyền bí.

'Làm sao con đã thay đổi được bất thần thế?' Goldberg hỏi.

'Thế này,' nó trả lời, 'khi con thấy người nào đó treo trên cây thánh giá trong mọi phòng, con đã hình dung ra tốt hơn cả là con không là đứa khôn ngoan thêm nữa.'

Làm cho mọi người sợ, giữ họ bao giờ cũng run rẩy. Để cho họ biết rằng Thượng đế là Thượng đế độc tài, rất giận dữ, ghen tị, và tuyệt đối không thể nào tha thứ nếu bạn không vâng lời. Không vâng lời là tội lỗi lớn nhất trong mắt của tu sĩ; do đó Adam và Eve mới bị đuổi ra. Họ đã không làm gì mấy tội cả. Họ đã thực sự làm gì? Chẳng nhiều nhặn gì để mà nói, nhưng các tu sĩ đã nói về nó hàng thế kỉ. Và Thượng đế giận tới mức không chỉ

Adam và Eve bị tống ra khỏi Vườn Eden, thiên đường - cùng với họ là cả nhân loại!

Bạn khổ bởi vì Adam và Eve không vâng lời. Bạn đã không làm điều gì sai cả; bạn khổ vì tội của họ bởi vì bạn là con cháu. Tội lỗi này lớn thế - không chỉ những người này bị trừng phạt, mà trong hàng nghìn và hàng nghìn năm con cháu họ phải bị trừng phạt nữa.

Và tội lỗi thực sự là gì? Sao nhiều ồn ào về nó được dựng lên thế? Nó hồn nhiên thế, nó tự nhiên tới mức tôi không thể quan niệm nổi làm sao Adam và Eve lại có thể đã né tránh được nó. Nếu bất kì ai chịu trách nhiệm cho nó, bản thân Thượng đế chịu trách nhiệm. Có cả triệu cây trong Vườn Eden và chỉ có một cây mà Thượng đế không muốn Adam và Eve ăn ở đó - chỉ một cây, cây cấm. Và lí do tại sao nó bị cấm cũng dường như rất xấu. Lí do là: nếu bạn ăn quả của cây tri thức, bạn sẽ trở thành giống Thượng đế và Thượng đế rất ghen tị. Nhìn vào lí do tại sao cây này bị cấm. Lí do là ở chỗ nếu bạn ăn từ cây này, từ chính cây này, cây tri thức, bạn sẽ trở thành bất tử, như các thần. Bạn sẽ biết nhiều như Thượng đế biết - và điều đó không thể tha thứ được! Cho nên Thượng đế đã bảo vệ cây đó đặc biệt riêng cho bản thân mình - ngài phải ăn từ cây tri thức chứ - và cấm Adam và Eve.

Bây giờ đây đích xác là điều mọi người bố đang làm. Ông ấy hút thuốc và ông ấy cấm trẻ con: 'Không được hút thuốc - điều này là xấu. Điều này là xấu cho con!' Nhưng bởi vì người bố trông hay thế khi hút thuốc, trẻ con trở nên bị bỏ bùa. Chúng cũng thích giống như người bố - và ông ấy trông đàn ông thế khi ông ấy phì khói từ điếu xì gà, ông ấy trông tự hào thế! Ông ấy chưa bao giờ trông tự hào thế như khi ông ấy phì khói từ điếu xì gà, nghỉ trong ghế, đọc báo. Đứa trẻ trở nên bị hấp dẫn. Khi người bố không có đó chúng cũng ngồi vào cùng chiếc ghế đó, giang rộng tờ báo ra, mặc dầu chúng không biết đọc, và bắt đầu phì khói. Và điều đó cho chúng vui vẻ lớn lao bởi vì điều đó cho chúng bản ngã lớn.

Thực ra, cấm đoán là mời gọi. Nói với trẻ con, 'Không làm cái đó!' là tìm rắc rối đấy.

Tôi thường sống cùng một gia đình. Có vấn đề: người bố là người nghiện thuốc lá, người hút liên tục - một giáo sư rất nổi tiếng ở đại học. Và ông ấy sợ: ông ấy hỏi tôi, 'Phải làm gì?'

Tôi nói, 'Làm một điều...' Ông ấy chỉ có một đứa con trai đang lớn và ông ấy sợ rằng sớm hay muộn đứa con sẽ bắt đầu hút thuốc. Tôi nói, 'Nếu ông nghe tôi, cách tốt nhất là cho cậu bé thuốc lá, tự ông đem cho nó thuốc lá và bảo nó hút thật nhiều tuỳ ý.'

Ông ấy nói, 'Ông nói gì thế? Ông có điên không hay ông đùa đấy?'

Tôi nói, 'Thế thì để điều đó cho tôi - tôi sẽ xoay xở điều đó.'

