Chương 06: Sùng kính vô ham muốn

Mưa rào không mây
Showering without clouds
Osho
 
Chương 06: Sùng kính vô ham muốn


Câu hỏi thứ nhất:

Phật nhấn mạnh vào trống rỗng tuyệt đối và Shankara nhấn mạnh vào tràn đầy tuyệt đối. Và cả hai đều có logic và lập luận vững chắc để hỗ trợ cho quan điểm của họ. Họ đã biết tới chân lí, tới điều thiêng liêng, vậy sao họ bác bẻ lẫn nhau và tạo ra hỗ trợ cho cách thức riêng của họ? Và ở đây thầy ủng hộ cả hai đồng thời! Tại sao điều này là vậy?

Phật nhận ra điều thiêng liêng trong trống rỗng tuyệt đối, shunya. Ông ấy có thể chỉ cho người khác duy nhất cùng con đường mà ông ấy đã biết. Ông ấy chỉ có thể đưa bạn trên con đường mà ông ấy đã bước qua. Sẽ nguy hiểm nếu đưa bạn đi trên con đường mà ông ấy chưa bước qua; thế thì việc hướng dẫn bạn là không thể được đối với ông ấy. Không phải là Phật không biết rằng bạn có thể đạt tới qua con đường khác nữa. Nhưng ngay cả việc nói rằng có con đường khác mà cũng dẫn tới cùng chỗ làm lung lay niềm tin của bạn vào con đường này. Họ đã phải bác bẻ con đường của nhau chỉ là vì từ bi đối với bạn, bởi vì bạn đã lẫn lộn đến thế. Lẫn lộn của bạn là ở chỗ bạn không thể nào quyết định được; tính không quyết định được là căn bệnh của bạn.

Nếu Phật nói rằng bạn có thể biết tới điều thiêng liêng qua trống rỗng và bạn cũng có thể biết nó qua tràn đầy, rằng bạn có thể đạt tới từ phương đông và cũng từ phương tây, thế thì điều này sẽ làm bổ sung thêm tính không quyết định được vào trạng thái lẫn lộn của bạn.

Cho nên Phật nhấn mạnh rằng bạn có thể đạt tới chỉ qua trống rỗng tuyệt đối. Và khi ông ấy nói rằng bạn không thể đạt tới qua tràn đầy tuyệt đối, qua purna, điều đó đơn giản nghĩa là bạn có thể đạt tới qua trống rỗng tuyệt đối. Ông ấy không nói gì về tràn đầy tuyệt đối cả. Ông ấy đang nói với người nghe, 'Tôi không muốn làm tăng lẫn lộn của ông. Ông đã đi lạc quá xa rồi.'

Ông ấy nhấn mạnh rằng con đường của ông ấy là con đường duy nhất, rằng con đường khác là sai bởi vì chừng nào bạn còn chưa rõ ràng rằng con đường khác là sai bạn sẽ không thể toàn bộ trên con đường của ông ấy.

Đó là lí do tại sao người đã chứng ngộ thường phải chối bỏ nhiều điều mà họ không muốn chối bỏ. Họ phải làm điều đó chỉ là vì từ bi của họ đối với những người dốt nát. Nhưng người dốt nát là dốt nát - người đó thậm chí sẽ hiểu sai từ bi của bạn.

Phật đã nói rằng bạn chỉ có thể biết tới chân lí qua trống rỗng: để làm điều này chìm sâu vào trong tim bạn, ông ấy đã nói rằng bạn sẽ không thể nào biết được chân lí qua tràn đầy. Bạn đã nghe nói rằng bạn không thể biết được qua tràn đầy cho nên sẽ vô ích mà đi qua tràn đầy. Còn khi có liên quan tới việc biết điều thiêng liêng qua trống rỗng, khi bạn không thể biết được nó qua tràn đầy, thế thì làm sao bạn có thể biết nó qua trống rỗng? Dường như là Phật dốt nát bởi vì ông ấy tranh biện, ông ấy bác bẻ, ông ấy dùng logic. Dường như là Phật đã đi lạc lối: ông ấy nói rằng chỉ ông ấy đúng còn mọi người khác đều sai. Đây là điều người dốt nát biết. Điều Phật đang nói là xuất phát từ từ bi của ông ấy, người dốt nát nghe qua vô ý thức của mình. Có một câu chuyện rất cổ:Jesus chạy qua một nông trại. Thấy ông ấy chạy, người chủ trại hỏi ông ấy, 'Ông đi đâu đấy? Ông chạy cứ như sư tử hay hổ đang đuổi ông mà không có ai cả. Không ai dường như đuổi theo ông cả!'

Nhưng Jesus chạy nhanh đến mức ông ấy không thể dừng cho dù để trả lời. Thế là người này đuổi theo ông ấy. Không mấy chốc ông ta đuổi kịp ông ấy và nói, 'Ông nghe đây, sao ông chạy? Ai đuổi ông? Sao ông sợ thế? Mà tôi biết ông - ông là hương thơm của trái đất này! Ai sẽ làm hại ông? Ông đã đem mắt tới cho người mù, ông đã đem tai tới cho người điếc. Tôi nghe nói rằng ông đã làm chim chui ra từ đất và cho chúng cuộc sống và rằng chúng đã bay lên trời; rằng ông đã gọi người chết dậy từ nấm mồ và họ đã sống lại. Ông sợ gì? Ông chạy trốn ai? Hay là điều tôi đã nghe là không đúng?'

Jesus nói, 'Không, điều ông đã nghe là đúng cả. Tôi là một người mà chỉ một cử động cũng đủ làm cho người mù bắt đầu thấy, chỉ thở cũng làm cho người điếc nghe được, người tạo ra cuộc sống thậm chí từ cục đất và biến nó thành chim bay trên trời. Tôi là người gọi người chết sống lại. Nhưng xin đừng dừng tôi lại! Để tôi đi!'

Người này hỏi, 'Nếu ông là cùng người thế thì tại sao ông chạy đi? Ông chạy khỏi ai?'

Jesus nói, 'Kẻ ngốc đang săn đuổi tôi. Tôi đang chạy trốn khỏi anh ta!'

Người nông dân bắt đầu cười. Anh ta nói, 'Ông có thể đem mắt cho người mù, tai cho người điếc, cuộc sống cho trái đất, ông có thể làm sống lại người đã chết - thế thì sao quyền năng của ông không thể có tác dụng với kẻ ngốc?'

Jesus nói, 'Nó không bao giờ có tác dụng cả. Tôi đã cố gắng đủ mọi cách mà không tác dụng gì. Không có cách nào cả. Tôi làm điều này, nó biến thành điều khác. Tôi muốn điều này và kết quả là cái gì đó khác.'

Thế là người nông dân hỏi, 'Xin ông nói cho tôi một điều nữa, thế thì tôi sẽ không dừng ông lại: ông đã thành công với người mù, với người điếc - không lẽ kẻ ngốc ở trạng thái tồi tệ hơn người điếc sao? Quyền năng của ông không có tác dụng lên anh ta sao?'

Jesus nói, 'Có một lí do: người mù muốn mắt được chữa cho nên ân huệ của tôi có tác dụng; người điếc muốn tai được chữa và người chết cũng muốn được sống; đất cũng yêu cầu rằng nó được trao cho cuộc sống. Cho nên bất kì điều gì tôi làm, họ đều hợp tác với điều đó. Kẻ ngốc nghĩ rằng anh ta đã biết hết cho nên anh ta không sẵn sàng đi ra khỏi cái xuẩn ngốc của mình.'

Không chỉ có Jesus đang chạy trốn khỏi kẻ ngốc đâu - Phật cũng chạy trốn khỏi họ đấy, Shankara cũng chạy trốn khỏi họ.

Phật nói bắt nguồn từ từ bi bao la của ông ấy rằng bạn sẽ có thể biết tới chân lí chỉ qua trống rỗng tuyệt đối. Nhưng bạn có thể đã nghe ông ấy qua bản ngã của bạn và nghĩ rằng Phật cũng là con người bản ngã: ông ấy nói rằng chỉ con đường của ông ấy mới là đúng và ông ấy nói rằng các con đường khác đều sai.

Phật không nói rằng con đường khác là sai. Ông ấy đơn giản nói, 'Những người hiểu sẽ biết rằng ta đã bước trên con đường này. Ta đã biết qua con đường này và ông cũng có thể biết. Và tâm trí ông lẫn lộn đến mức nếu ta nói rằng ông có thể biết qua cả hai con đường thế thì ông sẽ không bước chút nào nữa, ông sẽ cứ còn ngồi ở ngã ba đường. Ông sẽ nói, 'Trước hết mình phải quyết định mình sẽ đạt tới theo con đường nào và chỉ thế thì bước đi mới đúng. Bằng không mình có thể bắt đầu trên con đường sai và đi lạc mãi.'

Phật đã giải thích, nhưng bạn đã không nghe. Một nghìn hay một nghìn năm trăm năm sau Phật, Shankara xuất hiện. Phật đã nói rằng bạn sẽ biết chân lí qua trống rỗng và Shankara có thể thấy rằng rất ít người nghe ông ấy mà biết tới chân lí. Ông ta đã thấy rằng nhiều người đã nghe Phật nhưng không thể hiểu nổi chân lí, cho nên họ đã không kinh nghiệm chân lí. Ngược lại, họ trở nên vướng mắc vào những thảo luận vô nghĩa về trống rỗng, họ đã tạo ra một 'giáo' về nó. Họ đã không sống cuộc sống của bầu trời bên trong trống rỗng mà Sahajo gọi là, 'Ngủ trong bầu trời bên trong trống rỗng.' Họ đã không tạo ra một cuộc sống như vậy nơi người ta ngủ trong trống rỗng, thức dậy trong trống rỗng, di chuyển trong trống rỗng. Thay vì thế, họ đã tạo ra kinh sách về trống rỗng. Họ trở thành những người hư vô, họ đã sẵn sàng bác bẻ mọi người. Không biến đổi nào xảy ra trong cuộc sống của họ nhưng họ trở nên rất thiện nghệ trong việc bác bẻ suy nghĩ của người khác.

Cho nên cần phải thay đổi dòng suối: Shankara nói rằng bạn có thể biết tới chân lí chỉ qua tràn đầy, rằng bạn sẽ trở nên mất tăm qua trống rỗng. Và Shankara đã nói điều này với cùng sự kiên quyết như khi Phật đã nói rằng bạn có thể đạt tới chỉ qua trống rỗng. Shankara chối bỏ trống rỗng cũng như Phật chối bỏ tràn đầy. Và Shankara nói, 'Purna brahman - thực tại tối thượng là tràn đầy, là cái toàn thể.' Ông ấy đã nói đó là cách duy nhất - nhưng những người biết chân lí cũng nói rằng Shankara chỉ là một dạng cải trang của Phật mà thôi.

Nhưng người biết chân lí đều nói rằng Shankara bao giờ cũng nói cùng một điều như Phật đã nói; ông ấy chỉ thay đổi từ ngữ. Nếu bạn thấy định nghĩa của Shankara về tính tràn đầy, bạn sẽ ngạc nhiên - nó cũng chính là định nghĩa của Phật về trống rỗng. Trống rỗng là gì? Vô hình dạng, vô thuộc tính, vô thuỷ, vô chung - đây là định nghĩa của Phật về trống rỗng. Tràn đầy là gì, brahman là gì? Vô hình dạng, vô thuộc tính, vô thuỷ, và vô chung - đây là định nghĩa của Shankara về tràn đầy. Chỉ có từ thay đổi mà thôi.

Và từ cũng bị thay đổi bởi vì quá nhiều bụi bặm đã đọng quanh từ 'trống rỗng' đến mức bản thân từ này đã trở thành nhơ bẩn. Khi Phật dùng từ 'trống rỗng' nó đã được dùng lần đầu tiên. Trước ông ấy 'tràn đầy' thường được dùng và nó đã trở thành nhàm chán. Nhiều người đã thảo luận về nó đến mức không nghĩa nào còn trong nó, không có cuộc sống trong nó, không lời vẫy gọi trong nó, không lời mời gợi lên từ nó - nó đã trở thành một từ kinh viện.

Bất kì khi nào một từ trở thành kinh viện, nó nằm đó như tảng đá, như chướng ngại trên con đường tìm kiếm tâm linh; nó không thể nào là một bước tiến thêm nữa. Thế thì các học giả bắt đầu nghĩ về nó và các hiền nhân loại bỏ nó.

Cho nên Phật đã loại bỏ 'tràn đầy' của Veda và Upanishad. Những người biết chân lí đều nói rằng không ai là hiền nhân của Veda và Upanishad vĩ đại hơn Phật, toàn bộ cái tinh tuý của Upanishad đều ở trong Phật. Nhưng ông ấy đã loại bỏ từ 'tràn đầy', ông ấy đã loại bỏ từ 'brahman' - ông ấy dùng 'trống rỗng'. Ông ấy đã loại bỏ cách diễn đạt khẳng định và lấy cách diễn đạt phủ định. Ông ấy chối bỏ cái khẳng định và chấp nhận cái phủ định. Cho tới lúc đó sự tồn tại đã được định nghĩa là ngày, bây giờ Phật định nghĩa nó là đêm. Nó đã từng được định nghĩa là sáng, bây giờ Phật định nghĩa nó là tối. Nó đã được định nghĩa là sống, nay Phật định nghĩa nó là chết, là niết bàn.

