Chương 5. Tỉnh thức là cuộc sống
Chương 5. Tỉnh thức là cuộc sống
Tỉnh thức là cách sống.
Kẻ ngu ngủ
dường như là đã chết,
Nhưng người chủ tỉnh thức
Và người đó sống mãi mãi.
Người đó quan sát.
Người đó trong vắt.
Người đó hạnh phúc làm sao!
Vì người đó thấy rằng tỉnh thức là cuộc sống.
Người đó hạnh phúc làm sao,
Đi theo con đường của người thức tỉnh.
Với kiên nhẫn lớn lao
Người đó thiền, tìm kiếm Tự do và hạnh phúc.
Cho nên tỉnh thức, phản xạ, quan sát.
Làm việc với chăm chú và chú ý.
Sống theo cách này
Và ánh sáng sẽ lớn lên trong ông.
Bằng quan sát và làm việc
Người chủ làm cho bản thân mình thành hòn đảo
Mà ngập lụt không thể tràn lên được.
Một trong những điều quan trọng nhất cần được hiểu về con người là ở chỗ con người ngủ. Ngay cả lúc người đó nghĩ mình đang thức, người đó không thức. Thức của người đó rất mong manh; thức của người đó nhỏ tí xíu thế, không thành vấn đề chút nào. Thức của người đó chỉ là cái tên đẹp, nhưng hoàn toàn trống rỗng.
Bạn ngủ ban đêm, bạn ngủ ban ngày; từ sinh tới tử bạn cứ thay đổi hình mẫu ngủ, nhưng bạn chưa bao giờ thực sự thức cả. Chỉ bằng việc mở mắt ra, đừng tự lừa mình rằng bạn thức. Chừng nào con mắt bên trong còn chưa mở ra, chừng nào bên trong bạn còn chưa tràn đầy ánh sáng, chừng nào bạn chưa thể thấy bản thân mình, bạn là ai, đừng nghĩ rằng bạn đang thức.
Đó là ảo tưởng lớn nhất con người đang sống trong đó. Và một khi bạn chấp nhận rằng bạn đã thức, thế thì không có vấn đề làm bất kì nỗ lực nào để thức.
Điều đầu tiên chìm sâu vào trong tim bạn là ở chỗ bạn đang ngủ, hoàn toàn ngủ. Bạn đang mơ, ngày tới, ngày đi. Bạn đang mơ đôi khi với mắt mở và đôi khi với mắt nhắm, nhưng bạn đang mơ, bạn là giấc mơ. Bạn chưa là thực tại.
Và, tất nhiên, trong mơ bất kì điều gì bạn làm đều vô nghĩa, bất kì điều gì bạn nghĩ đều không ích gì, bất kì điều gì bạn phóng chiếu vẫn còn là một phần của giấc mơ của bạn và không bao giờ cho phép bạn thấy cái đang hiện hữu. Do đó sự nhấn mạnh của Phật... và không chỉ Phật Gautama mà mọi chư phật đều nhấn mạnh chỉ một điều: Thức tỉnh! Liên tục, hàng thế kỉ, toàn thể giáo huấn của họ có thể được hàm chứa trong một lời: Thức tỉnh!
Và họ đã phát minh ra các phương pháp, chiến lược, họ đã tạo ra hoàn cảnh và không gian, và trường năng lượng trong đó bạn có thể bị choáng vào nhận biết. Vâng, chừng nào bạn chưa bị choáng, rung chuyển tới chính nền tảng của bạn, bạn sẽ không thức tỉnh đâu. Giấc ngủ đã lâu quá rồi, nó đã đạt tới chính cốt lõi của bản thể bạn; bạn đã thấm đẫm trong nó. Mỗi tế bào của thân thể bạn và từng thớ tâm trí bạn đã trở nên đầy việc ngủ. Đấy không phải là hiện tượng nhỏ đâu. Do đó nỗ lực lớn được cần tới để tỉnh táo, để chăm chú, để quan sát, để trở thành nhân chứng.
Nếu trên một chủ đề mà mọi chư phật trên thế giới đều đồng ý, đây là chủ đề này: rằng con người như người đó vậy là đang ngủ, và con người như người đó đáng phải vậy thì phải thức tỉnh. Thức tỉnh là mục đích, và thức tỉnh là hương vị của mọi giáo huấn của họ. Zarathustra, Lão Tử, Jesus, Phật, Bahauddin, Kabir, Nanak - tất cả những người đã thức tỉnh này đều đã thuyết giảng một chủ đề duy nhất, trong các ngôn ngữ khác nhau, trong các biểu dụ khác nhau, nhưng bài ca của họ là như nhau. Giống như vị mặn của biển - dù biển được nếm ở phương bắc hay phương đông hay phương tây, biển bao giờ cũng mang vị mặn - hương vị của phật tính là tỉnh thức.
Nhưng bạn sẽ không nỗ lực gì nếu bạn cứ tin rằng bạn đã thức tỉnh rồi; thế thì không có vấn đề làm nỗ lực nào cả.
Sao bận tâm? Và bạn đã tạo ra tôn giáo, thượng đế, lời cầu nguyện, thánh lễ, từ giấc mơ của mình - thượng đế của bạn là một phần của giấc mơ của bạn như bất kì cái gì khác. Chính trị là một phần giấc mơ của bạn, tôn giáo là một phần giấc mơ của bạn, thơ ca của bạn, bức tranh cảu bạn, nghệ thuật của bạn - bất kì cái gì bạn làm, bởi vì bạn ngủ, bạn làm nó tương ứng theo trạng thái tâm trí riêng của mình.
Kinh thánh nói Thượng đế đã tạo ra con người theo hình ảnh riêng của ngài - chân lí dường như là điều đối lập lại: con người đã tạo ra Thượng đế theo hình ảnh riêng của mình. Thượng đế của bạn là giả bởi vì bạn giả. Tôn giáo của bạn là giả bởi vì bạn giả. Kinh sách của bạn không thể có bất kì ý nghĩa gì bởi vì bạn không có bất kì ý nghĩa gì.
Hai tu sĩ đang chơi gôn. Người trẻ hơn đánh trượt một cú bóng dễ dàng và nói, “Cứt thật!” Người già hơn mắng mỏ người đó về điều này, nói rằng nếu người đó cứ tiếp tục dùng những từ tục tĩu như thế thì Thượng đế chắc chắn sẽ làm nổ tung người đó bằng một cú sét. Họ lại chơi và anh tu sĩ trẻ lại đánh trượt một cú nữa, và lại nói, “Cứt thật!”
Bầu trời đột nhiên toạc ra: một tia sét nhoáng lên, và đánh chết viên tu sĩ già. Có một khoảng dừng, và tiếng nói trên trời nghe được nói trong âm hưởng của tiếng sét: “Cứt thật!”
Các thượng đế của bạn không thể khác bạn được. Ai sẽ tạo ra họ? Ai sẽ cho họ hình dáng và mầu sắc và hình dạng? Bạn tạo ra họ, bạn khắc hoạ họ; họ có mắt như bạn, mũi như bạn - và tâm trí giống bạn! Thượng đế trong Cựu Ước nói, “Ta là một Thượng đế rất ghen tị!” Bây giờ ai đã tạo ra Thượng đế này mà ghen tị thế? Thượng đế không thể ghen tị. Và nếu Thượng đế ghen tị, thế thì có gì sai trong việc ghen tị nào? Cho dù Thượng đế ghen tị, tại sao bạn phải nghĩ tới việc điều gì đó sai khi bạn ghen tị? Thế thì ghen tị là thiêng liêng.
Thượng đế trong Cựu Ước nói, “Ta là một Thượng đế rất giận dữ! Nếu ngươi không theo mệnh lệnh của ta, ta sẽ tiêu diệt ngươi. Ngươi sẽ bị ném vào ngọn lửa địa ngục vĩnh viễn. Và bởi vì ta rất ghen tị,” Thượng đế nói, “đừng tôn thờ bất kì ai khác. Ta không thể dung thứ điều đó được.”