Tôi tặng cho đứa bé một điếu thuốc. Nó nói, 'Nhưng bác không hút thuốc.'

Tôi nói, 'Đó là chuyện khác - cháu đừng lo về bác. Nhưng cháu học đi! Đó là một trong những điều đẹp nhất trong cuộc sống!'

Nó lại hỏi, 'Nhưng thế thì sao bác không hút?'

Tôi nói, 'Cháu cứ bỏ bác ra khỏi điều này đi - bác không phải là người rất thông minh. Nhìn bố cháu kia! Và nếu bác ngu, cháu có định ngu không?'

Tôi gặp khó khăn lớn trong việc thuyết phục nó bởi vì câu hỏi nó cứ hỏi mãi là, 'Bác bảo cháu hút, nhưng sao bác không hút?'

Tôi nói, 'Cháu thử xem, thế rồi cháu sẽ biết!'

Thế là nó thử, và nó biết, và nó vứt điếu thuốc lá đi. Và nó nói, 'Bây giờ cháu biết tại sao bác không hút rồi. Thế sao bác cứ khăng khăng bảo cháu hút? Thế thì sao bác cứ cố gắng thuyết phục cháu? Nó buồn nôn thế, lợm giọng thế!' Nó ho nước mắt giàn dụa - và thế đấy, câu chuyện chấm dứt.

Và tôi bảo với bố nó đừng bao giờ nói với con, 'Đừng hút thuốc.'

Nhớ lấy câu chuyện cổ về Adam và Eve. Nếu tôi mà là Thượng đế tôi đã đem Adam và Eve tới cây tri thức và sẽ buộc họ phải ăn tới mức họ phải bắt đầu nôn ra, và đó sẽ là chấm dứt của toàn bộ câu chuyện. Nhưng Thượng đế đã bảo họ không được ăn từ cây này. Đó đã là lời mời - chẳng cần rắn nào cả.

Rắn là bịa thêm của tu sĩ để cho Thượng đế có thể được tránh né; trách nhiệm có thể được trút lên rắn đáng thương. Rắn đơn giản đáng thương; rắn chẳng liên quan gì tới điều đó, rắn tuyệt đối hồn nhiên. Bạn đã bao giờ thấy con rắn nào thuyết phục người đàn bà nào về cái gì không? Và tại sao rắn phải quan tâm? Nếu nó muốn ăn, chẳng ai cấm nó cả. Sao nó phải dụ dỗ Eve ăn quả của cây tri thức? Nó được gì nếu Eve và Adam trở nên thong thái? Không, rắn là bịa đặt để cho trách nhiệm có thể bị đổ lên nó.

Nhưng nếu bạn đi sâu vào câu chuyện này nó lại đơn giản: Thượng đế chịu trách nhiệm. Trước hết bạn áp đặt mệnh lệnh lên mọi người, và chính việc áp đặt đó tạo ra sự chống đối trong họ, tạo ra thôi thúc lớn để không vâng lời. Thế thì không vâng lời là tội lỗi; tội lỗi lớn nhất là không vâng lời. Và thế rồi bạn phải tạo ra địa ngục và đủ mọi loại trừng phạt, và bạn phải giữ cho mọi người sợ hãi.

Câu chuyện này được các tu sĩ bịa ra để làm con con người sợ hãi. Tu sĩ chưa bao giờ muốn con người trở nên thông minh, bởi vì người thông minh là nguy hiểm - nguy hiểm cho nguyên trạng, cho thể chế, nguy hiểm cho các quyền lợi được đầu tư. Tu sĩ muốn mọi người vẫn còn hoàn toàn dốt nát, không thông minh. Trong hàng thế kỉ họ đã không cho phép mọi người đọc kinh sách. Trong nhiều tôn giáo đàn bà vẫn không được phép.

Và vậy mà một âm mưu rất thâm hiểm vẫn diễn ra. Âm mưu này là ở chỗ tất cả các kinh sách đều viết trong các ngôn ngữ chết; không ai hiểu chúng, chỉ mỗi tu sĩ thôi. Tu sĩ vẫn còn mạnh mẽ trong hàng thế kỉ bởi vì họ là những người duy nhất biết. Kinh sách đã viết trong tiếng Phạn cổ đại, tiếng Do Thái, A rập, Hi Lạp, Latin - các ngôn ngữ cổ đại không còn được nói nữa. Thậm chí có hoài nghi rằng có vài ngôn ngữ còn chưa bao giờ được nói. Chẳng hạn, tiếng Phạn dường như là một trong những ngôn ngữ chưa bao giờ là ngôn ngữ nói. Nó bao giờ cũng là ngôn ngữ của các học giả, không của mọi người; của các bác học, không của quần chúng.