Chết và đêm có tính tồn tại và thiêng liêng như sống và ngày vậy.

Cách diễn đạt cũ về chân lí bản thân nó đã cạn kiệt; bây giờ nó chỉ như khói trong không khí - chỉ từ ngữ và biện luận còn lại. Một cách diễn đạt mới nào đó là cần thiết. Sự tồn tại đang đi tìm những từ mới có thể làm lay động con tim của những người vẫn còn chưa bị các học giả động chạm tới, có thể kêu gọi những người còn hồn nhiên, thuần khiết và tự nhiên. Phật đã phát minh ra từ 'trống rỗng', shunya; nó là một từ có ý nghĩa.

Nghĩ một chút đi... Phật và Mahavira đã sinh ra gần đồng thời, nhưng ảnh hưởng của Phật lan xa và rộng. Điều đó đã không xảy ra cho Mahavira. Giáo huấn của Phật liên tục lan rộng trên khắp thế giới, những con sóng của nó đạt tới những xó xỉnh xa xôi nhất của trái đất. Giáo huấn của Mahavira vẫn còn đóng khung trong một vùng nhỏ, nó chỉ có thể lan trong vài người - mặc dầu cả hai là thiên tài như nhau. Cả hai có cùng kinh nghiệm, cả hai đều rất có khả năng, cả hai đều là người trí huệ nhất trong số những người trí huệ, người nọ không kém gì người kia - vậy tại sao giáo huấn của Mahavira không lan xa và rộng?

Có một lí do: Mahavira đã dùng những từ cổ, đã lạc hậu. Ông ấy đã mô tả sự tồn tại với cùng những từ cũ và nhàm chán, atma, linh hồn. Phật nói anatma, không hiện hữu hay không linh hồn. Nó đánh trúng vào tình cảm người ta. Mahavira nói, 'Việc biết atma của bạn - linh hồn bạn, hiện hữu của bạn là biết chân lí. Đây là chứng ngộ.' Phật nói, 'Linh hồn sao? Hiện hữu sao? Đây là dốt nát. Không hiện hữu, không linh hồn - trở thành trống rỗng, biến mất là biết chân lí, là đã chứng ngộ.'

Họ là đồng đại, nhưng Phật đã nêu một định nghĩa mới cho sự tồn tại, nghĩa mới; ông ấy đã đem đến cái mới và nó đã có tác dụng. Nó động chạm tới những trái tim hồn nhiên.

Giáo huấn của Mahavira bị các học giả chặn và nó chết. Mọi người nói, 'Được, nhưng ông ấy chỉ nói cùng điều đã được nói.' Nhưng họ phải nghĩ về các phát biểu của Phật.

Vào quãng mười lăm thế kỉ sau Phật, mạng lưới kinh sách bao la đã phát sinh quanh ông ấy đến nỗi nó còn vượt xa điều trước đây đã xảy ra cho Upanishad và Veda. Nhiều quan điểm triết học khác nhau đã nảy sinh quanh Phật mà chưa từng xảy ra trước đây về bất kì một người nào khác trong lịch sử loài người. Nhiều kinh sách đã được viết ra và người ta nói rằng nếu mọi kinh sách của mọi tôn giáo được dồn lại, chúng chắc ít hơn về số lượng so với tất cả những kinh sách Phật giáo. Rất nhiều nghiên cứu đã được tiến hành trong một nghìn năm trăm năm ấy, nó đã trở thành gần như một trận lụt.

Điều thường xảy ra là bất kì khi nào chân lí được diễn đạt theo một cách mới, một trận hồng thuỷ lớn phát sinh ngay theo đó. Có những người ủng hộ và những người chống đối, có những người bạn và có những kẻ thù, có những người mà kinh sách cũ của họ bị huỷ đi và có những người xây dựng kinh sách mới.

Những từ cũ bị hủy đi, từ mới được sinh ra; có nhiều suy luận và phủ nhận trong một nghìn năm trăm năm. Vào lúc Shankara tới ảnh hưởng của Phật đã ở khắp mọi nơi.

Nhưng thế rồi cùng một số phận đã xảy ra cho kinh sách của Phật như đã xảy ra cho Upanishad và Veda. Kinh sách của Phật chết, chúng trở thành lối mòn nhiều người dẫm qua. Chúng trở thành đơn thuần uyên bác mà chỉ đáng cho thảo luận trong các đại học. Bây giờ không có cuộc sống trong chúng nữa, chúng không còn có ích ngay cả cho người tìm kiếm - nói gì tới người đã thức tỉnh? Chỉ các phân tích trí tuệ mới trở thành quan trọng.

Thế là Shankara thay đổi chiều hướng của trận hồng thuỷ. Shankara nói rằng chân lí không phải là trống rỗng tuyệt đối, nó là tràn đầy tuyệt đối, nó là brahman.

Sau lỗ hổng một nghìn năm trăm năm từ 'tràn đầy' này quay với một sự tươi tắn, Upanishad nhận được cuộc sống mới và Veda nổi lên trong ánh sáng. Shankara đã thiết lập tất cả những gì Phật đã phá huỷ.

Và bạn sẽ ngạc nhiên rằng cả hai đều làm cùng một việc. Phật không phá huỷ Upanishad mà Shankara cũng không cứu chúng. Phật đang cứu chính cái tinh tuý, chính linh hồn của Upanishad, còn Shankara cũng làm cùng việc đó. Điều họ phá huỷ chỉ là cái vỏ bên ngoài bởi vì nó đã trở nên nhơ bẩn.

Cũng hệt như là khi bạn muốn mặc quần áo mới cho một đứa trẻ và nó không sẵn sàng bỏ quần áo cũ. Nó nói, 'Con thấy gắn bó với chúng. Con thích cái áo này lắm. Con không muốn mặc áo mới.' Nhưng bạn biết rằng áo đã bẩn: 'Nó cũ rồi, nó thủng đây này - cởi ra thôi.' Đứa trẻ nghĩ rằng có lẽ bạn chỉ muốn nó ở trần. Làm sao mà nó có thể chạy quanh cởi trần trong nóng bức, mặt trời và lạnh lẽo? Sao bạn cứ bám theo quần áo của nó? Nó thích quần áo ấy, nó mặc chúng thường xuyên. Nhưng một khi bạn đã thay quần áo cho nó, thế thì nó trở nên hạnh phúc rằng nó có quần áo mới. Bước đi của nó thay đổi, bây giờ nó bước đi với vui sướng - nhưng sau một năm cùng điều ấy xảy ra. Những quần áo này lại trở thành cũ rích, thế thì đến lúc thay đổi chúng.

Người tỉnh thức không chống ai cả - họ không thể thế - bởi vì trong tỉnh thức của họ, kinh nghiệm của họ là về cái một tuyệt đối. Cho nên không có chuyện Shankara chống Phật mà cũng không có chuyện Phật chống Shankara. Cả hai đều nói cùng một điều, chỉ cách diễn đạt của họ là khác nhau.

Và bạn nói rằng tôi ủng hộ cả hai. Điều này đúng. Điều này đáng hỏi, điều này tuyệt đối có liên quan. Bây giờ thậm chí khác biệt giữa hai người này cũng đã trở thành vô nghĩa. Bây giờ đã hai nghìn năm trăm năm sau Phật và một nghìn năm sau Shankara: bây giờ khác biệt giữa hai người đã trở thành nhàm chán. Bây giờ trao đổi giữa họ nên nhận được sự bắt đầu mới. Bây giờ cần ai đó người nói rằng không có khác biệt, rằng cả hai đều nói cùng một điều.

Cho nên tôi ủng hộ cả trống rỗng và tràn đầy. Bây giờ đây là cách diễn đạt thứ ba, nhưng nội dung cũng vẫn thế thôi. Tôi đang nói cùng điều mà Phật đã nói, tôi đang nói cùng điều mà Shankara đã nói, nhưng khác biệt là ở chỗ tôi xa hơn hai mươi nhăm thế kỉ.

Bây giờ chân lí sẽ mang nghĩa mới, cách diễn đạt mới. Bây giờ cùng bài ca ấy phải được hát với giọng mới. Cùng giai điệu ấy phải được chơi trên nhạc cụ mới.

Nhạc cụ của Shankara đã thành cũ rồi. Nhạc cụ của Phật đã thành cũ rồi. Bây giờ nếu bạn nói về trống rỗng nó cũ rích và nếu bạn nói về tràn đầy, nó cũng cũ rích nốt. Chỉ điều thiêng liêng, sự tồn tại bao giờ cũng mới bởi vì nó là vĩnh hằng. Cái vĩnh hằng bao giờ cũng mới. Bây giờ một giọng mới... Cho nên tôi nói rằng cái trống rỗng của Shankara hay cái tràn đầy của Phật hay cái trống rỗng của Phật hay cái tràn đầy của Shankara, nó là bài ca của cùng cái một vĩnh hằng.

Do đó Sahajo mới hấp dẫn tôi. Cô ấy nói:

Khi ngủ người ta trong bầu trời trống rỗng của điều thiêng liêng;

Khi tỉnh, người ta nhớ tới điều thiêng liêng.

Đêm là của Thượng đế, ngày là của Thượng đế. Chúng ta ngủ trong điều thiêng, chúng ta thức dậy trong điều thiêng liêng. Đấy là bóng tối của ban đêm, đấy là ánh sáng của ban ngày - và cả hai đều vinh quang. Chính cái sợ của bạn, thái độ một phần của bạn làm cho bạn nói rằng Thượng đế giống như ánh sáng; đấy là bởi vì bạn sợ bóng tối. Thượng đế cũng là bóng tối nữa. Và khi bạn trở nên im lặng thế thì bạn sẽ thấy rằng bóng tối có vinh quang riêng của nó. Bóng tối có cái đẹp riêng của nó; không ánh sáng nào có thể sánh được với nó. Bóng tối có an bình riêng của nó, bóng tối có niềm vui riêng của nó; không có vấn đề so sánh. Uống ánh sáng và bóng tối nữa, bởi vì cả hai đều thiêng liêng. Cả hai bờ dòng sông đều thiêng liêng. Đừng coi sông Hằng của điều thiêng liêng là bị giới hạn bởi đôi bờ của nó. Thấy nó đang tuôn chảy tự do, không bị giới hạn đi.

Cho nên tôi nói với bạn rằng cả Shankara và Phật đều sẽ đưa bạn tới bờ bên kia. Nếu bạn để cho con thuyền của mình đi vào dòng sông từ bờ của Phật, bạn sẽ đạt tới bờ bên kia. Còn nếu bạn để cho con thuyền của mình đi vào dòng sông từ bờ của Shankara, bạn cũng sẽ đạt tới bờ bên kia. Thức dậy thêm một chút đi - toàn bộ sông Hằng đều là điều thiêng liêng. Mohammed là một bến xuất phát, Jesus là một bến khác, Zarathustra là một bến khác. Và bạn có thể tạo ra nhiều bến xuất phát bởi vì sông Hằng của điều thiêng liêng thật bao la. Chỉ có vài bến là được xây dựng sẵn, các bến khác còn ít được xây dựng, nhưng chúng cũng sẽ đưa bạn tới bờ bên kia.

Sahajo, Kabir, Dadu - tất cả những người này đều là các bến ít được xây dựng, chân đế của họ mới được dựng còn thô sơ. Không có đá cẩm thạch, không có đá quí tại đó. Họ không giống như các ghat, bến xuất phát tại Kashi; họ là những bến thuyền rất thô sơ trong rừng rậm - nhưng cho dù bạn có để con thuyền của mình đi vào dòng sông từ đó, bạn vẫn sẽ đạt tới bờ bên kia.

Bất kì khi nào có một bến xuất phát, bạn đều có thể đi từ đó sang bờ bên kia, và thậm chí nơi không có bến, bạn vẫn có thể đi sang bờ bên kia. Nếu bạn đang tìm kiếm một chỗ rất văn hoá để xuất phát, thế thì có bến của Phật và bến của Shankara - chúng là những bến đẹp, rất có học thức, có văn hoá. Nỗi sợ trượt chân sẽ ít. Chúng đã được xây dựng bằng đá. Cũng còn có bến của Sahajo. Nó không được lát bậc bằng đá, bạn có thể bị trượt chân ở đó, bạn sẽ thấy bùn ở đó. Nhưng có một loại niềm vui khác khi bạn để con thuyền của bạn đi vào sông từ các bờ gập ghềnh đó.

Tại những bến xuất phát đã được xây dựng kĩ có một lệ thường đã đặt ra: có các tu sĩ, có hướng dẫn; có nhiều ồn ào và hỗn loạn. Tại những bến tầu còn kém được xây dựng, không có ai, bạn chỉ một mình. Bạn phải đi vào con thuyền với sự tin cậy vào bàn tay của riêng bạn. Không có hướng dẫn, không có cố vấn, không ai cho bạn la bàn. Cũng có khả năng bị lạc ở đó. Nhưng xúc động của việc đạt tới cũng trở nên lớn hơn.