Ai đã tạo ra Thượng đế như vậy? Đấy phải là từ ghen tị của riêng chúng ta, từ giận dữ của riêng chúng ta, mà chúng ta đã tạo ra hình ảnh này.
Một người Do Thái mà từ lâu đã toàn gặp vận rủi, đi vào trong rừng và cất lên lời cầu nguyện và buộc tội. “Ôi, Thượng đế,” người đó hỏi trời với giọng đầy nước mắt, “Chẳng phải con đã làm những điều tốt cho người Do Thái đấy sao? Chẳng phải con bao giờ cũng làm từ thiện đấy sao, ngay cả với đám goyim đáng nguyền rủa này? Chẳng phải con đã đem gia đình con vào khuôn phép đó sao? Không bao giờ uống rượu, chửi thề, ăn trộm; không đàn bà xấu, không cái gì cả! Sao ngài làm điều này với con hả Thượng đế? Tại sao? Tại sao vậy?”
Một đám mây đen bỗng nhiên xuất hiện trên đầu, và một giọng nói ghê gớm đáp lại, “Mi phá bĩnh ta.”
Thượng đế chắc chắn không thể nào khác bạn được. Đấy là phóng chiếu của bạn, đấy là cái bóng của bạn. Nó vọng lại bạn và không ai khác. Đó là lí do tại sao có nhiều thượng đế trên thế giới này thế. Người Hindu có ý tưởng nào đó về Thượng đế - ý tưởng Hindu - điều đó phản ánh tâm trí người Hindu.
Nếu bạn quay lại với kinh sách Hindu, bạn sẽ ngạc nhiên. Bạn sẽ không có khả năng tin được người Hindu đã tạo ra những loại thượng đế nào - rất dâm dục. Ngoại tình là rất phổ biến trong các thượng đế của người Hindu, và họ không chỉ chơi trò chơi ngoại tình của họ trong thiên đường Hindu, họ thậm chí không thể để trái đất một mình; họ tới cả trái đất nữa, để hãm hiếp đàn bà, để quyến rũ đàn bà đơn giản. Họ thậm chí không tha cho cả vợ của các nhà tiên tri lớn. Và bởi vì họ có quyền năng vô hạn, họ có thể thậm chí xuất hiện như người chồng, họ có thể trông như người chồng. Và phụ nữ thì không có ý tưởng gì về ai đang ẩn sau cái mẽ ngoài ấy cả.
Ai đã tạo ra những thượng đế này? - đấy phải là một tâm trí rất dâm dục ở rất sâu.
Và cũng điều này là trường hợp cho mọi thượng đế khác của mọi tôn giáo khác. Chính bởi vì điều này mà Phật không hề nói tới Thượng đế. Ông ấy nói: Phỏng có ích gì mà nói về Thượng đế cho những người đang ngủ? Họ sẽ nghe trong giấc ngủ của họ. Họ sẽ mơ về bất kì điều gì được nói cho họ, và họ sẽ tạo ra các thượng đế riêng của họ - điều hoàn toàn giả, hoàn toàn bất lực, hoàn toàn vô nghĩa. Tốt hơn cả là không có những thượng đế như vậy.
Đó là lí do tại sao Phật không quan tâm tới việc nói về các thượng đế. Toàn bộ mối quan tâm của ông ấy là trong việc đánh thức bạn.
Chuyện kể về một thầy chứng ngộ Phật giáo, người ngồi bên cạnh con sông một tối nọ, tận hưởng tiếng nước chảy, tiếng gió xào xạc qua cây... Một người tới và hỏi ông ấy,”Xin thầy nói cho tôi chỉ một lời về điều tinh tuý của tôn giáo thầy?”
Thầy vẫn im lặng, hoàn toàn im lặng, dường như ông ấy không nghe thấy câu hỏi. Người hỏi nói, “Thầy điếc hay bị làm sao không đấy?”
Thầy nói, “Ta đã nghe thấy câu hỏi của anh, và ta đã trả lời nó rồi đấy! Im lặng là câu trả lời. Ta vẫn còn im lặng - cái dừng đó, khoảng trống đó, là câu trả lời của ta.”
Người này nói, “Tôi không thể hiểu nổi câu trả lời bí ẩn như vậy. Thầy không thể làm rõ ràng ra hơn một chút được sao?”
Thế là thầy viết lên cát chữ “thiền,” trong dòng chữ nhỏ dưới ngón tay. Người này nói, “Bây giờ tôi có thể đọc được. Có tốt hơn lần đầu. Ít nhất tôi có một từ mà ngẫm nghĩ. Nhưng thầy không thể làm điều đó rõ thêm chút nữa được sao?”
Thầy viết lại “thiền.” Tất nhiên lần này ông ấy viết chữ lớn hơn. Người này cảm thấy chút ít bối rối, phân vân, chạm tự ái, giận dữ. Người đó nói, “Thầy lại viết thiền sao? Thầy không thể làm rõ hơn chút nữa cho con được sao?”
Và thầy viết các chữ rất to, chữ hoa, “THIỀN.” Người này nói, “Thầy dường như điên rồi.”
Thầy nói, “Ta đã đi xuống rất nhiều rồi. Câu trả lời thứ nhất là câu trả lời đúng, câu thứ hai không đúng được như thế, câu thứ ba còn sai hơn, câu thứ tư đã đi rất sai” - bởi vì khi bạn viết “THIỀN” bằng chữ hoa, bạn đã làm ra thượng đế từ đó rồi.
Đó là lí do tại sao từ ‘Thượng đế’ lại được viết hoa với chữ ‘T’. Bất kì khi nào bạn muốn làm cho cái gì đó thành tối cao, tối thượng, bạn viết nó bằng chữ hoa.
Thầy nói, “Ta đã phạm phải một tội lỗi.” Ông ấy xoá đi tất cả những từ mình đã viết, và ông ấy nói, “Xin nghe câu trả lời thứ nhất của ta - chỉ thế thì ta mới còn đúng.”
Im lặng là không gian trong đó người ta thức tỉnh, và tâm trí ồn ào là không gian trong đó người ta vẫn còn ngủ. Nếu tâm trí bạn liên tục huyên thuyên, bạn đang ngủ đấy. Ngồi im lặng, nếu tâm trí biến mất và bạn có thể nghe thấy tiếng chim huyên thuyên và không có tâm trí bên trong, im lặng... tiếng chim hót, tiếng líu lo, và không có vận hành của tâm trí trong đầu bạn, hoàn toàn im lặng... thế thì nhận biết trào lên trong bạn. Nó không tới từ bên ngoài, nó nảy sinh từ bạn, nó lớn lên từ bạn. Bằng không nhớ lấy: bạn đang ngủ.
Chồng và vợ cùng ngủ. Khoảng 3 giờ sáng cô vợ mơ việc gặp gỡ bí mật với một người khác. Thế rồi cô ấy mơ thấy chồng mình tới.
Trong giấc ngủ cô ấy hét inh tai, “Trời đất, chồng em!” Chồng cô ta, đột nhiên tỉnh dậy, nhảy phốc qua cửa sổ.
Và nhớ lấy, đấy không phải là chuyện cười đâu, đấy là thực tại, đấy là cách bạn đang sống. Đấy là cách con người đang tồn tại trong trạng thái bình thường của mình.
Một cô vợ cố gắng chiếm lại tình yêu của chồng, theo lời khuyên của một cô bạn, bằng cách đem đến cho anh ta đôi dép lê và tẩu thuốc khi anh ta về nhà muộn trong đêm, đưa cho anh ta một li nước, dụi mình trong lòng anh ta, chỉ mặc mỗi bộ áo dài mỏng bằng lụa, và kết thúc với lời đề nghị thì thầm, “Đi lên gác đi anh yêu!”
“Cũng được,” anh chồng sửng sốt nói, “Đằng nào anh cũng gặp địa ngục khi anh về nhà!”