Ở Ấn Độ đã có hai ngôn ngữ: một có tên là Prakrit; prakrit nghĩa là 'tự nhiên,' cái mọi người đều nói. Và Sanskrit theo nghĩa đen là 'có học thức,' 'quí tộc,' ngôn ngữ chỉ được các học giả và các viện sĩ ở đại học nói. Tất cả các kinh sách lớn đều được viết trong tiếng Phạn.

Vấn đề bị bỏ lại cho Mahavira và Phật lần đầu tiên nói theo ngôn ngữ của mọi người - và các brahmins của Ấn Độ chưa bao giờ có khả năng tha thứ được cho hai người này về tội đó. Nói theo ngôn ngữ của mọi người nghĩa là quyền lực của tu sĩ đi đời. Nếu mọi người trở thành người biết, nếu họ biết điều được viết trong các kinh sách, họ sẽ không dễ bị lừa thế. Thực ra, bạn có thể tôn thờ Veda chỉ nếu bạn không hiểu chúng. Nếu bạn hiểu chúng, chín mươi chín phần trăm chỉ là rác rưởi. Một phần trăm là vàng ròng, chắc chắn, nhưng chín mươi chín phần trăm là rác rưởi thuần tuý. Nhưng nếu bạn không hiểu chúng, tất cả đều là vàng. Trong bóng tối, bất kì cái gì cũng có thể được trao cho bạn với lời, 'Nó là vàng đấy - tôn thờ nó đi!' Và trong hàng thế kỉ Veda đã được tôn thờ.

Các tu sĩ muốn bạn tôn thờ kinh sách, không cần hiểu chúng - bởi vì nếu bạn hiểu kinh sách, sớm hay muộn, một điều sẽ trở nên rõ ràng với bạn: rằng kinh sách này không phải là cội nguồn thực. Sớm hay muộn, bạn nhất định loạng choạng vớ phải chân lí rằng, 'Krishna đang nói từ trạng thái thiền, Christ đang nói từ trạng thái thiền. Điều ông ấy nói là phụ - từ đâu ông ấy nói ra mới là chính. Chừng nào mình chưa đạt tới trạng thái đó của tâm thức mình sẽ không có khả năng hiểu những lời này, bởi vì những lời này trong bản thân chúng là trống rỗng; nghĩa chỉ có thể tới qua kinh nghiệm.' Kinh sách đã bị cấm; nó là tội lỗi... Chỉ người brahmins, các tu sĩ, đẳng cấp cao nhất, mới được phép đọc chúng - trên toàn thế giới.

Âm mưu này vẫn tiếp tục. Những lời cầu nguyện vẫn được thực hiện trong ngôn ngữ chết, bạn không biết mình đang nói gì. Làm sao bạn có thể cảm thấy cái gì khi bạn không biết điều bạn đang nói? Làm sao điều đó bắt nguồn từ tình cảm của bạn và từ trái tim của bạn được? Lời cầu nguyện của bạn trở thành giống như đĩa hát: 'Giọng Thầy' - sự lặp lại. Và bạn hi vọng rằng bằng việc lặp lại các nghi lễ chết bạn sẽ đạt tới đâu đó. Bạn sẽ đơn giản làm phí hoài cuộc sống của mình.

Và thế rồi nỗi sợ lớn nảy sinh: 'Mình không biết mình từ đâu tới, mình là ai, mình đang đi đâu. Tất cả xung quanh đều tối tăm và tối tăm, tối tăm vô hạn, và không một ánh sáng trong cuộc sống.' Thế rồi bạn phải đi tới tu sĩ và cúi lạy ông ấy. Bạn phải hỏi xin hướng dẫn.

Đây là bí mật thương mại: giữ cho mọi người sợ. Và bạn có thể giữ cho mọi người sợ chỉ nếu bạn giữ họ dốt nát. Để cho họ vẫn còn run rẩy, thế thì họ bao giờ cũng sẽ sẵn sàng chạm chân bạn, sẵn sàng vâng lời bạn - bởi vì bạn đại diện cho Thượng đế, và không vâng lời bạn là nguy hiểm, rất nguy hiểm. Họ sẽ bị tống xuống địa ngục vĩnh viễn.

Greenberg, ăn mặc xoàng xĩnh và mang hai túi giấy, bị thanh tra hải quan chặn lại.

'Anh để cái gì trong các túi kia?' viên quan chức hỏi.

'Tôi có hai mươi nhăm nghìn đô la ở đây, số tiền tôi đem sang Israel để tặng.'

'Xì,' viên quan chức nhạo báng, 'anh trông không đáng giá một bữa ăn; làm sao anh có thể tặng hai mươi nhăm nghìn đô là cho nhà nước Israel được?'

'Thế này, ông thấy đấy, tôi có việc làm trong phòng vệ sinh của đàn ông, và khi đàn ông vào tôi nói với họ, 'Giúp cho Israel bằng không tôi sẽ cắt hòn của ông.''