Tôi nói rằng toàn bộ sông Hằng đều thiêng liêng. Bây giờ nó sẽ là bài ca mới. Và cố hiểu rằng tôi đang nói cùng điều như Phật, tôi đang nói cùng điều như Shankara; thậm chí không có khác biệt nhỏ nhặt nhất.

Nhưng vẫn có khác biệt trong ngôn từ bởi vì sự quan tâm của mọi người có thay đổi, cách thức hiểu biết của mọi người có thay đổi, tâm trí tập thể thay đổi - đó là lí do.

Và Shankara không bác bẻ Phật. Làm sao Shankara bác bẻ Phật được? - toàn bộ con người của Shankara đều ủng hộ Phật. Tại cốt lõi sâu thẳm nhất Shankara đang cúi mình trước Phật.

Làm sao Phật có thể bác bẻ Shankara được? Làm sao Phật có thể bác bẻ Veda và Upanishad được? - mặc dầu mọi học giả đều nói rằng ông ấy chống Veda! Học giả mù quáng; mà không chỉ có mù đâu, ông ta còn ngu nữa bởi vì ngay đến mắt người mù cũng còn có thể mở ra, nhưng không thuốc thang nào có thể có tác dụng cho người ngu. Người ngu là người có ý tưởng rằng người đó biết nhưng mà thực tế không biết gì cả. Người đó thậm chí không sẵn sàng vứt bỏ ngu si của mình đi.

Đây là bệnh duy nhất trên thế giới này, ngu si, khi mà người ốm không sẵn sàng vứt bỏ nó đi mà bảo vệ nó. Đó là lí do tại sao mọi bệnh đều chữa được chỉ trừ mỗi bệnh ngu si. Jesus nói đúng, “Tôi đang chạy trốn khỏi kẻ ngốc - đừng chặn tôi lại, nó đang theo sát tôi đây!” Mọi phép mầu đều thất bại khi dính tới kẻ ngốc.
Câu hỏi thứ hai:

Con đường của Sahajo là yêu, sùng kính, buông xuôi và tôn thờ thầy. Vậy sao cô ấy nhấn mạnh vào hướng nội, đi vào trong và không gắn bó?

Nhấn mạnh đó là hoàn toàn đúng. Bạn đang gặp khó khăn bởi vì bạn nghĩ về tất cả những điều này mà không kinh nghiệm nó. Bởi vì việc nghĩ mà bạn bao giờ cũng thấy những điều mâu thuẫn. Mâu thuẫn được tạo ra bởi việc nghĩ. Không có mâu thuẫn trong vô ý nghĩ.

Khi tôi bảo bạn rằng một con đường là yêu và một con đường là thiền, bạn bắt đầu thấy mâu thuẫn. Bây giờ nếu ai đó nói về thiền, bạn sẽ nói rằng anh ta chống lại yêu. Nếu ai đó nói về yêu, bạn sẽ nói rằng anh ta chống lại thiền. Đã bao nhiêu lần bạn được nghe nói rồi? - yêu là tên của cùng kinh nghiệm xảy ra trong thiền. Không có khác biệt nhỏ nhặt nào giữa yêu và thiền. Cho dù nếu có bất kì khác biệt nào, đấy cũng không phải là giữa yêu và thiền, đấy là giữa các con đường để đạt tới yêu và thiền.

Người này tới đây bằng đi bộ, người khác tới bằng đi xe đạp, người nữa đi xe ô tô, người này đã chạy tới, người kia bước đi chậm rãi; ai đó tới một mình, người khác đi cùng ai đó khác. Nhưng có thành vấn đề gì không khi bạn tới nơi? Bạn đã tới đây, bạn đang ở cùng tôi. Sau khi tới đây mọi chi tiết về việc liệu bạn tới bằng đi bộ hay đi xe đạp, một mình hay cùng bạn bè, đều trở thành không liên quan nữa. Không cần phải đặt vấn đề đó nữa. Bây giờ bạn sẽ không nói rằng tôi không thể ngồi gần người này bởi vì anh ta đã đi xe đạp tới còn tôi đi bộ tới. Bây giờ bạn quên tất cả về nó. Có thể là trên đường bạn phải đương đầu với một số khó khăn, vì thấy ai đó đi xe đạp bạn có chút ít ghen tị bởi vì bạn phải đi bộ. Thấy ai đó đi qua trong ô tô, bắn toé nước bùn lên đường, bạn có thể có chút ít cáu giận anh ta, thù hằn nào đó có thể đã nảy sinh...

Tôi đã nghe:

Một người lái xe dừng xe hỏi một nông dân, “Con đường này dẫn đến đâu vậy?”

Người nông dân nói, “Ông đi hỏi người khác ấy!”

Người lái xe hỏi anh ta, “Này người anh em, sao anh không bảo chúng tôi một câu?”

Anh ta nói, “Chúng tôi đi bộ, ông hỏi ai đó đang đi xe ấy. Sao tôi phải nói cho ông? Chúng tôi đi chân. Con đường của chúng tôi khác: chúng tôi đi bộ còn ông đi xe. Tôi có việc gì với ông đâu? Đi mà hỏi người khác ấy.”

Có lẽ trên đường bạn đã từng phải đương đầu với những khó khăn nào đó, nhưng khi bạn đã tới nơi, khi bạn đã đạt tới mục đích, không còn cả người lái xe lẫn người đi xe đạp nữa. Thế thì tất cả đều xuống xe, mọi xe cộ đều bị bỏ đằng sau.

Thiền là phương tiện và thiền cũng là mục đích. Yêu là phương tiện và yêu cũng là mục đích.

Xem như phương tiện, yêu và thiền là tách biệt, nhưng chúng không tách biệt nếu được xem như mục đích. Chúng là phương tiện mà cũng là mục đích nữa: bạn đạt tới bằng chúng và bạn cũng đạt tới chúng. Cho nên bao giờ cũng nhớ, khi tôi đang nói về yêu và thiền tôi chỉ đang nói từ hai góc độ khác nhau. Đôi khi khi tôi thảo luận về phương tiện, tôi nói rằng chúng là khác nhau - nhưng khi tôi nói về mục đích, tôi nói rằng chúng là một và như nhau.

Bạn nói, “Con đường của Sahajo là yêu, sùng kính, buông xuôi và tôn thờ thầy. Vậy mà sao cô ấy nhấn mạnh vào hướng nội, đi vào trong và không gắn bó?” Bởi vì không có mâu thuẫn trong đó. Nếu yêu trở thành toàn bộ thế thì nó sẽ vượt ra ngoài gắn bó. Nếu vô gắn bó trở thành toàn bộ thế thì qua nó dòng suối yêu liên tục nhất định sẽ tuôn chảy.

Không gắn bó nghĩa là gì? Không gắn bó nghĩa là một người đã vươn lên trên gắn bó. Và nghĩa của yêu là gì? - là người ta đã vươn lên trên dục.

Khi nào bạn sẽ có thể thấy bên ngoài lời? Tại sao lời che khuất cách nhìn của bạn nhiều thế?

Nghĩa của yêu là tự do khỏi gắn bó. Vô gắn bó cũng mang cùng nghĩa đó. Vô gắn bó là lời của thiền nhân và sùng kính là lời của người yêu. Đây là khó khăn duy nhất.

250

Nếu bạn hỏi Mahavira, ông ấy sẽ nói vô gắn bó; nếu bạn hỏi Meera, Sahajo, Daya, Chaitanya, họ sẽ nói yêu, sùng kính - và thế thì bạn trở nên lẫn lộn.

Buông xuôi sao? Đâu là khác biệt giữa việc đi vào bên trong và việc buông xuôi? Khi bạn buông xuôi bản thân bạn, thế thì bạn đang buông xuôi cái gì? Bạn đang buông xuôi hướng ngoại của bạn - còn gì khác nữa mà bạn có thể buông xuôi được? Còn gì khác nữa mà bạn phải đưa ra? Bạn đang buông xuôi bản ngã của bạn dưới chân thầy, thế thì cái còn là bản thể bên trong của bạn. Hướng ngoại của bạn đã mất rồi, bạn đã bỏ nó, bạn đã từ bỏ nó. Thế thì chỉ mỗi lãnh thổ của bạn là còn lại, và cái đó chính là sự tồn tại thuần khiết của bạn.

Bạn đang hỏi về việc tôn thờ thầy và cuộc hành trình vào bên trong. Thầy ở bên ngoài, nhưng thầy bên ngoài đơn giản là phương tiện để đưa bạn tới thầy bên trong. Khi bạn buông xuôi bản thân mình một cách toàn bộ dưới chân thầy bên ngoài, thế thì khi bạn mở mắt ra bạn sẽ thấy rằng thầy bên ngoài đã biến mất. Điều đó chỉ là vì bạn đã nhìn ra bên ngoài mà thầy dường như là ở bên ngoài. Bỗng nhiên bạn thấy rằng cùng giai điệu đó đang chơi ở bên trong mình. Đây không phải là người nào đó bên ngoài, mà là người nào đó đang nói bên trong.Tôi đã nghe, một fakir tới một đền thờ hồi giáo. Có lẽ ông ấy đến hơi chậm một chút, mọi người đang ra về cả. Cho nên ông ta nói, “Này người anh em, cuộc tụ tập sao kết thúc chóng thế, các anh vội gì nào? Tại sao lời cầu nguyện kết thúc sớm thế? Các anh có thể tiến hành nó chậm hơn một chút nữa, im lặng hơn một chút nữa có được không?”

Một người nói, “Ông không tự trách mình sao đến muộn thế mà trách chúng tôi. Nhà tiên tri đã hoàn thành lời cầu nguyện rồi. Bây giờ chúng tôi phải làm gì trong đền thờ?”

Khi nghe thấy rằng lời cầu nguyện đã kết thúc, nước mắt tuôn ra từ mắt ông fakir và ông ấy buông ra một tiếng thở dài sâu sắc. Những người đứng quanh đó thấy rằng đấy không phải là là một cái thở dài bình thường. Nó làm mủi lòng họ, nó dường như còn sâu sắc hơn cả lời cầu nguyện của họ. Nó không chỉ là một tiếng thở dài, mọi người cảm thấy bên trong tiếng thở dài của ông ấy còn có hương vị của trái tim khao khát của ông ấy. Cứ dường như là có làn khói bốc lên, dường như là ngọn lửa vừa mới tắt. Một người sụp xuống dưới chân ông này và nói, “Này người anh em, xin đừng buồn thế. Nếu ông cho tôi cái thở dài của ông thế thì tôi sẽ cho ông những lời cầu nguyện mà tôi đã làm. Đừng bất hạnh như thế.”

Cuộc mặc cả được ngã giá. Ông fakir cho người này cái thở dài còn người này cho ông ấy lời cầu nguyện của mình. Đến đêm người đã lấy tiếng thở dài đó đột nhiên nghe thấy trong giấc ngủ, “Anh may mắn đấy! Anh đã nhận tiếng thở dài, và không có lời cầu nguyện nào lớn lao hơn một tiếng thở dài. Anh đã lấy được ngọn lửa của niềm khát khao và chung cuộc chính ngọn lửa sáng chói này mới chứng tỏ là sự hoàn thành cuối cùng. Anh đã lấy cuộc truy tìm của người kia, anh đã lấy niềm khao khát linh hồn của người kia - hôm nay anh đã đạt tới vương quốc của cõi trời. Và sự tồn tại hạnh phúc đến mức vẫn còn có những người sẵn sàng đánh đổi lời cầu nguyện của mình lấy tiếng thở dài của người khác. Và từ niềm vui này, lời cầu nguyện của mọi người trên trái đất này đều được ban cho vào hôm nay.”

Khi khao khát sâu sắc về điều thiêng liêng nảy sinh bên trong bạn, thế thì bạn không đi tìm điều tối thượng ở bên ngoài nữa: bạn sẽ thấy nó ẩn trong chính khao khát của bạn. Bản thân khao khát trở thành lời cầu nguyện. Khi một tiếng thở dài sâu sắc nảy sinh bên trong bạn thế thì bạn sẽ thấy toàn bộ cái tinh tuý của sự tồn tại ẩn dưới chính cái thở dài này.

Khi bạn cúi đầu trước thầy, bạn đang buông xuôi cái gì? Bạn đang buông xuôi cái nhìn và thói quen nhìn ra bên ngoài của bạn - cái hướng ngoại của bạn, bản ngã bạn. Và khi bạn đứng dậy sau khi cúi xuống, và nếu bạn đã thực sự cúi xuống, thế thì bạn sẽ thấy thầy đã biến mất từ bên ngoài và thầy đang ở bên trong bạn. Bây giờ bạn sẽ bắt đầu liên tục nghe thấy tiếng thầy ở bên trong, nó sẽ trở thành tiếng đàn veena bên trong của bạn. Cho nên thầy bên ngoài chỉ là nhạc cụ để đánh thức thầy bên trong bạn. Nếu bạn trở nên buông xuôi, thế thì thầy bên ngoài trở thành một với thầy bên trong.