Chúng ta cứ sống tuyệt đối không để ý tới về điều đang xảy ra quanh mình. Vậy mà chúng ta đã trở nên rất hiệu quả trong việc làm mọi thứ. Điều chúng ta làm, chúng ta trở nên hiệu quả trong việc làm đến mức chúng ta không cần nhận biết nào để làm nó. Điều đó trở thành máy móc, tự động. Chúng ta vận hành như người máy. Chúng ta chưa là người; chúng ta là máy.
Đó là điều mà George Gurdjieff hay nói đi nói lại, rằng con người như người đó đang tồn tại là cái máy. Ông ấy làm nhiều người khó chịu, bởi vì không ai thích bị gọi là máy cả. Máy thích được gọi là thượng đế; thế thì họ cảm thấy rất sung sướng, được thổi phồng.
Gurdjieff thường gọi mọi người là máy, và ông ấy đúng. Nếu bạn quan sát bản thân mình, bạn sẽ biết bạn hành xử máy móc như thế nào.
Nhà tâm lí học người Nga Pavlov, và nhà tâm lí học người Mĩ Skinner đúng đến chín mươi chín phẩy chín phần trăm về con người: họ tin rằng con người là cỗ máy đẹp, có vậy thôi. Không có linh hồn trong con người. Tôi nói chín mươi chín phẩy chín phần trăm họ đúng; họ chỉ lỡ bởi một lề rất nhỏ. Trong lề nhỏ đó là chư phật, những người đã thức tỉnh. Nhưng họ có thể được tha thứ, bởi vì Pavlov chưa bao giờ bắt gặp vị phật nào - ông ấy đã bắt gặp hàng triệu người như bạn.
Skinner đã nghiên cứu về người và chuột và thấy chẳng khác biệt gì. Chuột là người đơn giản, có vậy thôi; người có chút ít phức tạp hơn. Người là máy tinh vi cao, chuột là máy đơn giản. Nghiên cứu chuột dễ dàng hơn; đó là lí do tại sao các nhà tâm lí cứ đi nghiên cứu chuột. Họ nghiên cứu chuột và họ kết luận về người - và kết luận của họ gần đúng hết. Tôi nói “gần,” lưu ý vào, bởi vì điểm một phần trăm đó là hiện tượng quan trọng nhất đã từng xảy ra: một Phật, một Jesus, một Mohammed. Một vài người thức tỉnh đó là những người thực, nhưng B. F. Skinner có thể tìm đâu ra vị phật? Chắc chắn không ở Mĩ.
Tôi đã nghe:
Một người hỏi giáo sĩ, “Tại sao Jesus không chọn được sinh ra trong thế kỉ hai mươi ở nước Mĩ?”
Giáo sĩ nhún vai và nói, “Tại Mĩ sao? Điều ấy sẽ không thể được. Trước hết ông tìm đâu ra người đồng trinh? Và thứ hai là ông tìm đâu ra ba người trí huệ?”
Và không có mẹ đồng trinh và ba người trí huệ, làm sao Jesus có thể được sinh ra?
Tôi đã nghe:
Trong một nhà thờ, ông linh mục yêu cầu những người nghe, “Xin mời tất cả đàn bà nào còn trinh đứng dậy!”
Chỉ một người đàn bà với đứa con gái nhỏ đứng dậy. Chắc chắn là chị ta là người mẹ, và ông linh mục nói, “Chị nghĩ bản thân chị còn trinh không? Chị là mẹ!”
Cô ta nói, “Vâng, tôi là mẹ thật - nhưng đứa con gái này còn trinh, mà nó thì lại không thể đứng được trên chân của nó.”
B. F. Skinner sẽ tìm thấy vị phật ở đâu? Và cho dù ông ta có thể tìm thấy vị phật, các định kiến, các ý tưởng có sẵn của ông ấy sẽ không cho phép ông ấy thấy. Ông ấy sẽ cứ thấy chuột thôi. Ông ấy không thể nào hiểu bất kì cái gì mà chuột không thể làm được. Bây giờ, chuột không thiền, chuột không trở nên chứng ngộ. Và quan niệm của ông ấy về người chỉ là dạng chuột được khuếch đại lên. Và tôi vẫn nói rằng ông ấy là đúng đối với số lớn mọi người; kết luận của ông ấy không sai. Và chư phật sẽ đồng ý với ông ấy về cái gọi là nhân loại thông thường này: nhân loại thông thường hoàn toàn ngủ. Thậm chí con vật không ngủ đến thế.
Bạn đã bao giờ thấy con hươu trong rừng chưa - nó trông tỉnh táo làm sao, nó bước đi thận trọng làm sao? Bạn đã bao giờ thấy con chim đậu trên cây chưa - nó cứ quan sát một cách thông minh làm sao mọi điều đang xảy ra khắp xung quanh? Bạn đi về phía con chim - có một khoảng cách nào đó nó cho phép; vượt ra ngoài khoảng cách đó, thêm một bước nữa, và nó bay mất. Nó có tỉnh táo nào đó về lãnh thổ của nó. Nếu ai đó đi vào trong lãnh thổ đó, thế thì điều đó là nguy hiểm.
Nếu bạn nhìn xung quanh bạn sẽ ngạc nhiên: con người dường như là con vật ngủ nhiều nhất trên trái đất này.
Một người phụ nữ mua một con vẹt tại một cuộc bán đấu giá đồ đạc của nhà thổ, và để lồng vẹt được che kín trong hai tuần để làm cho nó quên đi vốn từ tục tĩu. Khi cái lồng cuối cùng được mở ra, con vẹt nhìn quanh và nhận xét, “A óc! Nhà mới. Bà mới.” Khi con gái bà ta về nhà, nói nói thêm, “A óc! Gái mới.”
Khi chồng bà ta về nhà đêm đó, con vẹt nói, “A óc! A óc! Cùng ông khách cũ. Chào, Joe!”
Con người ở trong trạng thái rất sa ngã. Thực ra, đó là nghĩa của chuyện ngụ ngôn Ki tô giáo về sa ngã của Adam, việc anh ta bị đuổi ra. Nhưng tại sao Adam và Eve bị đuổi ra khỏi thiên đường? Họ đã bị đuổi ra bởi vì họ đã ăn quả tri thức. Họ đã bị đuổi ra bởi vì họ đã trở thành tâm trí, và họ đã đánh mất tâm thức của họ. Nếu bạn trở thành tâm trí bạn đánh mất tâm thức - tâm trí có nghĩa là ngủ, tâm trí có nghĩa là ồn ào, tâm trí có nghĩa là máy móc.
Nếu bạn trở thành tâm trí bạn mất tâm thức. Do đó, toàn thể công việc phải được làm là: làm sao lại trở thành tâm thức và làm mất tâm trí. Bạn phải vứt hệ thống tất cả những thứ mà bạn đã thu thập như là tri thức. Chính tri thức đang giữ bạn ngủ; do đó, người càng nhiều tri thức, càng ngủ nhiều.
Điều đó cũng đã là quan sát của tôi nữa. Dân làng hồn nhiên tỉnh táo và thức tỉnh hơn nhiều so với giáo sư đại học và các bác học trong đền đài. Các bác học không là gì ngoài những con vẹt; các viện sĩ hàn lâm trong đại học đầy những cái không có gì ngoài phân bò linh thiêng, đầy những ồn ào tuyệt đối vô nghĩa - chỉ tâm trí mà không tâm thức.
Những người làm việc với tự nhiên - nông dân, người làm vườn, tiều phu, thợ mộc, hoạ sĩ - họ tỉnh táo hơn nhiều so với những người làm việc trong các đại học như chủ nhiệm khoa, phó hiệu trưởng, hiệu trưởng. Bởi vì khi bạn làm việc với tự nhiên, tự nhiên là tỉnh táo, cây cối tỉnh táo; hình dạng tỉnh táo của chúng chắc chắn là khác, nhưng chúng rất tỉnh táo.