'Được, vậy là anh kiếm được hai mươi nhăm nghìn đô la trong túi này, nhưng cái gì trong túi kia?' 'Một số đàn ông không muốn tặng.'

Đó là điều các tu sĩ đã từng làm: phá huỷ can đảm của bạn, phá huỷ dũng cảm của bạn, phá huỷ tự kính trọng của bạn, phá huỷ tự tin cậy của bạn.

Sudharma, bạn nói, 'Tôi biết rằng Thượng đế là tình yêu, nhưng thế rồi tại sao tôi sợ ngài thế?' Bạn vẫn bị bao quanh bởi những điều vô nghĩa mà các tu sĩ đã nhồi nhét vào đầu bạn; bạn đầy những rác rưởi đó. Phải mất thời gian để gạt bỏ nó, nó thực sự mất thời gian dài, bởi vì nó đã diễn ra nhiều thế kỉ rồi. Nó đã từng là lịch sử dài, xấu tới mức tìm ra được một người có thể thoát ra khỏi nó là hiện tượng hiếm hoi.

Toàn thể nỗ lực của tôi ở đây là để giúp bạn thoát khỏi nó. Tôi chống lại toàn thể công việc của giới tăng lữ. Tôi muốn bạn đứng mặt đối mặt với Thượng đế mà không có tu sĩ nào, không có giới tăng lữ. Thượng đế là của bạn, bạn là của Thượng đế; không có nhu cầu bất kì người trung gian nào. Chức năng của thầy không phải là trở thành người trung gian giữa bạn và Thượng đế. Chính điều ngược lại: chức năng của thầy là rút đi mọi cái chen vào giữa bạn và Thượng đế. Bản thân thầy đến điểm cuối cùng cũng rút đi; giữa bạn và Thượng đế thầy không còn đứng đó. Thầy chỉ đứng tới mức độ nào đó, trong khi các thứ khác đang được loại bỏ đi. Khi mọi thứ khác đã được bỏ đi, thầy tự bỏ bản thân mình đi; đó là điều cuối cùng thầy làm.

Và khoảnh khắc thầy loại bỏ bản thân mình, thầy không còn đứng giữa bạn và Thượng đế, đó là khoảnh khắc bạn biết rằng toàn thể sự tồn tại là tình yêu. Chính với chất liệu có tên tình yêu mà vũ trụ này được tạo nên.

Jesus nói: Thượng đế là tình yêu. Tôi nói với bạn: Tình yêu là Thượng đế. Khi Jesus nói: Thượng đế là tình yêu, có thể Thượng đế còn là nhiều thứ khác nữa; tình yêu chỉ là một thuộc tính. Khi tôi nói: Tình yêu là Thượng đế, tôi nói tình yêu là phẩm chất duy nhất. Không có gì khác trong Thượng đế ngoại trừ tình yêu; thực ra nó là cái tên khác của tình yêu. Bạn có thể vứt cái tên 'Thượng đế,' chẳng cái gì sẽ bị mất cả. Để tình yêu là Thượng đế của bạn.

Nhưng bạn sẽ phải gạt bỏ các tu sĩ. Bạn sẽ phải gạt bỏ cái gọi là tôn giáo, nhà thờ, đền chùa, nghi lễ, kinh sách của bạn. Có nhiều rác rưởi cần phải gạt bỏ đi. Đó là công việc lớn, bởi vì bạn đã được bảo rằng đây là những thứ rất quí giá. Rác rưởi đã bị áp đặt vào bạn cứ dường như nó là vàng và, bởi vì điều đó đã được nói cho bạn nhiều lần thế, bạn đã trở nên bị ước định.

Mọi người trở nên bị ước định để thấy những cái gì đó. Khi có ước định nào đó, bạn nhìn vào mọi sự qua ước định đó và nó có vẻ giống thế.

Hai người đang ngồi dưới gốc cây; một người là người Hindu giáo, người kia là người Mô ha mét giáo. Chim chóc ríu rít, lúc đó là sáng xuân đẹp. Họ cả hai lắng nghe một lúc, rồi người Hindu nói, 'Bác có nghe thấy không? Mọi chim chóc đều vang vọng âm thanh aum. Tôi có thể nghe thấy nó. Tôi đã thực hành aum từ ba mươi năm nay, và bây giờ tôi trở nên có khả năng giải mã nó rất dễ dàng. Tất cả mọi chim chóc đều vang vọng với cùng một âm thanh: âm thanh vô âm, âm thanh cổ đại của người Hindus, omkar.'

Người Mô ha mét giáo cười và ông ta nói, 'Vô nghĩa! Tôi cũng đã thực hành lời cầu nguyện của tôi. Chim chóc không nói aum đâu, chúng nói amin đấy.'