Ai là thầy vậy? Thầy là người mà qua người đó bạn đã có thoáng nhìn về thực tại tối thượng của bạn. Thầy là người mà bạn khao khát được như vậy. Bản thể bên trong nhất của bạn có khao khát rằng bạn cần phải là người như vậy. Thầy là người mà qua người đó bạn đã có một thoáng nhìn, qua người đó bạn đã nghe thấy giai điệu bên trong của bạn. Bạn đã nghe thấy trong tiếng nói của người đó điều mà bạn muốn nói nhưng bạn chưa bao giờ có thể nói ra được. Và bạn đã tìm thấy trong cái động chạm kì diệu của tay thầy điều mà bạn muốn cái động chạm của tay mình phải như thế. Bạn nhìn vào bên trong mắt thầy và thấy điều bạn muốn mắt mình phải như thế. Người mà qua đó bạn đã thấy ra bản thân bạn, bạn đã tìm ra định mệnh riêng của mình - người đó là thầy.

Cho nên nhớ lấy, thầy của bạn không nhất thiết là thầy của mọi người. Thầy là một kinh nghiệm cá nhân. Không nhất thiết là điều thích hợp cho bạn sẽ thích hợp cho mọi người. Với người này trống rỗng của Phật sẽ thích hợp, với người khác tràn đầy của Shankara sẽ thích hợp. Nhưng một điều là chắc chắn: khi bạn tìm ra thầy phù hợp với bạn, tại chính khoảnh khắc đó bạn và thầy sẽ hội nhập lại. Bạn không thể tìm thấy cả thầy và đệ tử nữa. Khi mà còn có hai người, tức là bạn còn chưa tìm thấy thầy đâu. Khi bạn gặp thầy, bỗng nhiên đệ tử biến mất - và thế thì bạn tìm thấy thầy ở bên trong chính mình.

Nếu bạn đã thấy thầy của bạn ở trong tôi, thế thì bạn sẽ sớm thấy rằng tôi đang nói bên trong bạn. Mặc dầu tôi đang nói bên ngoài đây, bạn vẫn sẽ thấy rằng tôi đang nói điều mà không được nói ở bên trong bạn. Tôi đang đánh thức điều đang ngủ trong bạn. Bạn sẽ đột nhiên cảm thấy rằng bạn có thể đã thấy điều này bên trong bạn nhưng bạn đã không có cách nào tìm ra nó. Tôi đã chỉ cho bạn điều mà bạn đã từng thấy bên trong bạn nếu bạn có con mắt trong trẻo. Tôi không dậy bạn điều gì đó mới, tôi chỉ đơn giản nhắc bạn về điều gì đó mà bạn đã quên khuấy mất. Đây là công việc duy nhất của thầy.

Cho nên đừng hỏi tại sao Sahajo nói về tôn thờ thầy và thế rồi bắt đầu nói về cuộc hành trình nội tâm. Nếu việc tôn thờ thầy đã xảy ra thế thì cuộc hành trình bên trong đã bắt đầu rồi, bởi vì thực tại thầy là ở bên trong. Đó là lí do tại sao người Hindu đã từng hát: Thầy là Brahma - đấng sáng tạo. Thầy là Vishnu - đấng bảo tồn. Thầy là Mahesha - đấng huỷ diệt. Thầy là điều tối thượng, thầy là cái đích, thầy là điều thiêng liêng.

Cho nên Sahajo nói, “Tôi có thể bỏ Thượng đế, nhưng tôi sẽ không bỏ thầy tôi” - bởi vì Thượng đế là cuốn sách đóng kín và chính thầy đã mở nó ra. Thượng đế đã bị giấu kín bên trong, nhưng ai sẽ đánh thức cô ấy dậy, ai đã thông báo cho cô ấy?

Chính thầy là người đã thức tỉnh bạn và làm cho bạn nhận biết. Thầy đang trả bạn về với cái ta của bạn. Đó là lí do tại sao nó là cuộc hành trình nội tâm.

Đừng trở nên bị vướng víu vào từ ngữ như sùng kính và thiền. Đừng bị vướng vào từ ngữ chút nào. Người ta phải tỉnh dậy từ lời, người ta phải kinh nghiệm cái vô lời. Cho nên bạn có thể dùng lời, nhưng đừng tạo ra xiềng xích từ chúng. Và bao giờ cũng nhớ rằng trong thế giới của tôn giáo, lời dường như có vẻ mâu thuẫn trong thực tế không mâu thuẫn, chúng là phần bù cho nhau.

Nếu yêu tiến triển tốt, nếu sùng kính tiến triển tốt, thiền sẽ là việc đạt được. Nếu thiền tiến triển tốt, thành amadhi, trạng thái siêu tâm thức, thế thì tình yêu và sự sùng kính sẽ được đạt tới. Chúng là hai mặt của cùng một đồng tiền.
Câu hỏi thứ ba:

Hôm qua thầy nói rằng nếu bạn biết là bạn mãn nguyện, rằng bạn hạnh phúc, thế thì biết rằng còn chưa có mãn nguyện và hạnh phúc. Sahajo bản thân cô ấy là hiền nhân, vậy làm sao cô ấy có thể nói rằng hiền nhân một mình là phúc lạc?

Điều này phải được hiểu. Chắc chắn tôi đã nói rằng nếu dường như là bạn mãn nguyện, thế thì biết rằng theo cách nào đó này khác, khổ vẫn còn bên trong bạn. Bằng không, làm sao bạn biết được rằng bạn mãn nguyện, làm sao bạn nhận ra được sự mãn nguyện? Để đo điều đó, cần phải có cái đối lập. Nếu chỉ có một đòn cân trên cân, làm sao bạn có thể cân được cái gì? Bạn cần một đòn cân ở phía bên kia nữa, ở cả hai bên.

Cho nên khi bạn cảm thấy rằng bạn mãn nguyện thế thì bạn có thể chắc chắn rằng không mãn nguyện vẫn còn hiện diện đâu đó bên trong. Bởi việc so sánh bạn cảm thấy rằng bạn mãn nguyện. Khi mãn nguyện tối thượng tới thế thì bạn không biết rằng bạn không mãn nguyện và bạn không biết rằng bạn mãn nguyện. Vâng, nếu ai đó hỏi thế thì đấy là vấn đề khác, nhưng bạn không nhận biết về nó. Nếu ai đó hỏi, “Bạn có mãn nguyện không?” thế thì bạn sẽ nói, “Chắc chắn!” Nếu không ai hỏi, “Bạn có mãn nguyện không?” thế thì ở bên trong bạn ý tưởng này về mãn nguyện sẽ không có đó. Không có lí do, không có mục đích cho ý tưởng này có đó.

Nhưng thế thì một câu hỏi nảy sinh, “Sahajo bản thân cô ấy là một hiền nhân, vậy làm sao cô ấy có thể nói rằng hiền nhân một mình là phúc lạc?” Thế thì Sahajo không đúng là một hiền nhân hay sao?

Không, có khác biệt tinh tế trong phát biểu của Sahajo. Sahajo không nói, “Sahajo nói, tôi đang phúc lạc đây.” Nếu cô ấy nói điều đó theo cách đó, thế thì điều đó sẽ chỉ ra rằng khổ vẫn có đó. Sahajo không nói, “Sahajo nói, tôi đang phúc lạc đây” - cô ấy không nói điều này chút nào. Sahajo đơn giản đưa ra một định nghĩa, cô ấy không nói điều gì về bản thân cô ấy. Cô ấy nói, “Xem kìa, mặt trời đã mọc, buổi sáng đấy; xem chim đang hót kìa.” Cô ấy không nói gì về bản thân cô ấy, cô ấy đang đưa ra một phát biểu về sự kiện.

Sahajo nói: Hiền nhân một mình phúc lạc - cô ấy đơn giản nói rằng hiền nhân là phúc lạc. Và định nghĩa này về phúc lạc là hệt như điều tôi đã nói với bạn - rằng bạn thậm chí không nhận biết về nó. Sahajo chỉ nói rằng hiền nhân là phúc lạc; đấy chỉ là một mô tả về hiền nhân. Trong đó không có phát biểu nào về bản thân cô ấy cả; không có phát biểu về bất kì ai khác cả. Trong đó chỉ có thông tin về một luật tự nhiên - rằng hiền nhân là phúc lạc và tất cả những người khác sống trong khổ.

Nếu ai đó khổ thế thì bạn biết rằng người đó không phải là hiền nhân. Và tôi bảo bạn rằng người ta phúc lạc chỉ nếu người ta thậm chí không biết rằng mình khổ hay phúc lạc nữa. Chỉ người đã vượt ra ngoài cả khổ lẫn phúc lạc mới phúc lạc. Chỉ người ấy mới là hiền nhân.

Mới vài ngày trước đây một đàn bà tới tôi. Cô ấy bảo tôi rằng cô ấy rất bất hạnh vì chồng cô ấy, rằng anh ta là kẻ ngoại tình, rằng anh ta không có tính cách nào cả.

Tôi nói với cô ấy, “Nếu anh ta không có tính cách, thế thì cứ để cho anh ta bất hạnh đi. Vì việc ngoại tình của anh ta sẽ làm cho anh ta bất hạnh. Nhưng tại sao bạn bất hạnh? Tôi chưa hề biết ai đó trở nên bất hạnh vì hành
vi vô đạo đức của ai đó khác. Nếu bạn bất hạnh, nguyên nhân là ở bên trong bạn. Vô đạo đức của anh ta không thể là nguyên nhân cho khổ của bạn được, vô đạo đức của anh ta có thể là nguyên nhân cho khổ của anh ta. Nhưng tôi biết chồng bạn - anh ta không bất hạnh. Anh ta có thể vô đạo đức nhưng anh ta không bất hạnh.”

Và tôi nói, “Nếu ai đó hạnh phúc cho dù là vô đạo đức, thế thì anh ta chắc chắn là đức hạnh hơn bạn - bạn không hạnh phúc cho dù bạn đạo đức. Bạn đang làm phép màu đấy! Chồng bạn cũng làm phép màu nữa - anh ta có thể vô đạo đức nhưng anh ta hạnh phúc. Bạn có thể đạo đức nhưng bạn bất hạnh. Trong đạo đức của bạn phải có vô đạo đức nào đó, và trong vô đạo đức của chồng bạn phải có đạo đức nào đó. Bằng không điều đang xảy ra không thể nào xảy ra được.”

Cho nên tôi nói, “Làm điều này thành tiêu chí: bất kì khi nào bạn bất hạnh, biết rằng có điều gì đó sai bên trong bạn, bởi vì khổ của bạn được gắn với cái nhìn sai. Bạn không bất hạnh bởi vì hành vi của chồng bạn, bạn bất hạnh bởi vì bạn mong đợi rằng chồng bạn đáng phải đạo đức. Bạn bất hạnh bởi vì bạn đang nghĩ rằng bạn đạo đức đến mức bạn đang khổ từ nỗi đau của kỉ luật của bạn và đạo đức của bạn, còn chồng bạn đang tận hưởng bản thân anh ta! Bạn cũng muốn tận hưởng. Bên trong bạn cũng muốn làm cùng điều như chồng bạn, nhưng bạn không có dũng cảm nhiều đến thế.

“Bạn buồn vì điều gì đó bên trong bạn. Nếu bạn muốn vô đạo đức thế thì vô đạo đức đi, nhưng ít nhất đừng bất hạnh. Nếu bạn muốn hạnh phúc thế thì hạnh phúc đi, nhưng đừng mang gánh nặng của việc là đạo đức.”

Hiểu biết riêng của tôi là ở chỗ nếu một người liên tục tìm kiếm phúc lạc trong cuộc sống của mình, thế thì người đó tự nhiên sẽ trở thành đạo đức - bởi vì phúc lạc không nở hoa chừng nào còn có hành vi vô đạo đức. Tôi không yêu cầu bạn phải đạo đức, tôi đang bảo bạn cứ phúc lạc đi. Từ hàng thế kỉ nay bạn đã được dạy phải đạo đức mà không có gì xảy ra cả ngoại trừ việc bạn đã trở nên khổ. Tôi bảo bạn cứ phúc lạc đi: phúc lạc là tiêu chí của tôi.

Bạn bao giờ cũng được bảo rằng nếu bạn làm những hành động đức hạnh, bạn sẽ trở nên phúc lạc. Tôi bảo bạn rằng nếu bạn phúc lạc, bạn là đức hạnh. Bạn đã được bảo rằng nếu bạn phạm tội lỗi, bạn sẽ khổ: tôi bảo bạn rằng nếu bạn khổ, bạn là kẻ tội lỗi.

Khổ là tội lỗi, phúc lạc là đức hạnh.