Bây giờ có những bằng chứng khoa học về sự tỉnh táo của chúng. Nếu người chặt cây tới với cái cưa trong tay và với ham muốn có chủ tâm để chặt cây, mọi cây thấy người đó tới đều run rẩy. Bây giờ có những bằng chứng khoa học về điều đó; tôi không nói chuyện thơ ca, tôi đang nói khoa học khi tôi nói điều này. Bây giờ có các công cụ để đo liệu cây hạnh phúc hay bất hạnh, sợ hãi hay không sợ hãi, buồn hay cực lạc. Khi người chặt cây tới, mọi cây cối thấy người đó bắt đầu run rẩy. Chúng trở nên nhận biết rằng cái chết là cận kề. Và người chặt cây vẫn chưa chặt cây nào - mới chỉ đi tới...
Và một điều nữa, kì lạ hơn nhiều: nếu người chặt cây đơn giản đi qua đó không có ý đồ chủ tâm nào để chặt cây, thế thì không cây nào trở nên sợ. Vẫn cùng người chặt cây đó, với cùng cái cưa đó. Dường như là ý định chặt cây của người đó ảnh hưởng tới cây cối. Điều đó nghĩa là ý định của người đó đã được hiểu; nó nghĩa là chính rung động này được cây cối giải mã.
Và một sự kiện có ý nghĩa hơn đã được quan sát về mặt khoa học: là nếu bạn đi vào trong rừng và giết loài vật, không chỉ vương quốc loài vật quanh đó trở nên run rẩy, mà cây cối cũng run rẩy. Nếu bạn giết một con hươu, mọi con hươu quanh đó đều cảm thấy rung động của việc giết hại, trở nên buồn; run rẩy lớn nảy sinh trong chúng. Đột nhiên chúng sợ không bởi lí do đặc biệt nào cả. Chúng có thể không thấy con hươu bị giết, nhưng bằng cách nào đó, theo cách tinh tế, chúng bị ảnh hưởng - theo bản năng, theo trực giác. Nhưng không chỉ hươu bị ảnh hưởng - cây cối bị ảnh hưởng, vẹt bị ảnh hưởng, hổ bị ảnh hưởng, đại bàng bị ảnh hưởng, nhành cỏ bị ảnh hưởng. Sát hại đã xảy ra, tàn phá đã xảy ra, cái chết đã xảy ra - mọi thứ xung quanh bị ảnh hưởng.
Con người dường như là loài ngủ nhiều nhất...
Những lời kinh này của Phật cần phải được suy ngẫm sâu sắc, được thấm đẫm, được tuân theo.
Tỉnh thức là cách sống.
Bạn sống chỉ theo tỉ lệ với điều bạn nhận biết. Nhận biết là khác biệt giữa chết và sống. Bạn không sống chỉ bởi vì bạn đang thở, bạn không sống chỉ bởi vì tim bạn đang đập. Về mặt vật lí bạn có thể được giữ cho sống trong bệnh viện, mà không có ý thức nào. Tim bạn sẽ tiếp tục đập và bạn sẽ có khả năng thở. Bạn có thể được giữ trong một cách bố trí cơ giới mà bạn có thể sống trong nhiều năm - theo nghĩa của thở và tim đập, máu tuần hoàn. Bây giờ có nhiều người khắp thế giới ở các nước tiên tiến, người sống một cách thực vật trong bệnh viện, bởi vì công nghệ tiên tiến đã làm cho cái chết của bạn được trì hoãn vô thời hạn - trong nhiều năm, nhiều thế kỉ, bạn có thể được giữ vẫn sống. Nếu đấy là cuộc sống, thế thì bạn có thể được giữ cho sống. Nhưng đây không phải là sống chút nào. Chỉ sống thực vật không phải là sống.
Chư phật có định nghĩa khác. Định nghĩa của họ bao gồm nhận biết. Họ không nói bạn sống bởi vì bạn có thể thở, họ không nó bạn sống bởi vì máu bạn vẫn đang tuần hoàn; họ nói bạn sống nếu bạn thức tỉnh. Cho nên ngoại trừ những người đã thức tỉnh, không ai thực sự sống cả. Các bạn là những cái xác - bước đi, nói năng, làm mọi thứ - nhưng bạn là người máy.
Tỉnh thức là cách sống, Phật nói. Trở nên tỉnh thức nhiều hơn và bạn sẽ trở nên sống nhiều hơn. Và cuộc sống là Thượng đế - không có Thượng đế nào khác. Do đó Phật nói về cuộc sống và nhận biết. Cuộc sống là mục đích và nhận biết là phương pháp luận, là kĩ thuật để đạt tới nó.
Kẻ ngu ngủ...
Và mọi người đều ngủ cả, cho nên tất cả đều ngu. Đừng cảm thấy bị xúc phạm. Sự kiện phải được phát biểu ra như chúng vậy. Bạn vận hành trong giấc ngủ; đó là lí do tại sao bạn cứ lầm lỡ, bạn cứ làm những điều bạn không muốn làm. Bạn cứ làm những điều bạn đã quyết định không làm. Bạn cứ làm những điều bạn biết là không đúng để làm, và bạn không làm những điều bạn biết là đúng.
Làm sao điều này là có thể được? Tại sao bạn không thể bước ngay thẳng? Tại sao bạn cứ mắc vào đường cụt? Tại sao bạn cứ đi lầm đường thế?
Một thanh niên có giọng tốt được mời tham dự vào vở hoạt cảnh lịch sử, mặc dầu anh ta cứ cố nài xin được miễn, nói anh ta bao giờ cũng bối rối trong những hoàn cảnh như vậy. Anh ta được đảm bảo rằng sự việc rất đơn giản, và anh ta chỉ phải nói có một dòng : “Tôi tới để đoạt lấy cái hôn, và lao vào trong cuộc ẩu đả. Nghe đây! Tôi nghe thấy tiếng súng lục bắn...” và rồi bước ra khỏi sân khấu.
Vào lúc biểu diễn, người đó lên sân khấu, rất bối rối bởi cái quần ngắn bó sát mình mà người ta mới làm cho anh ta để mặc vào khoảnh khắc cuối, và trở nên hoàn toàn rệu rã tại cảnh người nữ anh hùng đẹp đẽ đang nằm dài trên ghế ngồi trong vườn, đợi anh ta, trong bộ quần áo dài trắng. Anh ta đằng hắng cổ và tuyên bố: “Tôi tới để hoạt lấy cái đôn - ấy không! - đoạt lấy cái hôn, và đao vào cuộc ẩu lả - ấy tôi nói lao vào cuộc ẩu đả! Nghe đây! tôi nghe thấy tiếng búng lục sắn - không! - súng lục bắn. Ôi, cứt dơi, cứt chuột, cứt mọi vị! Tôi không bao giờ muốn tham dự vào cái vở kịch đáng nguyền rủa này bằng bất kì cách nào!”
Đây là điều đang xảy ra. Quan sát cuộc sống của bạn: mọi thứ mà bạn đang làm bị lẫn lộn và đang lẫn lộn thế. Bạn không có bất kì sáng tỏ nào, bạn không có bất kì cảm nhận nào. Bạn không tỉnh táo. Bạn không thể thấy được! Bạn không thể nghe được! Chắc chắn, bạn có tai cho nên bạn có thể nghe, nhưng không có ai bên trong để hiểu điều đó. Chắc chắn bạn có mắt cho nên bạn có thể nhìn, nhưng không có ai hiện diện bên trong. Cho nên mắt bạn cứ nhìn và tai bạn cứ nghe, nhưng không điều gì được hiểu cả.
Nếu bạn thực sự có mắt bạn sẽ thấy Thượng đế ở mọi nơi. Và nếu bạn có thể nghe bạn sẽ nghe thấy âm nhạc tinh tú, bạn sẽ nghe thấy hài hoà của sự tồn tại.
Và trên từng bước bạn sẩy chân, trên từng bước bạn phạm phải điều gì đó sai. Và dầu vậy bạn cứ tin rằng bạn nhận biết. Vứt bỏ ý tưởng đó hoàn toàn đi. Vứt bỏ nó là bước nhảy lớn, bước đi lớn, bởi vì một khi bạn vứt bỏ ý tưởng rằng “tôi nhận biết” bạn sẽ bắt đầu tìm và kiếm cách thức và phương tiện để nhận biết. Cho nên điều đầu tiên cần chìm vào trong bạn là ở chỗ bạn đang ngủ, hoàn toàn ngủ.