Lời cầu nguyện của người Mô ha mét giáo, lời cầu nguyện của người Ki tô giáo, đều chấm dứt với amin; người Ki tô giáo gọi nó là amen, người Mô ha mét giáo gọi nó là amin. Lời cầu nguyện của người Hindu kết thúc bằng aum. Chắc chắn có chân lí ở đâu đó, được diễn đạt bộ phận bởi cả ba từ này. Khi tâm trí trở nên tuyệt đối im lặng, âm thanh nào đó được nghe thấy. Nếu bạn là người Hindu bạn sẽ diễn giải nó là aum, nếu bạn là người Mô ha mét giáo nó là amin, nếu bạn là người Ki tô giáo nó là amen, nhưng không ai có thể nói chắc chắn nó là gì. Thực ra nó có thể được diễn giải theo nhiều cách thế - chính việc diễn giải của bạn được áp đặt lên nó.

Nếu bạn hỏi nhà huyền môn thực, người không phải là người Hindu không là người Mô ha mét giáo không là người Ki tô giáo, ông ấy sẽ nói, 'Ngồi im lặng bên cạnh ta và nghe. Không có nhu cầu diễn giải nó chút nào, bởi vì bất kì điều gì chúng ta nói về nó đều sẽ là áp đặt của chúng ta, nó sẽ là ý niệm của chúng ta được áp đặt lên âm thanh này. Nghe, nghe một cách im lặng - ta đang nghe nó, ông cũng nghe. Ta biết nó, ông sẽ biết nó. Không cần nói gì về nó cả.'

Chuyện kể, có lần điều đó xảy ra:

Nhà huyền môn vĩ đại, Farid, gặp Kabir, một nhà huyền môn vĩ đại khác. Trong hai ngày họ ngồi im lặng cùng nhau. Vâng, đôi khi họ cười, khúc khích chẳng bởi lí do nào, và đôi khi họ ôm ghì nhau và hôn, nhưng không một lời nào được nói. Gần nghìn người đã tụ tập - các đệ tử của cả hai - với sự trông đợi lớn lao rằng cái gì đó sẽ được trao đổi, và không ai muốn bỏ lỡ cơ hội lớn thế. Kabir nói điều gì đó cho Farid nhất định là cái gì đó hiếm hoi, hay Farid nói cái gì đó cho Kabir nhất định là cái gì đó chỉ được nghe thấy một lần trong cả thế kỉ.

Nhưng hai ngày trôi qua, và các đệ tử trở nên chán ngán. Và họ càng chán, các nhà huyền môn càng khúc khích và cười to và ôm ghì và hôn. Và thế rồi thời gian ra đi tới; Farid phải đi. Kabir đi ra khỏi thị trấn để tiễn biệt ông ấy, để nói lời chào tạm biệt. Họ lại ôm, họ lại khúc khích, và họ ra đi.

Các đệ tử của Farid đi theo Farid và các đệ tử của Kabir đi theo Kabir trở về nhà. Khi họ còn một mình họ hỏi, các đệ tử của Farid hỏi, 'Cái gì sai thế nhỉ? Thầy liên tục nói cho chúng tôi - điều gì đã xảy ra? Tại sao thầy đã trở nên câm? Trong hai ngày sao thầy không nói, và mọi tiếng khúc khích này là gì?'

Farid nói, 'Không cần nói gì cả, bởi vì ta nghe cùng điều ông ấy nghe, ta thấy cùng điều ông ấy thấy, cho nên phỏng có ích gì mà nói cái gì với ông ấy? Điều đó sẽ là tuyệt đối ngu xuẩn về phần ta. Khi ta có thể thấy ông ấy đang nghe cùng điều, đang thấy cùng điều, đang là cùng điều, chúng ta đang đương đầu với cùng thực tại, phỏng có ích gì mà nói nó?'

Thế rồi họ hỏi, 'Thế sao các thầy khúc khích cười?' Và ông ấy nói, 'Chúng ta khúc khích bởi vì các ông, bởi vì các ông chán thế! Chúng ta cười các ông. Các ông đã tới để nghe chúng ta nói - các ông ngu, các ông bỏ lỡ cơ hội lớn rồi. Hai thầy có đó, hoàn toàn im lặng; hai vũng năng lượng im lặng, hai cánh cửa mở đồng thời tới Thượng đế - và các ông bỏ lỡ. Và các ông muốn lời nào đó, tiếng động nào đó. Các ông có thể đã ngồi im lặng, các ông có thể đã trở thành một phần im lặng của chúng ta. Các ông có thể đã rơi vào mối quan hệ với chúng ta. Các ông đã không làm điều đó - các ông chán, các ông ngán, các ông ngáp. Và thấy các ông chúng ta khúc khích rồi, chúng ta cười vào cái loại người ngu si mà chúng ta đã tập hợp lại!'