Và bất kì khi nào một người bắt đầu nhìn đúng, thế thì định nghĩa của Sahajo sẽ được hiểu. Sahajo không nói điều gì về bản thân mình cả. Nếu Sahajo nói điều này về bản thân mình thế thì tôi đã không nói về Sahajo làm gì, điều đó không đáng gắng sức. Nếu cô ấy mà nói, “Sahajo nói, tôi phúc lạc đây,” thế thì điều đó chỉ rõ ràng là người đàn bà này vẫn trong khổ và cô ấy đang che giấu nó, đang tưởng tượng phúc lạc, đang tự an ủi bản thân mình. Thế thì cô ấy có thể đã nói về phúc lạc nhưng bạn đã thấy khổ trên mặt cô ấy. Nhưng Sahajo không nói về bản thân mình.

Nếu bạn hiểu đúng, người phúc lạc không nói về bản thân mình, chỉ người khổ nói về bản thân mình. Bạn cũng biết điều đó. Nếu bạn gặp một người buồn, anh ta cứ nói mãi, anh ta cứ phàn nàn mãi về khổ của anh ta. Bạn đã bao giờ thấy một người cười về phúc lạc của mình chưa? Bạn thấy mọi người khóc về khổ của họ nhưng không ai cười về phúc lạc của họ. Tại sao nói về phúc lạc?

Mọi người bảo vệ phúc lạc. Kabir đã nói, “Nếu ông bắt được kim cương, để nó trong túi.” Nếu một người bắt được kim cương, anh ta cho nó vào túi và bỏ đi. Anh ta không đi quanh mà nói với đám đông rằng anh ta đã bắt được kim cương. Theo cùng cách đó, khi ai đó đạt tới phúc lạc, anh ta giấu nó và bỏ đi. Người buồn khóc lên, “Tôi bất hạnh quá!” Người khổ kêu lên bởi vì anh ta nghĩ rằng có lẽ bằng việc nói lên lời về nó, nỗi khổ sẽ trở nên bớt đi. Người phúc lạc nuôi dưỡng nó bên trong bởi vì bằng việc nuôi dưỡng nó cẩn thận, nó cứ lớn mãi lên.

Phúc lạc là hạt mầm - giấu nó ở sâu trong bạn đi, trong việc nở hoa của bạn - nó sẽ đâm chồi, nó sẽ phát triển. Nó sẽ đem quả lớn, nó sẽ cho hoa lớn.

Nếu Sahajo mà nói, “Sahajo nói, tôi đang phúc lạc đây,” thế thì tôi sẽ không nói về Sagajo đâu. Nói thế thì chỉ phí sức. Không, cô ấy không nói gì về mình cả. Cô ấy chỉ đưa ra một định nghĩa rõ ràng, khoa học: Sahajo nói rằng hiền nhân một mình phúc lạc - hiền nhân là phúc lạc, Sahajo nói như vậy.

Nếu bạn hiểu ý nghĩa sâu sắc nhất của nó, điều đó đơn giản có nghĩa là khi bạn phúc lạc, bạn là hiền nhân. Và tôi sẽ bảo bạn định nghĩa về phúc lạc: phúc lạc là khi bạn không biết về nó chút nào - bởi vì bạn chỉ biết về đau đớn, bạn chưa bao giờ biết tới mạnh khoẻ.

Khi có đau trong đầu thế thì bạn mới cảm nhận về đầu bạn. Khi không có đau trong đầu, thế thì bạn liệu có biết mình đang có đầu không? Nếu đầu bạn hoàn toàn mạnh khoẻ thế thì bạn không cảm thấy nó chút nào. Khi có chút ít nặng đầu, váng đầu, đau đầu, nhức nhối, có lo nghĩ nào đó bên trong, có khó khăn nào đó, chỉ thế thì bạn mới biết về đầu mình. ‘Đầu’ có nghĩa là ‘đau đầu’. Không có đầu ở bất kì đâu ngoại trừ trong việc đau đầu. Người không đau đầu không có đầu, người đó không có đầu chút nào. Khi thân thể bạn ốm yếu thế thì bạn biết về thân thể mình. Bạn trở nên nhận biết về hơi thở của bạn khi có trục trặc trong việc thở. Bằng không, việc thở cứ diễn ra, ai bận tâm về nó? Bạn càng mạnh khoẻ, bạn càng ít cảm thấy bản thân bạn.

Và đây là điều tôi nói với bạn, đây là tiêu chí cho cả thế giới nội tâm nữa: bạn càng nhận biết rằng bạn hiện hữu, thế thì hiểu rằng linh hồn bạn đang ốm yếu. Việc biết về ‘tôi đây’ là ốm yếu của linh hồn. Khi bạn đơn giản tồn tại mà không có tri thức gì về ‘tôi’, thế thì bản thể bạn là mạnh khoẻ. Thế thì bạn đã về nhà.

Cho nên Phật đã nói điều đó một cách đúng đắn, rằng không có linh hồn. Đây là định nghĩa về một linh hồn lành mạnh - anatta, vô linh hồn. Khi nói ‘linh hồn’ bệnh tật đã bước vào. Ông ấy nói rằng ‘tôi’ có nghĩa là linh hồn - khi bạn nhận biết về ‘tôi’ thế thì có trục trặc nào đó. Khi hoàn toàn không có nhận biết về ‘tôi’ chỉ thế thì bầu trời trống rỗng tồn tại, cái hư không.

Sahajo nói: Hiền nhân một mình phúc lạc.
Câu hỏi thứ tư:

Sahajo đã đạt tới bất nhị, cho nên cô ấy nói, “Người ta thực hành sùng kính vô ham muốn.” Câu hỏi của tôi là: Làm sao Thượng đế và người sùng kính vẫn còn tách biệt? Xin thầy giải thích điều này.

Người ta thực hành sùng kính vô ham muốn - sùng kính không có ham muốn. Vậy có hai kiểu sùng kính: một có ham muốn, một không ham muốn. ‘Có ham muốn’ nghĩa là có một yêu cầu nào đó. Vô ham muốn nghĩa là không có yêu cầu nào cả. Vô ham muốn nghĩa là phúc lạc ở bên trong bản thân việc sùng kính.

Nhảy múa, ca hát, kirtan, bhajan - đây tất cả đều là mục đích tự bản thân chúng. Bạn ca hát bởi vì có vui trong ca hát. Bạn nhảy múa bởi vì có vui trong nhảy múa. Không có phần thưởng nào khác bên ngoài bản thân việc nhảy múa. Sau khi nhảy múa bạn sẽ không chờ đợi rằng “Tôi đã nhảy múa lâu thế rồi, bây giờ trao phần thưởng cho tôi đi để tôi có thể về nhà được.”

Nhảy múa của người sùng kính không phải là nhảy múa của của vũ công chyên nghiệp - người nhảy múa và chờ đợi để được cái gì đó. Nhảy múa của người sùng kính là nhảy múa của sự tồn tại: không còn gì để mà đòi hỏi nữa. Nhảy múa là niềm vui tối thượng. Nó là sự biết ơn.

Cho nên sùng kính vô ham muốn nghĩa là bản thân sự sùng kính là niềm vui. Sùng kính có ham muốn nghĩa là sùng kính là một phương tiện để đạt tới một mục đích nào đó: nếu điều đó được đạt tới thế thì niềm vui cũng được đạt tới. Bạn không có con trai cho nên cần phải sinh ra con trai. Bạn muốn thắng kiện ở toà án; bạn không có tiền cho nên bạn muốn có tiền; bạn muốn có quyền lực, bạn muốn thắng cử - điều gì đó phải xảy ra. Vào lúc bầu cử, mọi chính khách bắt đầu đi tìm các thầy, đi xin ân huệ của ai đó. Họ tới các đền chùa, họ bắt đầu tụng kinh và cầu nguyện, họ bắt đầu tới thăm các nhà tiên tri. Tại Delhi không chính khách nào không có nhà tiên tri để nói cho ông ta liệu ông ấy thắng hay bại, ông ấy nên dùng câu mật chú nào, ông ấy nên mang vẻ duyên dáng nào, ông ấy nên đem tro hoả táng để vào đâu, ông ấy nên chạm vào chân của Sai Baba nào. Ông ấy muốn có được lời khuyên từ đâu đó. Nhưng bạn có gọi loại sùng kính này là sùng kính không? Đây chỉ là sùng kính trên danh nghĩa. Điều này chỉ là phỉ báng sùng kính. Gọi điều này là sùng kính thật là sai lầm. Sahajo nói: Người thực hành sùng kính vô ham muốn...Bất kì điều gì người ta nói cũng là lời thiêng liêng.

Người ta thực hành sùng kính vô ham muốn.

Việc nói tự bản thân nó trở thành việc tưởng nhớ tới Thượng đế. Bất kì điều gì được nói ra cũng là nhân danh Thượng đế - mọi lời đều là tưởng nhớ tới ngài. Thậm chí nếu người ta im lặng, điều đó nữa cũng là sự tưởng nhớ tới ngài. Dù bạn có nói hay không, bây giờ sùng kính đã trở thành cách sống cho bạn. Đó là phúc lạc của bạn, mở hội cuộc sống của bạn.

Bây giờ bạn phải hiều câu hỏi của bạn: “Làm sao Thượng đế và người sùng kính vẫn còn tách biệt nhau?”

Khi sùng kính vô ham nuốn xảy ra và Sahajo đã được hội nhập với điều thiêng liêng, thế thì phải sùng kính với ai? Trong sùng kính vô ham muốn, mọi yêu cầu đều biến mất. Thế thì thậm chí nói về ‘sùng kính với ai’ cũng là sai. Trong sùng kính vô ham muốn thậm chí không có Thượng đế nữa - bản thân sùng kính đã là Thượng đế rồi.

Sùng kính vô ham muốn không có nghĩa là sùng kính phải hướng tới Thượng đế hay ở dưới chân Thượng đế. Sùng kính vô ham muốn là khi bạn không còn ham muốn chút nào. Thế thì ai là người nhận và ai là người cho? Thế thì đâu là người sùng kính và đâu là Thượng đế? Bởi ham muốn của mình mà bạn mới là kẻ ăn mày và ai đó là Thượng đế. Khi bản thân ham muốn đã biến mất, thế thì đâu là Thượng đế và đâu là người sùng kính?

Người sùng kính biến mất vào cùng ngày mà ham muốn của người đó biến mất. Thế thì cả hai bờ đều biến mất và chỉ còn dòng suối tuôn chảy. Tên của dòng suối tuôn chảy đó là sùng kính.

Người yêu biến mất, người được yêu cũng biến mất - chỉ còn tình yêu. Thiền nhân biến mất, chủ thể của việc thiền biến mất - chỉ còn việc thiền. Điều bạn gọi là bất nhị không có nghĩa là người sùng kính còn hay chỉ điều thiêng liêng còn lại. Chúng cả hai đều là các bộ phận của nhị nguyên - người sùng kính và điều thiêng liêng. Cả người sùng kính lẫn điều thiêng liêng đều không còn nữa. Một cái gì đó mới đã xảy ra giữa họ, và đó là sùng kính.

Người thực hành sùng kính vô ham muốn. Bây giờ nếu bạn thấy Sahajo nhảy múa ở đâu đó, thế thì đừng có hỏi cô ấy, “Chị đang nhảy múa cho Thượng đế nào vậy?” Cô ấy sẽ nói, “Bản thân việc nhảy múa là Thượng đế rồi.” Đừng hỏi cô ấy, “Sao chị nhảy múa?” Cô ấy sẽ nói, “Tôi đã biến mất và chỉ điệu vũ là còn lại.”

Trong nhảy múa, Thượng đế biến mất từ phía bên kia và người sùng kính cũng biến mất từ phía bên này. Bây giờ sùng kính là vô ham muốn. Chừng nào cái ‘tôi’ vẫn còn, chắc chắn còn ham muốn nào đó. Khi cái ‘tôi’ biến mất, ham muốn cũng tan biến. Và nếu ham muốn hoàn toàn tắt ngấm, không có cách nào cho cái ‘tôi’ còn nữa.

Ban đầu có hai kiểu sùng kính. Sùng kính có ham muốn, không đáng được gọi là sùng kính. Sùng kính vô ham muốn có hai bước: một bước là khi người sùng kính không yêu cầu bất kì điều gì ngoại trừ Thượng đế - nhưng điều ấy cũng là một ham muốn. Người sùng kính nói, “Tôi không cần tiền lẫn quyền - tôi chỉ cần ngài.” Bây giờ ham muốn đã trở thành thuần khiết hoàn toàn. Không một vẩn gợn nào còn trong ham muốn này, nhưng ham muốn vẫn cứ là ham muốn.

Tôi đã nghe nói rằng một quân vương ra đi tham gia chinh chiến. Khi ông ta trở về sau khi chinh phục nhiều nước và đem về vô số của cải, ông ta báo tin về nhà. Ông ta có một trăm vợ cho nên ông ấy gửi một thông điệp về hỏi xem ông ta cần đem gì về cho mọi bà vợ? - “để cho mọi người bầy tỏ ham muốn của mình.”

Người này xin đồ châu báu, người kia xin thứ gì đó, người nọ xin thứ khác. Đàn bà khác nhau có những sở thích khác nhau. Nhưng một vương phi nói, “Xin bệ hạ quay về. Thiếp không cần gì khác, xin bệ hạ về nhà sớm.”