Tâm lí học hiện đại đã phát hiện ra vài điều có ý nghĩa; mặc dầu người ta mới chỉ phát hiện ra về mặt trí tuệ, đấy vẫn là việc mở đầu tốt đẹp. Nếu về mặt trí tuệ mà chúng đã được phát hiện ra, thì sớm hay muộn chúng cũng sẽ được kinh nghiệm về sự tồn tại.
Freud là người tiên phong vĩ đại; tất nhiên, không phải là vị phật, nhưng vẫn là một người có ý nghĩa lớn, bởi vì ông ấy là người đầu tiên đưa ra ý tưởng được phần lớn nhân loại chấp nhận rằng con người có vô thức lớn ẩn bên trong mình. Tâm trí có ý thức chỉ là một phần mười, và tâm trí vô ý thức gấp chín lần lớn hơn phần có ý thức.
Thế rồi một đệ tử của ông ấy, Jung, đi xa thêm chút ít, sâu hơn chút ít, và đã khám phá ra vô thức tập thể. Đằng sau vô thức cá nhân có vô thức tập thể. Bây giờ ai đó được cần để khám phá ra một điều nữa vẫn đang có đó, và tôi hi vọng... Sớm hay muộn các cuộc nghiên cứu tâm lí đang tiếp diễn, ở cả hai phía tấm màn sắt, nhất định sẽ khám phá ra nó - vô thức vũ trụ. Phật đã nói về nó.
Cho nên chúng ta có thể nói: tâm trí có ý thức, một điều rất mỏng manh, một phần rất nhỏ của bản thể bạn. Đằng sau ý thức là tâm trí tiềm thức - mơ hồ. Bạn có thể nghe thấy tiếng thì thào của nó nhưng bạn không thể hình dung ra nó được. Nó bao giờ cũng có đó, đằng sau ý thức, giật dây.
Thứ ba: tâm trí vô thức cái bạn bắt gặp chỉ trong mơ hay khi bạn dùng ma tuý. Thế rồi, tâm trí vô thức tập thể. Bạn bắt gặp nó chỉ khi bạn đi vào truy tìm rất sâu trong tâm trí vô thức của bạn; thế rồi bạn bắt gặp vô thức tập thể. Và nếu bạn vẫn đi xa hơn nữa, sâu hơn nữa, bạn sẽ tới vô thức vũ trụ.
Vô thức vũ trụ là tự nhiên. Vô thức tập thể là toàn thể nhân loại đã sống cho tới giờ, nó là một phần của bạn. Vô thức này là vô thức cá nhân của bạn mà xã hội đã kìm nén trong bạn, cái không được phép diễn đạt. Do đó nó tới theo cửa sau trong đêm, trong mơ của bạn. Và tâm trí có ý thức... Tôi sẽ gọi nó là cái gọi là tâm trí có ý thức bởi vì nó vẫn chỉ được gọi như vậy. Nó quá nhỏ bé, chỉ là một đốm sáng lung linh, nhưng cho dù nó chỉ là một đốm sáng lung linh nó là quan trọng bởi vì nó có hạt mầm; hạt mầm bao giờ cũng nhỏ. Nó có tiềm năng lớn.
Bây giờ một chiều hướng hoàn toàn mới đang mở ra. Cũng như Freud đã mở ra chiều hướng dưới ý thức, Sri Aurobindo đã mở ra chiều hướng trên ý thức. Freud và Sri Aurobindo là hai người quan trọng nhất của thời đại này. Cả hai đều là trí thức, không người nào là người đã thức tỉnh, nhưng cả hai đã phục vụ được rất nhiều cho nhân loại. Về mặt trí tuệ họ đã làm cho chúng ta nhận biết rằng chúng ta không nhỏ bé thế như chúng ta dường như vậy trên bề mặt, rằng bề mặt đang che giấu chiều sâu và chiều cao lớn.
Freud đi vào chiều sâu, Sri Aurobindo cố gắng thấm vào chiều cao. Trên cái gọi là tâm trí có ý thức là tâm trí có ý thức thực; điều đó được đạt tới chỉ qua thiền. Khi tâm trí có thức bình thường của bạn được bổ sung thêm thiền, khi tâm trí có ý thức bình thường của bạn được cộng với thiền, thì nó trở thành tâm trí có ý thức thực. Bên ngoài tâm trí có ý thức thực là tâm trí siêu ý thức.
Khi bạn thiền thì bạn có chỉ các thoáng nhìn. Thiền là dò dẫm trong bóng tối. Vâng, vài cửa sổ sẽ mở ra, nhưng bạn cứ rơi đi rơi lại mãi. Tâm thức siêu ý thức có nghĩa là samadhi - bạn đã đạt tới cảm nhận trong như pha lê, bạn đã đạt tới nhận biết tích hợp. Bây giờ bạn không thể rơi xuống thấp hơn nó; nó là của bạn. Ngay cả trong giấc ngủ nó vẫn còn với bạn.
Bên ngoài siêu ý thức là siêu ý thức tập thể; siêu ý thức tập thể là cái được biết tới như “thần” trong các tôn giáo. Và bên ngoài siêu ý thức tập thể là siêu ý thức vũ trụ cái thậm chí vượt ra ngoài các thần. Phật gọi nó là niết bàn, Mahavira gọi nó là kaivalya, các nhà huyền môn Hindu đã gọi nó là moksha; bạn có thể gọi nó là chân lí.
Đấy là chín trạng thái của bản thể bạn, và bạn chỉ đang sống trong một góc nhỏ của bản thể mình - tâm trí có ý thức tí xíu; dường như ai đó có lâu đài và đã quên mất hoàn toàn về lâu đài này và bắt đầu sống trong hành lang - và tưởng đây là tất cả.
Freud và Sri Aurobindo cả hai đều là những người khổng lồ trí tuệ, tiên phong, triết gia, nhưng cả hai đều làm những phỏng đoán vĩ đại. Thay vì dạy cho sinh viên về triết học của Bertrand Russell, Alfred North Whitehead, Martin Heudegger, Jean-Paul Sartre, sẽ tốt hơn nhiều nếu mọi người được dạy nhiều về Sri Aurobindo, bởi vì ông ấy là triết gia vĩ đại nhất của thời đại này. Nhưng ông ấy đã hoàn toàn bị giới hàn lâm quên lãng, bỏ qua - bởi những lí do nào đó.
Lí do là, cho dù việc đọc Sri Aurobindo có làm cho bạn cảm thấy rằng bạn không nhận biết; và bản thân ông ấy không là vị phật, nhưng dầu vậy ông ấy sẽ tạo ra tình huống rất bối rối cho bạn. Nếu ông ấy đúng, thế thì bạn đang làm gì? Thế thì sao bạn lại không thám hiểm các chiều cao của bản thể bạn?
Freud đã được chấp nhận với sự chống cự lớn, nhưng cuối cùng ông ấy đã được chấp nhận. Sri Aurobindo thậm chí vẫn chưa được chấp nhận. Thực ra thậm chí không có đối lập nào với ông ấy cả; ông ấy đơn giản bị bỏ qua. Và lí do là rõ ràng. Freud nói về cái gì đó bên dưới bạn - cái đó không gây bối rối lắm; bạn có thể cảm thấy thoải mái mà biết rằng bạn có ý thức, và dưới ý thức của bạn còn có tiềm thức và vô thức và vô thức tập thể.
Nhưng những trạng thái này là bên dưới bạn; bạn ở trên đỉnh, bạn có thể cảm thấy thoải mái. Nhưng nếu bạn học Sri Aurobindo, bạn sẽ cảm thấy bối rối, bị xúc phạm, bởi vì có những trạng thái cao hơn bạn - bản ngã của con người không bao giờ muốn chấp nhận rằng có bất kì cái gì cao hơn người đó. Con người muốn tin rằng mình là đỉnh cao nhất, cực đỉnh, đỉnh Gourishanka, đỉnh Everest - rằng không còn gì cao hơn người đó...