Chẳng cái gì có thể được nói; khi bạn biết, không có cách nào để diễn đạt nó. Nhưng nếu bạn muốn diễn đạt, thế thì lời tới gần Thượng đế nhất là 'yêu'. Ngay cả điều đó cũng chỉ là xấp xỉ, nhưng rất gần. Và lời 'Thượng đế' đã trở nên bị liên kết với người sai, với khái niệm sai. Thực ra, nhiều người cảm thấy bị xúc phạm khoảnh khắc bạn thốt ra lời 'Thượng đế'. Tôi không có gắn bó với lời đó; bạn có thể vứt bỏ nó.

Nhưng nhớ yêu; tôi không thể bảo bạn vứt bỏ điều đó được, bởi vì không có yêu bạn sẽ không bao giờ đạt tới Thượng đế. Không có Thượng đế bạn vẫn có thể yêu, và Thượng đế nhất định tới dù bạn biết hay không, dù bạn tin vào Thượng đế hay không. Niềm tin không phải là yêu cầu: yêu là tuyệt đối cần thiết, cái phải có.

Sudharma, bạn đã nghe tôi nói Thượng đế là tình yêu. Kinh nghiệm điều đó đi, và thế thì mọi sợ hãi sẽ biến mất. Và bắt đầu vứt bỏ các tu sĩ và hàng thế kỉ của ước định sai. Họ đã làm cho bạn sợ.

Thực ra, tu sĩ là kẻ thù của Thượng đế, bởi vì mọi người càng sợ Thượng đế nhiều, càng ít khả năng cho họ biết Thượng đế - bởi vì sợ là bức tường, không phải là cây cầu. Tình yêu là cây cầu, không phải là bức tường. Tất nhiên, sợ giúp cho các tu sĩ sống và khai thác bạn, nhưng điều đó tước đi Thượng đế khỏi bạn. Tu sĩ đang phục vụ cho quỉ. Nếu có ai đó giống quỉ, thế thì tu sĩ đang phục vụ nó; họ không phục vụ Thượng đế.

Đó là lí do tại sao có nhiều tôn giáo thế, vậy mà thế gian vẫn còn phi tôn giáo, hoàn toàn phi tôn giáo; nhiều đền chùa và nhiều nhà thờ tu viện hồi giáo thế, và vậy mà bạn không thấy hương thơm của tôn giáo. Bạn không thấy khuôn mặt mọi người đầy duyên dáng, mắt họ đầy im lặng, chân họ nhảy múa, cuộc sống của họ biểu lộ rằng Thượng đế hiện hữu. Họ có thể nói rằng họ tin vào Thượng đế, nhưng cuộc sống của họ nói điều gì đó khác, hoàn toàn khác. Cuộc sống của họ chỉ ra tính phi tôn giáo tuyệt đối; không chân thực, không đích thực, không chân thành, ghét, giận, tham - chẳng có gì của lời cầu nguyện, chẳng có gì của tình yêu, chẳng có gì của từ bi, chẳng có gì của tính thiền.

Sudharma, thiền đi, yêu đi - và quên các tu sĩ đi, tống họ ra khỏi bản thể bạn. Bạn đang chịu đựng khó chịu đấy.

Câu hỏi thứ tư:

Thưa thầy kính yêu,

Định nghĩa về người bi quan là gì?

Shivananda, người bi quan là người lạc quan đã trở nên bị thất vọng bởi việc lạc quan của mình. Người đó đã hi vọng quá nhiều và đã thất bại, người đó mơ quá nhiều và đã không thể đạt tới được cái gì bản chất.

Người bi quan là người lạc quan đứng lộn ngược; họ không phải là những anh chàng khác nhau - đó là điều tôi muốn làm rõ ràng cho bạn. Chừng nào bạn còn chưa là người lạc quan bạn không bao giờ có thể là người bi quan được. Trước hết bạn phải trở thành người lạc quan.

Và từng đứa trẻ đều được nuôi dưỡng lớn lên với lạc quan lớn lao. Mọi bố mẹ đều nghĩ rằng họ có những đứa con vĩ đại. Hỏi bất kì người mẹ nào mà xem: cô ấy nghĩ cô ấy có đứa con duy nhất; cao siêu, hiếm hoi, vô song nhất. Từng người mẹ đều ba hoa về đứa con. Bố mẹ nuôi lớn con cái với lạc quan lớn rằng chúng sẽ là Alexander Đại Đế hay Jesus Christs hay Phật Gautam.