Chắc chắn là ông ta đã đem về bất kì những gì các vương phi yêu cầu. Nhưng vương phi này đã trở nên rất thân thiết với ông ta bởi vì bà ấy không yêu cầu điều gì cả. Bà ấy chỉ yêu cầu mỗi ông ta. Tình yêu của bà ấy thuần khiết hơn tình yêu của những người khác, nhưng bà ấy vẫn yêu cầu một cái gì đó.

Thậm chí cái điều nhiều nhặn này - yêu cầu Thượng đế - mà còn lại, thế thì người sùng kính sẽ vẫn không biến mất. Một ngọn lửa thuần khiết nhất sẽ bắt đầu bùng cháy giữa họ, sẽ có thuần khiết lớn giữa người sùng kính và Thượng đế, nhưng cả hai sẽ vẫn còn. Họ sẽ không hoàn toàn tan chảy và biến mất.

Nhưng khi người sùng kính không đòi hỏi thậm chí đến sự nhiều nhặn này bởi vì người sùng kính biết không có gì để đòi hỏi cả, điều thiêng liêng đã có sẵn rồi. “Tôi đã đòi hỏi được ngài và đó là sai lầm duy nhất. Tôi không thể tìm thấy ngài bởi vì tôi đang đòi hỏi và ngài đã có ở đây rồi.” Cái ngày mà lòng biết ơn nảy sinh, vào ngày đó không có người sùng kính lẫn Thượng đế. Vào ngày đó điều thiêng liêng nhảy múa bên trong người sùng kính. Vào ngày đó người sùng kính và Thượng đế cả hai cùng biến mất trong việc nhảy múa. Bất kì điều gì người ta nói cũng là lời thiêng liêng.

Kabir đã nói, “Uthun baithun parikrama” - Mọi hành động của tôi đều đã trở thành sự tôn kính của tôi. Bây giờ tôi không tới đền đài làm bất kì lễ tôn thờ nào. Việc tôi ngồi, việc tôi đứng bản thân nó đã là sự tôn kính rồi. Trạng thái như thế là trạng thái cuối cùng. Trạng thái như thế là phúc lạc tối thượng.
Câu hỏi thứ năm:

Xin thầy giải thích khác biệt giữa yêu hướng dục và dục hướng yêu.

Yêu hướng dục là việc bước xuống thang, dục hướng yêu là việc bước lên thang. Cái thang vẫn thế nhưng khác biệt là ở hướng. Khi bạn yêu ai đó bởi vì bạn muốn thoả mãn ham muốn nào đó, thèm khát nào đó qua người đó, thế thì yêu chỉ là cái cớ, lừa dối; nó không thực. Bạn tập trung vào ham muốn.

Ramakrishna đã nói rằng con diều hâu bay trên trời nhưng mắt nó tập trung vào đống rác; mắt nó đang lục tìm chuột chết trong đống rác. Đừng nghĩ rằng chỉ bởi việc nhìn diều hâu đang bay, rằng nó đang bay rất cao. Dù nó có thể bay cao đến đâu, chú ý của nó vẫn chỉ vào cái tầm thường.

Yêu hướng dục giống như diều hâu bay trên trời - mắt nó vẫn đang dõi tìm chuột chết. Nó đang tiến hành chuẩn bị để cho bất kì khi nào nó gặp cơ hội nó sẽ vồ lấy con chuột đó.

Ramakrishna đã nói: Một hôm tôi đã thấy một con diều hâu bắt được một con chuột. Nhiều con diều hâu khác tấn công nó. Con diều hâu này cố gắng thoát theo đủ mọi cách, nhưng không có lối thoát. Nó bị thương; trong khi đánh nhau, con chuột rơi ra khỏi mồm nó. Ngay khi con chuột rơi ra, các con diều hâu khác liền bay đi bỏ nó một mình. Chúng lao theo con chuột, bây giờ chúng không quan tâm gì đến con diều hâu này nữa. Cho nên bây giờ con diều hâu này có thể nghỉ trên cây.

Ramakrishna đã nói rằng đây là tình huống của người đã vứt bỏ đam mê và đang nghỉ ngơi trong yêu. Thế thì không ai săn đuổi người đó cả, thế thì không có cạnh tranh, thế thì không có tranh đấu.

Có cạnh tranh trong ham muốn, không có cạnh tranh trong yêu. Ngay khi bạn bắt đầu vươn lên trong yêu thế thì chú ý của bạn không còn vào những điều tầm thường nữa. Các bước vẫn thế, bạn đang vươn lên trên cùng các bậc của chiếc thang, bạn đang đi lên. Trên cùng bậc thang ấy người khác đang đi xuống, và bậc thang là như nhau. Điều này cũng là có thể.

Giả sử bạn đang đứng ở bậc thứ ba của chiếc thang và người khác cũng đang đứng trên bậc thứ ba này, nhưng hướng đi của các bạn không giống nhau bởi vì người kia đang đi xuống và bạn đi lên. Các bạn đang đứng trên cùng một bậc, không có khác biệt, nhưng chiều hướng khác biệt. Và có khác biệt lớn giữa hai người, bởi vì một người đang nhìn lên. Với người này dục sẽ biến đổi thành yêu, yêu sẽ trưởng thành từ bi. Bạn không có ý tưởng gì về từ bi của bạn chút nào. Yêu của bạn cũng chỉ là mang danh thế, nó cũng đang cố trở thành dục. Nó đang đi xuống.

Dục nhấn chìm yêu và yêu cứu dục.

Và nhớ lấy, yêu phải là ưu tiên đầu tiên trong cuộc sống của bạn. Cho dù dục bước vào, nó phải là một phần của yêu của bạn. Trong cuộc sống của bạn, cho dù có mối quan hệ thể xác với ai đó nó cũng chỉ nên là sự phản ánh của mối quan hệ của linh hồn bạn, không ít hơn thế.

Nếu có quan hệ giữa các linh hồn thế thì thậm chí quan hệ thể xác trở thành thiêng liêng - điều này theo sau như cái bóng. Nếu quan hệ thể xác là mọi thứ trong cuộc sống của bạn, và quan hệ linh hồn chỉ là cái bóng của của quan hệ thể xác này, thế thì mối quan hệ linh hồn cũng trở thành rởm. Nó cũng trở thành bẩn thỉu và không thiêng liêng.

Nhớ lấy, chiều hướng là quan trọng. Đồng hành với cái cao thượng, cái cao thượng tới ngay cả với cái thấp kém. Đồng hành với cái thấp kém, ngay cả cái cao thượng cũng bắt đầu thay đổi. Bao giờ cũng nhớ rằng cái thấp kém của bạn là để được hấp thu vào trong vòng ảnh hưởng của cái cao thượng của bạn, chứ không phải là phẩm chất cao hơn của bạn phải bị hấp thu vào trong phẩm chất thấp kém hơn. Phạm vi của các phẩm chất cao hơn của bạn phải đủ bao la để bao hàm những phẩm chất thấp hơn của bạn.

Bạn đã bao giờ để ý rằng nếu bạn đem chiếc vòng kim cương cho kẻ ăn mày, không ai sẽ nhìn vào cái vòng của anh ta, mọi người sẽ nghĩ rằng đấy phải là một mảnh thuỷ tinh đó sao? Còn nếu bạn đem cho người giầu có, hoàng đế, một chiếc vòng nạm mảnh thuỷ tinh, thế thì hàng nghìn người sẽ nhìn vào chiếc vòng này bởi vì họ nghĩ rằng nó phải là viên kim cương lớn, viên Kohinoor. Với hoàng đế mảnh thuỷ tinh cũng trở thành Kohinoor, với kẻ ăn mày ngay cả viên Kohinoor trở thành mảnh thuỷ tinh.

Nó là vậy. Với yêu, dục cũng trở thành Kohinoor; với dục, yêu cũng trở thành mảnh thuỷ tinh.

Bạn phải trở nên nhận biết về sự nhấn mạnh này, chiều hướng này. Điều bạn làm không quan trọng, nhưng toàn bộ hoàn cảnh của nó quan trọng. Phẩm chất của mọi hành động của bạn là kết quả của phẩm chất chính của cuộc sống của bạn. Điều bạn làm không quan trọng, điều bạn hiện hữu mới quan trọng.

Có một câu chuyện Sufi cổ.

Một hoàng đế đi qua khu rừng và bị lạc đường. Khi ông ta thấy một người đang ngủ dưới gốc cây, ông ta trở nên hạnh phúc rằng có lẽ bây giờ mình sẽ được chỉ cho con đường. Nhưng khi ông ta đi tới người này ông ta thấy rằng mồn người này há hốc - một số người hay ngủ há mồm - và một con rắn đang bò vào trong mồm anh ta. Hoàng đế chỉ thấy cái đuôi rắn. Ông ta giơ roi ra và bắt đầu đánh người này. Người này đột nhiên tỉnh dậy - anh ta không thể nào hiểu nổi! Anh ta bắt đầu kêu la khóc lóc, “Ông làm cái gì thế này? Sao ông đánh tôi? Tôi có làm điều gì sai sót với ai đâu? Lạy trời! Người này độc ác làm sao. Ông ta hung bạo thế, ông ta ngồi trên ngựa, ông ta mạnh tới mức tôi không thể nào đánh được.”

Hoàng đế buộc anh ta phải ăn quả thối rữa nằm la liệt trên mặt đất. Ông ta vẫn không dừng, ông ta cứ ra roi đánh người này một cách thậm tệ. Người này khóc lóc và ăn quả, và quả thối rữa và bốc mùi kinh tởm. Hoàng đế quất roi vào anh ta thật nhiều và buộc anh ta ăn thật nhiều quả thối rữa đến mức anh ta phải nôn ra và bất tỉnh. Khi anh ta nôn ra con rắn cũng chui ra cùng đống mửa.

Khi người này thấy con rắn anh ta không thể nào hiểu nổi điều gì đã xảy ra. Thế rồi cúi người xuống dưới chân hoàng đế anh ta nói, “Chính nhờ từ bi lớn lao của ngài mà ngài đã ra roi đánh tôi, ngài đã buộc tôi ăn quả thối rữa này, ngài đã làm cho thân thể tôi chảy máu. Đấy là điều rất may mắn cho tôi. Thượng đế đã phái ngài tới đúng lúc bằng không tôi đã chết. Nhưng tôi muốn nói một điều: nếu như ngài nói trước rằng tôi đã ăn rắn, rằng tôi đã nuốt rắn hay rằng một con rắn đã chui vào trong mồm tôi, thế thì tôi chắc không xúc phạm ngài và nguyền rủa ngài.”

Hoàng đế nói, “Nếu mà ta nói với anh, thế thì sẽ không thể nào lấy con rắn ra được. Anh sẽ chết vì sợ. Nhưng với việc ta đánh anh không chết. Nếu ta bảo anh rằng anh đã nuốt một con rắn, thế thì ta sẽ không thể nào làm cho anh ăn quả thối rữa được; anh sẽ trở nên vô ý thức và sẽ không thể nào cứu anh được. Cho nên ta phải dằn mình để khỏi nói với anh và thay vào đó là đánh anh. Việc làm cho anh nôn ra trở thành mối quan tâm chủ yếu của ta. Ta phải dừng mọi lo nghĩ về anh bởi vì nếu bằng cách nào đó ta có thể làm cho anh nôn ra, rắn sẽ bị tống ra.”Dựa trên câu chuyện cổ này, người Sufi có một câu ngạn ngữ. Bạn có thể đã nghe câu ngạn ngữ này rồi mặc dầu bạn chưa hề nghe câu chuyện này trước đó.

Câu ngạn ngữ đó là: Kẻ thù thông minh là tốt hơn người bạn đần độn.

Kẻ thù biết xét đoán là tốt hơn người bạn đần độn. Hoàng đế này là người biết xét đoán. Ông ấy dường như là một kẻ thù bởi vì ông ấy bạo hành, ông ấy đánh người này và làm cho anh ta chảy máu - nhưng ông ấy thông minh. Ngay cả bạo hành của ông ấy cũng đem kết quả tốt. Nếu một người bạn đần độn ở đó, tính mạng người ngủ này đã nguy rồi. Vấn đề thực sự không phải là ở tình bạn hay thù địch, vấn đề thực sự là ở thông minh.

Tôi nói với bạn rằng trong hoàn cảnh thông minh bao la hơn, thậm chí thù hằn cũng trở nên có ý nghĩa, quí giá, có giá trị. Nếu dục đi cùng với yêu, thế thì dục nữa có thể trở thành phương cách để đạt tới siêu tâm thức. Và nếu yêu đi theo dục, thế thì yêu, mà bao giờ cũng đưa bạn đi lên, có thể trở thành một phương cách đưa bạn đi xuống. Cần phải hiểu thuật giả kim này và luật này của cuộc sống cho đúng, bởi vì nó là vấn đề mong manh. Nếu bạn hiểu đúng nó chỉ thế thì nó mới làm biến đổi cuộc sống của bạn.