Đó là lí do tại sao con người hiện đại lại muốn phủ nhận Thượng đế, bởi vì chấp nhận Thượng đế có nghĩa là bạn phải chấp nhận cái gì đó cao hơn bạn. Và bản ngã hiện đại được thổi phồng đến mức tâm trí hiện đại nói không có Thượng đế và không có cõi bên kia và không có kiếp sống sau. Và người ta cảm thấy rất thoải mái - với việc chối bỏ vương quốc riêng của bạn, chối bỏ các đỉnh cao riêng của mình, bạn cảm thấy rất thoải mái. Nhìn vào cái ngu xuẩn của nó đi.
Phật là đúng. Ông ấy nói:
Kẻ ngu ngủ
dường như là đã chết, Nhưng người chủ tỉnh thức Và người đó sống mãi mãi.
Nhận biết là vĩnh hằng, nó không biết đến cái chết. Chỉ vô nhận biết chết. Cho nên nếu bạn vẫn còn vô ý thức, ngủ, bạn sẽ phải chết lần nữa. Nếu bạn muốn gạt bỏ toàn thể cái khổ của việc sinh ra và chết đi lặp lại mãi, nếu bạn muốn gạt bỏ bánh xe sinh tử, thì bạn sẽ phải trở thành tuyệt đối tỉnh táo. Bạn sẽ phải đạt tới đỉnh cao hơn và cao hơn nữa trong tâm thức.
Và những điều này không được chấp nhận trên nền tảng trí tuệ; những điều này phải trở thành kinh nghiệm, những điều này phải trở thành sự tồn tại. Tôi không bảo bạn phải bị thuyết phục về mặt triết lí, bởi vì thuyết phục triết lí không đem lại cái gì, không thu hoạch gì. Thu hoạch thực chỉ tới khi bạn làm nỗ lực lớn để đánh thức bản thân mình.
Nhưng những bản đồ trí tuệ này có thể tạo ra ham muốn, khao khát trong bạn; có thể làm cho bạn nhận biết về tiềm năng, về khả năng; có thể làm cho bạn nhận biết rằng bạn không phải là điều bạn dường như đang là - bạn hơn thế nhiều lắm.
Kẻ ngu ngủ
dường như là đã chết, Nhưng người chủ tỉnh thức. Và người đó sống mãi mãi.
Người đó quan sát. Người đó trong vắt.
Những phát biểu đơn giản và đẹp. Chân lí bao giờ cũng đơn giản và bao giờ cũng đẹp. Nhìn vào tính đơn giản của hai phát biểu này... nhưng chúng hàm chứa nhiều làm sao - thế giới trong thế giới, vô hạn thế giới. Người đó quan sát. Người đó trong vắt.
Điều duy nhất cần phải được học là tính quan sát. Quan sát đi! Quan sát từng hành động bạn làm. Quan sát từng ý nghĩ thoáng qua trong tâm trí bạn. Quan sát mọi ham muốn, cái chiếm sở hữu bạn. Quan sát ngay cả những cử chỉ nhỏ nhặt nhất - bước, nói, ăn, tắm. Cứ quan sát mọi thứ. Để mọi điều trở thành cơ hội cho quan sát.
Đừng ăn một cách máy móc, đừng cứ tọng thức ăn vào bản thân bạn - rất quan sát. Nhai thật kĩ và quan sát... và bạn sẽ ngạc nhiên là từ trước tới giờ bạn đã bỏ lỡ biết bao nhiêu điều, bởi vì mỗi cái nhai sẽ cho bạn thoả mãn vô cùng; nếu bạn ăn một cách có quan sát, nó sẽ trở nên ngon hơn. Ngay cả thức ăn thông thường cũng ngon nếu bạn ăn có quan sát; và nếu bạn không quan sát, bạn có thể ăn những thức ăn ngon nhất nhưng sẽ không có vị ngon gì trong đó cả, bởi vì không có ai quan sát. Bạn đơn giản cứ tọng các thứ vào bản thân mình.
Ăn từ tốn, có quan sát; mỗi miếng đều phải được nhai, nếm. Ngửi, chạm, cảm thấy cơn gió thoảng và tia sáng mặt trời. Nhìn trăng và trở thành vũng nước im lặng của quan sát, và trăng sẽ được phản chiếu trong bạn với cái đẹp vô cùng. Đi trong đời vẫn còn quan sát liên tục.
Lần nọ lần kia bạn sẽ quên. Đừng trở nên khổ vì điều đó; điều đó là tự nhiên. Trong hàng triệu kiếp sống bạn chưa bao giờ thử quan sát, cho nên điều đơn giản, tự nhiên là bạn cứ quên đi quên lại mãi. Nhưng khoảnh khắc bạn nhớ, lại quan sát.
Nhớ một điều: khi bạn nhớ rằng bạn quên quan sát, đừng trở nên hối hận, đừng ăn năn; bằng không, lần nữa bạn phí thời gian. Đừng cảm thấy khổ: “Mình lại bỏ lỡ rồi.” Đừng bắt đầu cảm thấy, “Mình là kẻ tội lỗi.” Đừng bắt đầu lên án bản thân mình, bởi vì điều này cực kì phí thời gian. Đừng bao giờ ăn năn về quá khứ! Sống trong khoảnh khắc này. Nếu bạn đã quên, thì sao? Điều đó tự nhiên mà - điều đó đã thành thói quen, và thói quen khó chết. Và đây không phải là thói quen tiêm nhiễm trong một kiếp sống; đây là thói quen đã tiêm nhiễm trong hàng triệu kiếp. Cho nên nếu bạn có thể vẫn còn quan sát cho dù vài khoảnh khắc thôi, cảm thấy biết ơn Thượng đế đi - cảm thấy cám ơn. Cho dù vài khoảnh khắc đó còn nhiều hơn là được trông đợi.
Người đó quan sát. Người đó trong vắt.
Và khi bạn quan sát, sáng tỏ nảy sinh. Tại sao sáng tỏ nảy sinh từ tính quan sát? Bởi vì bạn càng trở nên quan sát hơn, mọi hấp tấp của bạn càng chậm lại hơn. Bạn trở thành duyên dáng hơn. Khi bạn quan sát, tâm trí huyên thuyên của bạn bớt huyên thuyên đi, bởi vì năng lượng đã dùng cho việc huyên thuyên chuyển đi và trở thành việc quan sát - nó là cùng năng lượng! Bây giờ ngày càng nhiều năng lượng sẽ được biến đổi thành quan sát và tâm trí sẽ không được nuôi dưỡng nữa. Các ý nghĩ sẽ bắt đầu loãng ra, chúng sẽ bắt đầu mất sức nặng. Dần dần, dần dần chúng sẽ bắt đầu chết. Và khi các ý nghĩ bắt đầu chết đi, sáng tỏ nảy sinh. Bây giờ tâm trí bạn trở thành tấm gương.
Người đó hạnh phúc làm sao! Và khi người ta sáng tỏ, người ta phúc lạc. Chính lẫn lộn là căn nguyên của khổ; chính sáng tỏ là nền tảng của phúc lạc.
Người đó hạnh phúc làm sao!
Vì người đó thấy rằng tỉnh thức là cuộc sống.
Và bây giờ người đó biết không có cái chết, bởi vì tỉnh thức không bao giờ có thể bị phá huỷ. Khi cái chết tới, bạn sẽ quan sát nó nữa. Bạn sẽ chết trong khi quan sát; việc quan sát sẽ không chết. Thân thể bạn sẽ biến mất, cát bụi trở về với cát bụi, nhưng việc quan sát của bạn sẽ vẫn còn; nó sẽ trở thành một phần của toàn thể vũ trụ. Nó sẽ trở thành tâm thức vũ trụ.