Nhưng dần dần, dần dần cuộc sống chứng tỏ chính điều ngược lại. Dần dần, đứa trẻ trở nên nhận biết về cái bình thường của nó. Nó trở nên nhận biết rằng những giấc mơ lớn này, rằng những tham vọng lớn này, không thể được hoàn thành. Và vào lúc người ta tiến gần hơn tới bốn mươi, bốn hai, bi quan bắt đầu lắng đọng - u ám, tăm tối...

Bây giờ y học nhận biết rằng phần lớn cơn đau tim xảy ra ở độ tuổi quãng bốn mươi cho tới bốn tư, giữa bốn năm này. Phần lớn mọi người đều phát điên giữa bốn năm này, bốn mươi tới bốn tư. Các nhà tâm lí, nhà phân tâm, đều nhận biết rằng đó là thời gian nguy hiểm nhất. Nếu bạn có thể vẫn còn lành mạnh sau bốn mươi tư, điều đó nghĩa là bạn sẽ vẫn còn lành mạnh. Nhưng nhiều người thất bại hoàn toàn.

Và đừng cho rằng nếu bạn lành mạnh ngay cả sau bốn mươi tư... điều đó không có nghĩa là bạn rất thông minh. Điều đó có thể chỉ là việc bạn rất đờ đẫn và phải mất thời gian lâu cho bạn hiểu. Điều đó có thể chỉ là bạn rất không nhạy cảm. Điều đó có thể chỉ là bạn liều lĩnh dại dột, rằng bạn không lắng nghe cuộc sống, điều cuộc sống đang nói, rằng bạn cứ hi vọng.

Nhưng sớm hay muộn, người ta bắt đầu cảm thấy rằng cuộc sống đang mòn mỏi đi. Lạc quan lên men và trở thành bi quan. Lạc quan, cái hi vọng đó, biến thành lộn ngược; vô vọng lắng đọng lại. Thế thì mọi thứ có vẻ tăm tối và buồn nản. Ban đầu bạn quen đếm hoa hồng, bây giờ bạn bắt đầu đếm gai. Ban đầu bạn quen nói, 'Đoá hoa hồng này đẹp làm sao và kì diệu làm sao! Nó mọc trong cả nghìn gai.' Bạn là nhà thơ, bạn có cảm giác thẩm mĩ nào đó; bạn vẫn tin rằng cuộc sống sẽ là việc hoàn thành.

Nhưng chẳng mấy chốc một ngày sẽ tới khi hoa hồng bắt đầu tàn phai và bạn bắt đầu đếm gai, và bạn không thể tin được vào hoa hồng thêm nữa. Bạn bắt đầu nói, 'Điều đó là không thể được! Hoa hồng phải là mơ thôi, hoa hồng phải là maya, ảo tưởng, ảo giác. Làm sao nó là có thể có trong số hàng nghìn gai, làm sao hoa hồng có thể có được?' Điều đó có vẻ mâu thuẫn, nó có vẻ phi logic, nó không thể xảy ra được theo bản chất của mọi sự. Bạn bắt đầu đếm đêm; trước đây, bạn thường đếm ngày.

Người lạc quan nói, 'Có hai ngày, và giữa hai ngày chỉ là một đêm nhỏ để nghỉ.' Còn người bi quan đếm đêm; người đó nói, 'Có hai đêm dài - ác mộng, những giấc mơ xấu, hành hạ - và chỉ một ngày nhỏ chen vào giữa hai đêm này.' Cuộc sống vẫn thế: bạn có thể đếm ngày hoặc bạn có thể đếm đêm. Nếu bạn đếm ngày bạn là người lạc quan, nếu bạn đếm đêm bạn là người bi quan, nhưng thực sự không có khác biệt.

Người lạc quan có thể trở thành người bi quan, người bi quan có thể trở thành người lạc quan. Họ không phải là trái ngược; họ là hai điểm của cùng một phổ.

Người ta phải vượt ra ngoài cả hai, Shivananda này. Sannyasin phải vượt ra ngoài cả hai - không hi vọng không vô vọng. Không cần đếm ngày, không cần đếm đêm. Là người quan sát đi! Không cần đếm gai, không cần đếm hoa hồng. Là người quan sát...

Tôi không dạy bạn lạc quan. Ở phương Tây ngày nay điều đó rất thời thượng; nó được gọi là 'tư duy tích cực.' Đó là cái tên mới cho lạc quan; cái tên cũ đã trở nên hơi quá lạc mốt, lạc hậu rồi. Cái tên mới là tư duy tích cực. Tôi không dạy bạn tư duy tích cực, bởi vì tư duy tích cực mang tiêu cực trong việc thức của nó.

Tôi dạy bạn siêu việt - không tích cực không tiêu cực. Là người quan sát: chứng kiến cả hai. Khi có ngày, chứng kiến ngày, và khi có đêm, chứng kiến đêm - và không bị đồng nhất với cái nào. Bạn không là ngày không là đêm; bạn là tâm thức siêu việt. Trở nên ngày một định tâm hơn vào trong siêu việt đó đi.