Trong bất kì việc gì bạn làm, bao giờ cũng tỉnh táo về cách thức nó đang diễn ra để khớp với hoàn cảnh bao la hơn. Điều bạn làm là không quan trọng, nhưng ý nghĩa của hành động đó trong hoàn cảnh bao la hơn mới quan trọng - nó cuối cùng sẽ kết thúc ở đâu, cuối cùng nó sẽ đạt tới đâu và hậu quả tối thượng của nó là gì? Điều đó là quan trọng. Thế thì nhiều lần bạn có thể làm nhiều điều mà người khác sẽ nói là sai, nhưng bạn biết rằng chúng là đúng bởi vì chúng đang giúp cho bạn trên cuộc hành trình mà sẽ đưa bạn tới điều cao hơn. Thế thì người ta thậm chí có thể dùng thuốc độc như nước cam lồ. Thế thì không quan trọng gì khi người khác nói điều đó là đúng hay sai. Có hiểu biết, tính cảm nhận. Khi bạn biết rằng bất kì điều gì bạn làm đều có kết nối với tâm thức cao hơn, thế thì không có sợ hãi.

Bao giờ cũng hành động bằng việc giữ Thượng đế trong cái nhìn của bạn bởi vì không có hoàn cảnh nào bao la hơn điều này. ‘Thượng đế’ là từ của chúng ta nói về hoàn cảnh bao la hơn đó. Cho dù bạn ăn cắp, bằng việc giữ nhận biết của bạn về Thượng đế, điều đó sẽ trở thành đức hạnh. Và cho dù bạn làm hành động đức hạnh để nuôi dưỡng cho bản ngã của bạn, thế thì hành động đức hạnh đó sẽ trở thành tội lỗi. Đừng bị buộc vào cái nhỏ hơn, đừng bị buộc vào cái thấp hơn. Cái nhỏ hơn nhấn chìm bạn, cái bao la hơn sẽ cứu bạn.

Cho nên tôi liên tục nhấn mạnh rằng cho dù bạn có đi vào trong dục, nhớ rằng samadhi là mục đích của bạn. Một cách tự nhiên, đã có một số kết quả rất kinh khủng từ phát biểu này. Mọi người đã không hiểu nó. Họ nghĩ rằng tôi đang thuyết giảng về dục cho mọi người. Jesus phải chạy trốn khỏi những người như vậy, những người có mức độ hiểu biết giống như thế này.

Tôi đơn giản nói đem điều tầm thường lên cao hơn - con thuyền đủ lớn để đem cái thấp hơn của bạn cũng sang bờ bên kia - và chung cuộc điều tầm thường cũng sẽ được biến đổi. Và điều này phải là nghệ thuật của cuộc sống - nơi điều tầm thường cũng có thể trở nên được làm thuần khiết và thiêng liêng. Trong cuộc sống, cái xấu cũng có thể trở thành tốt và ngay cả tội lỗi cũng có thể hữu dụng. Không cái gì cần bị vứt bỏ. Người ta nói rằng một nhà điêu khắc thực thụ thậm chí không vứt đi đến một hòn đá vô hình hài, người đó dùng nó nữa. Điều đó phụ thuộc vào nhà điêu khắc. Và nếu bạn không biết cách dùng cái bạn đang có, thế thì làm sao bạn có thể đi sâu thêm về nó được? Bạn sẽ phải bắt đầu từ điểm bạn đã ở đấy.

Dục là trạng thái của bạn và samadhi là khả năng của bạn. Nếu bạn đi từng bước một từ dục hướng tới samadhi, chỉ thế thì bạn mới có thể đạt tới. Nếu bạn nghĩ rằng không thể có cây cầu nào giữa dục và samadhi, thế thì làm sao bạn đi qua được? Chắc chắn, nhất định phải có cây cầu giữa dốt nát và trí huệ, phải có cây cầu giữa điều tầm thường và điều tối thượng. Bằng không nếu điều tầm thường bao giờ vẫn là điều tầm thường, thế thì làm sao nó có thể hướng tới điều tối thượng được? Chắc chắn phải có cây cầu giữa bạn và điều tối thượng.

Dù điều thiêng liêng ở xa bạn thế nào, nó vẫn phải được nối với bạn. Đây là điều tôi đang nói. Và nếu không có kết nối nào, thế thì cuộc sống là vô tích sự. Dù bạn xa xôi với Thượng đế đến đâu đi chăng nữa, theo cách này hay cách khác bạn vẫn phải ở gần ngài - bằng không sẽ không có sự kết thúc cho việc lang thang của bạn. Thế thì làm sao bạn trở về nhà được? Cho dù chỉ có một sợi dây nối với bạn, điều ấy cũng đủ. Tất cả những điều tôi đang nói là ở chỗ có một sợi dây của samadhi nối với tính dục của bạn. Đừng chú ý vào tính dục của bạn, đặt chú ý vào sợi dây này. Cùng sợi dây đó sẽ nâng bạn lên. Một ngày nào đó bạn sẽ thấy rằng dục đã biến mất và samadhi đã nở hoa.

Kiếm yêu ngay cả trong dục đi. Ngay cả trong dục để ý tới yêu. Bất kì điều gì bạn cho sự chú ý đều sẽ được nuôi duỡng. Chú ý là thức ăn. Chú ý là năng lượng. Cố thấy cái tốt ngay trong cái xấu và cùng cái tốt đó sẽ giúp bạn hướng tới siêu việt.

Có khác biệt lớn giữa yêu hướng dục và dục hướng yêu. Lời là như nhau. Trong yêu hướng dục có ba từ: yêu, hướng, dục. Cùng ba từ này - dục, hướng, yêu - nhưng khác biệt là lớn lao. Một đằng tạo ra thế giới, đằng kia giúp giải thoát bạn. Chiếc thang là một: trèo xuống và bạn ở trong thế giới, trèo lên và điều tối thượng được đạt tới.
Câu hỏi cuối cùng:

Người thấy, người chứng ngộ và người sùng kính đã thấy điều tối thượng như các hình dạng khác nhau hay như vô hình dạng, và họ cũng gọi nó theo cách riêng của mình. Anam, ‘vô danh’ và neti-neti, ‘không này, không kia’ cũng được bao hàm trong việc gọi tên này. Liệu có khác biệt gì trong cách họ thấy thực tại phụ thuộc vào những khác biệt theo nhân cách của người thấy không?

Không có khác biệt trong điều họ nhìn, khác biệt chỉ ở cách họ diễn đạt nó. Vâng, điều đã được họ nhận ra là như nhau và điều họ đã nói về nó là khác nhau. Có một câu ngạn ngữ Phạn: Cái được nhìn là một nhưng người nhìn diễn đạt nó theo nhiều cách. Những người đã chứng ngộ thấy cùng một thực tại nhưng họ đã nói điều đó theo nhiều cách bởi vì nó có thể được diễn đạt theo nhiều cách. Nhưng không có nhiều cách nhìn bởi vì chừng nào vẫn còn các hệ thống nhìn, nó không thể được thấy.

Cố hiểu điều này: chừng nào có một hệ thống nhìn, việc thấy sẽ không xảy ra. Chừng nào mà bạn vẫn còn có cái nhìn cố định, bất kì khuôn mẫu cho việc nhìn - bất kì loại kính nào - bạn sẽ tô mầu nó và bạn sẽ không thấy cái đang đó. Bạn sẽ chỉ thấy cái bạn có thể thấy - cái bạn muốn thấy. Bạn sẽ áp đặt bản thân bạn lên điều đó. Chỉ sau khi trở nên tự do với mọi hệ thống nhìn mới có việc thấy thực sự, việc hiểu thực sự, nơi không có cách nhìn đặc biệt nào xảy ra. Điều này có nghĩa là mắt bạn đã trở thành thuần khiết.

Khi bạn không còn là người Hindu hay người Mô ha mét giáo, không còn là người Jaina hay người Ki tô giáo, không là người Parsee lẫn người Sikh; khi mắt bạn trống rỗng thế thì bạn đứng trước điều tối thượng tuyệt đối thuần khiết, trống rỗng. Bạn có thể nói, “Tôi không có cái nhìn nào hết cả. Tôi chỉ là tấm gương phản chiếu bạn như bạn hiện thế. Tôi sẽ không thêm điều gì vào, tôi sẽ không lấy đi điều gì - tôi không có gì để lấy đi hay thêm vào. Tôi không còn nữa. Bây giờ chỉ bạn có đấy và tôi là tấm gương.”

Ngày mà tất cả những cảm nhận cố định của bạn biến mất - trạng thái Mahavira gọi là naya - vào ngày bạn ở vào trạng thái naya thuần khiết, trạng thái nhìn thuần khiết, việc nhận ra xảy ra. Việc nhận ra là một nhưng khi chúng ta cố gắng nói nó ra thế thì khác biệt xuất hiện.

Hiểu điều đó theo cách này. Ai đó đã nhận ra điều tối thượng, ai đó đã đi tới biết chân lí, phúc lạc tối thượng đã mưa rào lên người đó - mưa rào không mây. Nước cam lồ đã bắt đầu mưa rào xuống, bây giờ làm sao nói về nó? Điều đã xảy ra lớn lao, điều đã xảy ra bao la đến mức nó không thể nào được chứa nổi. Trái tim này rất nhỏ bé... Đại dương đã nhảy vào trong một giọt nước. Bây giờ có khó khăn lớn, bây giờ điều này phải được truyền ra.

Meera sẽ nói điều đó bằng việc nhảy múa bởi vì nhảy múa là dễ cho Meera, nó là bản thể của cô ấy. Niềm vui đã xảy ra nhưng Meera sẽ không nói điều đó bằng lời, cô ấy không phải là thầy về lời. Niềm vui sẽ được diễn tả bằng mọi tế bào thân thể cô ấy - cô ấy sẽ nhảy múa. Meera nhảy múa với những chiếc chuông nhỏ treo quanh cổ chân. Cô ấy không thể tìm được bất kì cách nào khác cho nên cô ấy buộc những chiếc chuông nhỏ quanh cổ chân và bắt đầu nhảy múa, không có cách khác. Điều này là dễ dàng cho cô ấy, đây là đỉnh cao của toàn bộ cuộc đời cô ấy. Khi phúc lạc điểm vào cô ấy, điệu vũ của cô ấy được sinh ra.

Phật không nhảy múa, đấy không phải là bản thể của ông ấy. Khi phúc lạc điểm vào ông ấy, ông ấy trở nên im lặng, im lặng giáng xuống ông ấy và ông ấy không nói trong bẩy ngày. Tương truyền rằng các thần tới cầu khẩn ông ấy. Bản thân Brahma tới và quì dưới chân Phật mà nói, “Xin thầy nói, bởi vì điều này hiếm lắm, trong nhiều thời đại chỉ có một lần một ai đó thức tỉnh. Lời của thầy sẽ thành ngọn đèn cho những người đang lang thang trong bóng tối. Lời của thầy sẽ trở thành phương tiện cho họ tỉnh dậy khỏi giấc ngủ của họ. Xin thầy đừng im lặng nữa.”

Nhưng Phật nói, “Ta cảm thấy không thích nói. Ta chỉ có thể bầy tỏ phúc lạc này bằng im lặng. Bởi việc nói ra, nó sẽ bị làm hỏng mất. Ta sẽ không thể nào nói nó lên lời được. Và ta không chắc rằng người nghe ta sẽ có thể hiểu được. Nếu ai đó đã nói điều này trước đây cho ta, ta chắc đã không hiểu. Điều đó không thể nói được! Trong trạng thái này, người ta chỉ có thể còn trong im lặng. Bất kì ai sẵn sàng hiểu, thế thì người ấy sẽ hiểu ngay cả trong im lặng của ta. Còn người không hiểu, sẽ không hiểu được đâu cho dù ta có nói ra.”

Phật nhấn mạnh vào việc vẫn còn im lặng. Ông ấy không sẵn sàng nhảy múa cũng không sẵn sàng nói. Các thần có cuộc họp lớn và quyết định rằng bằng cách nào đó phải thuyết phục Phật nói ra. Họ đưa ra một đề nghị cho Phật mà ông ấy không thể chối từ, ông ấy phải đồng
ý. Họ nói, “Thầy tuyệt đối đúng: trong một trăm người nghe thầy, chín mươi chín người sẽ không hiểu. Nhưng thầy có thể nói rằng ngay cả đến một người trong một trăm người này sẽ không hiểu chăng?”

Phật nói, “Người có khả năng hiểu bằng việc lắng nghe ta nói sớm hay muộn sẽ hiểu theo cách riêng của người đó, cho dù không nghe ta nói. Và với người không có khả năng hiểu bởi việc nghe ta nói, dù ta có cố gắng đến đâu cũng không ăn thua gì, đấy sẽ là điều vô ích.”

Các thần nói, “Thầy tuyệt đối đúng! Nhưng có thể có người ở giữa hai loại người này - người mà nếu người ấy không nghe thầy nói sẽ lang thang hàng nghìn năm còn nếu người ấy nghe thầy nói sẽ đạt tới bờ bên kia. Xin thầy nói cho người đó. Phật tính được đạt tới chỉ cho một người trong hàng triệu người, và thậm chí nếu nó xảy ra chỉ cho một người thôi, thế cũng đủ. Xin thầy nói cho người đó.”