Trong những khoảnh khắc này các nhà tiên tri của Upanishad tuyên bố, “Aham Brahmasmi! - Ta là tâm thức vũ trụ!” Chính trong không gian đó mà al-Hillaj Mansoor đã công bố, “Ana’l Haq! - Ta là chân lí!”
Đây là những đỉnh cao chính là quyền tập ấn của bạn. Nếu bạn không đạt được chúng, thì chỉ bạn là có trách nhiệm chứ không người nào khác.
Người đó hạnh phúc làm sao!
Vì người đó thấy rằng tỉnh thức là cuộc sống
Người đó hạnh phúc làm sao,
Đi theo con đường của người thức tỉnh.
Với kiên nhẫn lớn lao
Người đó thiền, tìm kiếm Tự do và hạnh phúc.
Lắng nghe những lời này thật chăm chú: Với kiên nhẫn lớn lao... Chừng nào bạn chưa đem toàn thể nỗ lực ra để đánh thức bản thân mình điều đó sẽ không xảy ra đâu. Nỗ lực bộ phận là vô tích sự. Bạn không thể chỉ làng nhàng, bạn không thể chỉ hờ hững. Điều đó không ích gì. Nước ấm không thể bay hơi được, và nỗ lực hờ hững để tỉnh táo nhất định thất bại. Biến đổi xảy ra chỉ khi bạn đặt toàn thể năng lượng của bạn vào trong nó. Khi bạn đang sôi lên ở nhiệt một trăm độ, thế thì bạn bay hơi, thế thì thay đổi giả kim thuật xảy ra. Thế thì bạn bắt đầu bốc lên.
Bạn chưa quan sát điều đó sao? - nước chảy xuống, nhưng hơi nước bốc lên. Đích xác cùng điều đó xảy ra: vô thức đi xuống, ý thức đi lên. Và một điều nữa: đi lên là đồng nghĩa với vào trong, và đi xuống là đồng nghĩa với ra ngoài. Ý thức đi vào trong, vô thức đi ra ngoài. Vô thức làm cho bạn quan tâm tới thứ khác - mọi vật, mọi người, nhưng nó bao giờ cũng là những thứ khác. Vô thức giữ bạn hoàn toàn trong bóng tối; mắt bạn cứ tập trung vào người khác. Nó tạo ra một loại ngoại diên, nó làm cho bạn thành hướng ngoại. Ý thức tạo ra nội tâm, nó làm cho bạn hướng nội; nó đưa bạn vào trong, ngày càng sâu hơn.
Và ngày càng sâu hơn có nghĩa là ngày càng cao hơn; chúng trưởng thành đồng thời, như cây cối trưởng thành vậy. Bạn chỉ thấy nó vươn lên cao, bạn không thấy rễ của nó đi xuống dưới. Nhưng trước hết rễ phải đi xuống, chỉ thế thì cây mới có thể vươn lên cao được. Nếu cây muốn đạt tới trời, thì nó sẽ phải đâm rễ xuống tận đáy, xuống chiều sâu thấp nhất có thể được. Cây trưởng thành đồng thời theo cả hai hướng. Đích xác theo cùng cách thức đó tâm thức đi lên... đi xuống, nó đâm rễ vào trong bản thể bạn.
Tôi đã nói về chín trạng thái của tâm thức. Các nhánh tâm thức của bạn sẽ đi lên, từ ý thức - cái gọi là ý thức - tới ý thức thực, từ ý thức thực tới siêu ý thức, từ siêu ý thức tới ý thức tập thể, từ ý thức tập thể tới ý thức vũ trụ. Và rễ của bạn sẽ trưởng thành từ cái gọi là ý thức tới tiềm thức, từ tiềm thức tới vô thức, từ vô thức tới vô thức tập thể, từ vô thức tập thể tới vô thức vũ trụ. Khoảnh khắc rễ của bạn đạt tới tự nhiên, hoa của bạn bắt đầu nở trong Thượng đế. Do đó tự nhiên và Thượng đế là không phân chia - trong người thức tỉnh chúng được bắc cầu qua.
Người thức tỉnh thực sự không chống lại tự nhiên, không thể thế được; người đó tất cả đều ủng hộ tự nhiên. Thực ra, người đó giúp bạn theo cả hai đườngh - một mặt vào tự nhiên, mặt kia vào Thượng đế. Đó là nỗ lực của tôi ở đây. Tôi muốn bạn được tự nhiên, tự nhiên đến mức rễ của bạn bắt vào cốt lõi sâu nhất của bản thể bạn - bởi vì đó là cách duy nhất để giúp bạn trưởng thành đi lên. Rễ phải cứng cáp trong đất, mạnh mẽ đến mức chúng có thể hỗ trợ cho cây tuyết tùng Li băng vươn lên cao. Nếu nó phải đi lên vài chục mét chiều cao, nó cần rễ lớn. Bởi vì điều này mà tôi đang bị hiểu lầm trong cả nước này nói riêng, và trên khắp thế giới nói chung.
Rễ phải đạt tới năng lượng dục, bởi vì đó là chỗ thấp nhất, cái đáy trong bạn; chỉ thế thì hoa của bạn có thể nở trong siêu tâm thức, trong samadhi. Hoa sen có thể nở chỉ nếu nó bắt rễ sâu trong bùn trong hồ. Đây là khả năng chỉ có với kiên nhẫn lớn lao. Con người như người đó hiện tại là rất lười biếng; bởi vì người đó ngủ, người đó lười biếng.
Câu chuyện này là về một anh chồng và một cô vợ đồng ý với nhau rằng bất kì ai nói trước thì sẽ phải đi đóng cửa ra phố mà ngẫu nhiên đang bị để mở. Kẻ trộm thấy cửa mở, đi vào, và thấy một đôi im lặng không di chuyển, nó liền ăn hết thức ăn trên bàn, lấy các thứ có giá trị và cuối cùng hiếp cô vợ, và đề nghị cạo râu anh chồng.
“Thôi được,” anh chồng bật khóc vào lúc đó, “Tôi sẽ đi đóng cái cửa chết tiệt này!”
Mọi người đều thực sự lười, lười lắm. Lười là một phần của ngủ. Do đó, kiên nhẫn, nỗ lực, nỗ lực liên tục, nỗ lực thường xuyên sẽ được cần tới. Bạn sẽ sa ngã đi sa ngã lại mãi. Bạn đang trong trạng thái say bét nhè; do đó ngã lùi lại là tha thứ được. Nhưng khoảnh khắc bạn nhận ra, bất kì khi nào một tia sáng xảy ra và bạn nhớ, đưa toàn bộ năng lượng vào trong nó lần nữa. Đừng vẫn còn xuẩn ngốc nữa, đừng vẫn còn ngủ nữa, đừng còn say sưa nữa.
Có ba kẻ say khướt cò bợ đang bước đi trên phố. Một người đang mang ổ bánh mì, người khác mang bình rượu vang còn người thứ ba cầm cánh cửa ô tô. Khi họ bước đi cùng nhau, một cảnh sát chặn họ lại và hỏi, “Các anh đi đâu?”
“Đi cắm trại,” người đem bánh mì nói.
“Đi cắm trại sao?” viên cảnh sát nói. “Bánh mì tôi có thể hiểu được - các anh có thể ăn nó khi các anh đói; rượu các anh có thể uống khi các anh khát. Nhưng tại sao cánh cửa ô tô? - điều đó tôi không thể nào hiểu nổi.”
“Thế này,” người mang cánh cửa nói, “nếu trời quá lạnh tôi có thể vặn cửa sổ lên.”
Bạn sẽ phải thoát ra nhiều tầng say. Tham là trạng thái say, và mọi người đều tham - tham thêm nữa. Tâm trí liên tục đòi thêm nữa, và nhu cầu không bao giờ chấm dứt. Nếu bạn theo đuổi tiền bạc, tiền nữa. Nếu bạn theo đuổi quyền lực chính trị, quyền nữa. Nếu bạn theo duổi danh vọng, danh nữa. Nếu bạn quan tâm tới việc trở thành khiêm tốn, thế thì khiêm tốn nữa, bởi vì bạn phải là người khiêm tốn nhất trên thế giới. Nếu bạn theo đuổi từ bỏ, thế thì cứ ngày càng từ bỏ. Không bao giờ có bất kì kết thúc nào cho nhu cầu thường xuyên của tâm trí cả - nữa...