Tôn giáo thực không tích cực, không tiêu cực. Nó không thông qua phủ định không qua khẳng định; nó là qua siêu việt.

Một sáng tháng chín sau Ngày Lao động, Levin và Ostrow gặp gỡ ăn trưa. Họ đã không gặp nhau trong vài tháng rồi.

'Tớ vừa sống qua một mùa hè tớ chưa bao giờ nghĩ tới tớ sẽ thấy,' Levin nói. 'Tháng sáu là thảm hoạ - tớ chưa bao giờ thấy tháng sáu nào như thế. Khi tháng bẩy tới, tớ nhận ra rằng tháng sáu tuyệt vời, bởi vì với tháng bẩy tớ đi ngay vào hầm rượu. Tháng bẩy cũng tệ thế...'

'Ơn trời!' Ostrow ngắt lời. 'Sao cậu tới tớ với những chuyện tầm thường nhỏ mọn này? Cậu muốn nghe rắc rối thực không? Tớ có đấy. Hôm qua con trai duy nhất của tớ về nhà, bảo tới nó sẽ cưới thằng cha khác. Con trai tớ là đồng dục! Cái gì còn có thể tồi tệ hơn điều đó?'

'Tớ sẽ bảo cậu,' Levin nói, 'Tháng tám!'

Đợi đấy! Có những người liên tục tìm cái tiêu cực - và nếu bạn tìm cái tiêu cực bạn sẽ tìm thấy nó, bởi vì cái tiêu cực có đó theo cùng tỉ lệ như cái tích cực. Nếu bạn tìm cái tích cực, bạn sẽ thấy cái tích cực. Nhưng bằng việc tìm thấy cái tích cực bạn không thể phá huỷ được cái tiêu cực; cái tiêu cực có đó, bên cạnh. Chúng bao giờ cũng cùng nhau như các cực âm và dương của điện. Bạn không thể có điện với một cực được, bạn sẽ cần cả hai.

Cuộc sống cần cả hai: gai và hoa hồng, ngày và đêm, hạnh phúc/bất hạnh, sinh/tử.

Là nhân chứng cho tất cả nó và bạn sẽ biết cái gì đó ở bên ngoài sinh, bên ngoài tử; cái gì đó ở bên ngoài hạnh phúc, bên ngoài bất hạnh. Phật đã gọi nó là an bình, niết bàn.

Câu hỏi cuối cùng:

Thưa thầy kính yêu,

Tôi không thể tin cậy được vào bất kì ai. Sao vậy?

Sargam, tôi sẽ kể cho bạn một câu chuyện. Thiền về nó đi.

Cậu thanh niên được thuê rủ cô con gái trẻ nhất nhà trong gia đình nông dân đi vào vựa cỏ khô cùng anh ta. Cô ta quay lại và kể cho chị mình, 'Này, cậu được thuê ấy chắc chắn biết thủ thuật tốt!'

Cô chị đi vào vựa cỏ khô nữa, và quay lại nói cùng điều đó, tiếp đó là bà mẹ, và cuối cùng bản thân người nông dân, người đã nghe vợ mình nhận xét rằng, 'Cậu được thuê ấy chắc chắn biết thủ thuật nào đó.'

Khi cậu thanh niên thấy người nông dân tới, cậu ta nhanh trí và bắt đầu làm trò nhào lộn và leo dây trên tường kho thóc. Người nông dân quan sát anh ta rồi quay lại kể cho cả đám vợ và con gái, 'Chắc là mọi người nói đúng. Cậu thanh niên đó chắc chắn biết trò lạ lùng nào đó.'

'Trời!' vợ và con gái kêu ré lên. 'Nó đéo cả bố nữa à?'

Sargam, thiền về nó đi. Nếu bạn không thể tin cậy được vào bất kì ai điều đó nghĩa là bạn phải lừa dối người khác. Đó không phải là vấn đề của người khác, đó là vấn đề của bạn. Ban phải đang lừa dối, và nếu bạn đang lừa dối, làm sao bạn có thể tin cậy được? Bạn chỉ có thể tin cậy nếu bạn cho phép người khác tin cậy bạn.

Bị lừa còn tốt hơn là đi lừa, bởi vì nếu bạn lừa, bạn đánh mất kho báu vĩ đại nhất của cuộc sống mình: bạn đánh mất năng lực tin cậy. Và để tôi nhắc lại: năng lực tin cậy là kho báu lớn nhất của cuộc sống, bởi vì không có nó tình yêu là không thể mà lời cầu nguyện cũng không thể, Thượng đế cũng không thể có được.

Đủ cho hôm nay.



Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Đứa trẻ nổi loạn - Osho

Tự truyện - Cuộc đời luận sư Osho