Và Phật đã nói.

Lời của Phật rất tinh tế. Ông ấy không nói dù chỉ một điều phi logic. Đó là lí do tại sao ông ấy đã không nói về Thượng đế chút nào. Ông ấy rất logic; nói về Thượng đế là không logic. Nói về Thượng đế tạo ra lẫn lộn. Và mãi cho tới giờ bất kì ai nói tới Thượng đế đều phải ra điều kiện. Như Lão Tử đã nói, “Chân lí có thể được nói ra không phải là chân lí thực” - nhưng thế rồi ông ấy vẫn phải nói tới điều đó. Cho nên Phật nói, “Điều mà không thể nói ra được thì không nên nói ra. Và thậm chí cũng đừng nói rằng điều đó là không thể nói ra được, bởi vì điều đó cũng là một cách nói nó.” Cho nên phát biểu của ông ấy là rất tinh tế. Phát biểu của Phật là thuần khiết nhất, nhưng chỉ những người có trí thông minh sắc bén mới có thể hiểu được chúng.

Người khác có thể hiểu được Meera. Họ sẽ nắm bắt điều đó qua điệu vũ của cô ấy. Người nào đó khác sẽ hiểu thông qua cách khác nào đó.

Khi Nanak trở nên chứng ngộ ông bắt đầu hát cùng người bạn Mardana. Nếu ai đó hỏi Nanak một câu hỏi, “Có Thượng đế không?” Nanak sẽ nói, “Mardana, bắt đầu đi!” Thế là Mardana sẽ bắt đầu chơi nhạc cụ còn Nanak hát. Đây là câu trả lời của ông ấy. Bất kì khi nào ai đó nói về Thượng đế, về nghiệp karma, về những lí thuyết như vậy, về điều này điều nọ; bất kì khi nào ai đó hỏi ông ấy câu hỏi nào đó ông ấy sẽ nói, “Mardana, bắt đầu đi.”

Bài hát của ông là câu trả lời bởi vì ông sẽ nói rằng kinh nghiệm mênh mông đến mức nó không thể diễn tả được bằng văn xuôi, nó không thể diễn tả được bằng logic, nó chỉ có thể được diễn tả bằng việc hát. Có lẽ bài hát của ông ấy có thể động chạm tới bạn ở đâu đó.

Cho nên có thể có vô hạn hình dạng nhưng chúng chỉ là hình dạng diễn tả, không phải là việc nhận ra, nhớ điều đó. Việc thấy là một và như nhau. Nhưng khi mọi người đi xuống từ thế giới ánh sáng vô hạn này với những tin tức về cái một, khi họ xuống đất, tới bãi chợ của bạn, tới đền đài, chùa chiền của bạn, khi họ thấy bạn - họ vừa mới thấy điều thiêng liêng và thế rồi họ thấy bạn - bởi vì họ đã trở thành người trung gian giữa bạn và điều thiêng liêng, thế thì người trung gian diễn đạt sẽ là khác biệt cho từng người bởi vì mỗi cá nhân có khả năng riêng của mình. Meera có thể nhảy múa, Nanak có thể hát, Phật có thể nói, Shankara có thể biện minh. Shankara giương cao ngọn cờ của mình và đi tranh luận khắp đất nước. Khó mà tìm được một người logic hơn Shankara: ông ấy liên tục giải thích điều thiêng liêng qua logic, ông ấy liên tục bác bẻ logic của người vô thần - đó là khả năng của ông ấy. Nhân cách của ông ấy là nhân cách của nhà logic.

Theo cách này đã có hàng nghìn người - chứng ngộ của họ là một nhưng cách diễn đạt của họ khác nhau. Đừng chú ý nhiều tới việc diễn đạt. Cái ẩn trong việc diễn đạt - điều Nanak nói qua việc hát của ông ấy, điều Meera nói qua việc múa của cô ấy, điều Phật nói qua việc nói của ông ấy, điều Shankara nói qua logic của ông ấy - logic không thể trao nổi mà cũng không thể diễn giải nổi thông qua việc nói; điều đó cũng không thể được giải thích bởi việc hát và cũng không thể được giải thích qua việc nhảy múa. Nó là không xác định nổi. Không thể có phát biểu nào về điều tối thượng cả. Nhìn tới điều tối thượng không có gì mà nói cả, nhưng nhìn vào các bạn cảm thấy cần phải nói điều gì đó. Nhìn vào bên trong người ta vẫn còn im lặng, không có gì để nói cả. Nhìn vào các bạn dường như là có nhiều điều phải nói thế và có lẽ ai đó sẽ lắng nghe... Đấy chỉ là có lẽ thôi - có lẽ ai đó có thể lắng nghe - nhưng cái ‘có lẽ’ đó cũng đáng ráng sức.

Người dốt nát sống trong ‘nếu’ và người hiểu biết sống trong ‘có lẽ’. Hiểu điều này đi: người dốt nát thường liên tục nghĩ, “Nếu điều này xảy ra, nếu điều kia xảy ra trong quá khứ”; “Nếu như mình đã làm việc như vậy thế thì điều đó chắc đã là kết quả”; nếu mình mà liều lĩnh mình đã được nhiều tiền; nếu mình mà mua vé xổ số hôm nay mình đã trúng to; nếu...

Mohammed quen nói rằng bạn có thể nhận ra một người dốt nát như thế nào bởi cái ‘nếu’ này.

Mohammed nói tới một người đang tìm nhà. Anh ta gặp một người bạn trên đường và nói, “Tôi đang cần một ngôi nhà, xin anh giúp đỡ tôi.”

Người bạn nói, “Ô! Có một ngôi nhà đã bỏ trống từ nhiều ngày nay rồi. Anh có thể lấy nó ngay bây giờ. Ta đi đi.”

Người này rất phấn khởi. Anh ta đã lo nghĩ bởi vì anh ta không thể nào tìm được một ngôi nhà. Anh ta nói, “Vận may của tôi tới rồi nên tôi mới gặp người bạn này và ngôi nhà này đang bỏ trống và có sẵn đấy. Ngày nay thật khó tìm được một ngôi nhà.” Nhưng khi anh ta đi tới ngôi nhà đó anh ta choáng váng, vì nó đã tàn tạ.

Anh bạn nói, “Anh xem đây, nếu như nó có chiếc mái thế thì anh sẽ có thể sống được ở đây. Và nếu các bức tường còn tốt và nếu nó có cửa thế thì sẽ không sợ gì kẻ trộm nữa. Và nếu anh làm thêm một buồng nữa thế thì tôi cũng có thể tới ở cùng với anh, bởi vì anh là bạn cũ của tôi!”

Người này nói, “Anh thật tốt, nhưng sống trong những cái ‘nếu’ này sẽ rất khó khăn đấy. Làm sao ai đó có thể sống được trong những cái ‘nếu’ này? Sống với bạn bè thật dễ chịu và vận may của tôi là tôi đã gặp anh, nhưng thật là khó để sống trong những cái ‘nếu’ này.”

Người dốt nát sống trong ‘nếu’. Người hiểu biết sống trong ‘có lẽ’. Ngay cả cái ‘có lẽ’ này cũng không phải là cho bản thân người đó mà là cho bạn. Khi có liên quan tới người đó, người đó sống trong ‘hiện hữu’, nhưng với bạn người đó sống trong ‘có lẽ’. Có lẽ bạn có thể lắng nghe, có lẽ trong khoảnh khắc nào đó bản thể bạn có thể thức tỉnh, rung lên, có lẽ điều gì đó đã đập vào bạn, có lẽ điều gì đó có thể trở thành việc phá rối giấc ngủ của bạn và làm cho bạn mở mắt ra. Có lẽ giấc mơ của bạn có thể bị tan vỡ.

Cho nên Phật đã nói trong bốn mươi năm từ cái ‘có lẽ’ này, Meera đã nhảy múa và Nanak đã hát. Nếu họ nhìn vào bên trong bản thân họ không có gì còn lại để được làm, câu chuyện đã kết thúc. Không cái ‘nếu’ nào còn mà cũng không cái ‘có lẽ’ nào còn lại. Nhưng khi họ nhìn vào bạn thế thì họ cảm thấy từ bi lớn nảy sinh. Cùng năng lượng vẫn vận hành như đam mê trong bạn nay đã biến thành từ bi trong người đã chứng ngộ. Người đó không thể dừng điều này, nó đơn giản bắt đầu tuôn chảy. “Và có cái hại gì trong nó nào? Cho dù không ai thức tỉnh cũng không có vấn đề gì. Nếu ai đó thức tỉnh thế thì đấy là một biến cố trọng đại, nếu không ai thức tỉnh cũng chả thành vấn đề gì.”

Chính bởi vì cái ‘có lẽ’ này mà có nhiều cách diễn đạt. Nếu cái ‘có lẽ’ này không có đó thế thì bạn sẽ không bắt gặp bất kì cách diễn đạt nào của người đã chứng ngộ. Bạn sẽ thấy tất cả họ đều ngồi im lặng. Điều họ biết là một, nhưng những người mà điều đó cần phải được nói cho là nhiều. Và người cần phải được nói cho cũng có những giới hạn, do đó có những khác biệt. Những khác biệt này là bởi vì các giới hạn của họ. Khác biệt cũng bởi vì mức độ hiểu biết của bạn. Và điều đó phải được giải thích cho nhiều người; điều được biết tới là một nhưng nó phải được truyền đạt cho nhiều người. Điều họ đã biết là một nhưng nó cần được diễn đạt theo nhiều cách. Và thế rồi mỗi người có giới hạn của mình.

Hiểu điều đó theo cách này: khi điện chạy qua mô tơ quạt thế thì quạt làm việc, khi nó chạy qua bóng đèn thế thì bóng đèn phát ra ánh sáng, khi nó chạy qua radio radio bắt được âm thanh. Điện là một nhưng các môi giới mà nó chạy qua có nhiều.

Khi điện của điều thiêng liêng chạy qua Meera, Buộc chuông vào cổ chân, Meera đi vào điệu vũ. Khi điện của điều thiêng liêng chạy qua Shankara, một cơn bão logic lớn và tranh luận nảy sinh. Logic không có khả năng mà điệu vũ cũng không có khả năng, bởi vì điều thiêng liêng bao la đến mức nó không thể nào bị chứa bởi bất kì cái gì.

Nhưng cho dù một ngón tay có nhỏ đến đâu, nó có thể chỉ tới trăng. Một ngón tay đẹp đeo nhẫn khảm kim cương có thể chỉ đường, và một ngón tay không đẹp đến thế cũng có thể chỉ đường. Khác biệt trong kiểu ngón tay không tạo ra khác biệt. Điều tạo ra khác biệt là nếu bạn nắm chặt ngón tay và quên trăng.

Cho nên đừng nắm chặt ngón tay, bao giờ cũng chuyển chú ý của bạn theo hướng tới trăng. Quên ngón tay đi - quên điều được nói đi, nhớ cái không thể nào được nói ra. Quên cái được viết và đọc cái không thể được viết ra - cái nằm bên ngoài cách diễn đạt mà những người với từ bi bao la đã cố gắng diễn đạt nó. Đừng níu bám vào cử chỉ của họ, quên cử chỉ đi. Nâng tầm mắt bạn lên bầu trời và thấy trăng trên trời. Thế thì bạn sẽ thấy ngón tay của Mohammed, ngón tay của Mahavira, ngón tay của Krishna, ngón tay của Christ - chúng là những ngón tay khác nhau nhưng trăng trên trời là một.

Việc nhận ra là một nhưng cách diễn đạt của nó là nhiều.

Đủ cho hôm nay...


Con hươu ảo tưởng ngụ trong thân thể.

Làm sao gìn giữ được mùa màng?

Nó ăn hết bất kì cái gì mới mọc lên

Và yêu với điều thiêng liêng không bao giờ có thể trưởng thành.

Mọi người đều muốn mang thuộc tính của Thượng đế

Nhưng không ai muốn biến mất trong Thượng đế; Người bản ngã cảm thấy thấp kém bên trong, Sahajo nói: Người ta sẽ không bao giờ vươn lên cao.

Tâm trí bao giờ cũng chia chẻ;

Không tĩnh lặng trong trái tim.

Con sóng ham muốn dục quét sạch

Kết quả của điều thiêng liêng

Viên đá giả kim thuật của điều thiêng liêng biến tất cả thành vàng,

Nó tồn tại trong trái tim người giầu tâm linh.

Con mắt của người nghèo túng không thể nhận ra nó,

Sahajo nói: Người ta sẽ mất nó.

Sahajo nói: nhớ Thượng đế một cách bí mật trong tim ông.

Môi ông sẽ không chuyển động, Không ai biết được.

Sahajo nói: nhớ Thượng đế theo cách mà,

Chỉ ông và Thượng đế biết điều đó,

Nhưng thế giới không biết đến điều đó.

Mục lục chính.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Đứa trẻ nổi loạn - Osho

Tự truyện - Cuộc đời luận sư Osho