Tham là say, nó là ngủ. Giận cũng vậy. Bạn chưa từng quan sát rằng trong giận bạn có thể làm những điều mà bạn không thể làm được lúc bình thường sao? Bạn nói những điều rồi bạn lại hối hận về sau. Và bạn không thể tin được về sau rằng bạn đã thốt ra những điều vô nghĩa thế, rằng bạn có khả năng thốt ra những điều vô nghĩa thế. Điều gì đã xảy ra khi bạn giận? Bạn đang trong trạng thái say.
Trở nên quan sát hơn và giận sẽ bớt đi, tham sẽ bớt đi và ghen sẽ bớt đi.
Tôi không nói với bạn: đừng giận, bởi vì đó là điều đã được nói cho bạn qua nhiều thời đại. Cái gọi là các thánh nhân của bạn đã từng bảo bạn, “Đừng giận!” cho nên bạn đã học cách kìm nén giận. Nhưng bạn càng kìm nén giận, bạn càng tạo ra vô thức lớn hơn trong bản thân bạn. Bạn đang ném mọi thứ vào tầng hầm, và thế rồi bạn sẽ sợ đi vào trong tầng hầm, bởi vì tất cả những thứ này - giận và tham và dục - đều có đó. Bạn biết! Bạn đã ném chúng vào đó. Mọi loại rác rưởi có đó, và những thứ nguy hiểm, độc hại. Bạn sẽ không sẵn sàng đi vào trong.
Đó là lí do tại sao mọi người không muốn đi vào trong, bởi vì đi vào trong nghĩa là phải đương đầu với tất cả những điều này. Và không ai muốn đương đầu với những điều này; người ta muốn tránh chúng. Trong hàng nghìn năm bạn đã từng được bảo phải kìm nén, và bởi vì kìm nén bạn đã trở thành ngày càng vô thức hơn. Tôi không thể nói cho bạn kìm nén. Tôi muốn nói cho bạn làm điều đối lập lại: đừng kìm nén - quan sát, tỉnh táo. Khi giận kéo tới, ngồi trong phòng, đóng cửa lại và quan sát nó.
Bạn chỉ biết hai cách: hoặc là giận, bạo hành, phá phách, hoặc là kìm nén nó. Bạn không biết cách thứ ba, và cách thứ ba này là cách thức của chư phật: không mê đắm không kìm nén - quan sát. Mê đắm tạo ra thói quen. Nếu bạn trở nên giận hôm nay và ngày mai lại giận, rồi ngày kia lại giận, bạn đang tạo ra thói quen; bạn đang ước định bản thân mình ngày càng giận hơn.
Cho nên mê đắm không thể đưa bạn ra khỏi nó. Đó là nơi phong trào trưởng thành hiện đại bị mắc kẹt. Các nhóm đương đầu, trị liệu nguyên thuỷ, động thái, năng lượng sinh học... và biết bao nhiêu điều đẹp đẽ khác đang xảy ra trên thế giới, nhưng họ đều mắc kẹt tại điểm nào đó. Vấn đề của họ là: họ dạy cách diễn đạt - và nó là tốt, nó là tốt hơn nhiều so với kìm nén. Nếu chỉ có một cách chọn lựa này, kìm nén hay diễn đạt, thế thì tôi sẽ gợi ý diễn đạt. Nhưng đây không phải là lựa chọn thực; còn có phương án thứ ba quan trọng hơn nhiều so với cả hai cách này. Nếu bạn diễn đạt, bạn trở thành thói quen; bạn học bằng cách làm đi làm lại nó - bạn không thể thoát ra khỏi nó.
Trong cộng đồng này có ít nhất năm mươi nhóm trị liệu đang vận hành, bởi những lí do nào đó. Đấy chỉ là để cân bằng cho hàng nghìn năm kìm nén; đấy chỉ là làm cân bằng thôi. Đấy chỉ là để đem tới nhẹ nhàng cho tất cả những điều mà bạn đã kìm nén như người Ki tô giáo, Hindu giáo, Mô ha mét giáo, Jaina giáo, Phật giáo. Đấy chỉ là hoàn tác lại cái hại cũ của hàng thế kỉ mà đã được làm cho bạn.
Nhưng nhớ lấy, những nhóm này không phải là mục đích; chúng chỉ chuẩn bị cho bạn thiền. Chúng không phải là mục đích; chúng chỉ đơn giản nghĩa là hoàn tác lại cái sai của quá khứ. Một khi bạn đã vứt khỏi hệ thống của bạn tất cả những điều bạn đã kìm nén từ trước tới giờ, tôi phải đưa bạn vào quan sát. Bây giờ điều đó sẽ dễ quan sát hơn.
Nhưng bạn không trở thành người nghiện nhóm, bạn không trở thành người cổ động cho nhóm. Có những người hiện nay trên thế giới đang nghiện các nhóm; họ đi hết nhóm nọ sang nhóm kia. Nhóm đụng độ kết thúc - thế thì nhóm chạy ma ra tông khác, rồi nhóm động thái, rồi thế nọ thế kia... Sau chỉ có vài ngày cái ngứa ngáy lại nảy sinh - bởi vì diễn đạt ở đâu? Trong xã hội thông thường họ không thể diễn đạt được, họ phải kìm nén.
Cho nên nhóm trở thành chỉ là lối xả. Xã hội thông thường buộc bạn phải kìm nén, nhóm giúp bạn diễn đạt nhưng bạn không thực sự trưởng thành. Lần nữa bạn sẽ quay lại trong xã hội bình thường, bạn sẽ đi vào tình huống nguy hiểm hơn nhiều. Bạn có thể giết hại ai đó - bạn có nhiều giận thế. Bạn sẽ bị tù, bị giam cầm vĩnh viễn. Hay nếu bạn cứ đánh nhau với mọi người - nếu bạn tát ông chủ ở công sở, nếu bạn đánh vợ, đánh con, đánh chồng - thế thì toàn thể cuộc sống của bạn sẽ trở thành hỗn độn, sẽ không thể nào sống nó được. Cho nên sau vài ngày tích luỹ bạn cần đương đầu khác. Vài ngày đương đầu và bạn cảm thấy nhẹ gánh; trở lại xã hội bạn sẽ lại nặng gánh lần nữa.
Điều này sẽ không ích gì. Đây chỉ là giảm nhẹ tạm thời. Bạn có thể la hét về ham muốn của trái tim bạn trong nhóm trị liệu nguyên thuỷ, nhưng nếu bạn bắt đầu la hét trên đường, thế thì bạn sẽ bị cảnh sát lôi vào đồn. Bạn có thể la hét trong hoàn cảnh của nhóm - điều đó là được phép, có ích, khêu gợi; bạn dược thuyết phục cứ la hét, bởi vì từ thời còn trẻ thơ bạn đã kìm nén nó. Nó đã trở thành vết thương; nó cần được mở ra. Nếu mủ rỉ ra và vết thương được để mở cho gió và mặt trời và mưa, nó sẽ tự chữa lành, bởi vì bạn có năng lượng chữa lành; nó là có sẵn. Nhưng trở lại trong xã hội lần nữa... bạn có thể vẫn còn trong nhóm trị liệu nguyên thuỷ được bao lâu? Trở lại lần nữa trong cùng xã hội cũ, bạn sẽ phải kìm nén; bạn không thể cứ la hét ở đó được.
Thế thì việc la hét tụ lại, thế thì hơi nước sẽ tụ lại. Thế thì một ngày nào đó bạn phải đi vào trong nhóm này lần nữa. Đây là việc làm giảm nhẹ tạm thời; tốt khi nó diễn ra, nhưng nó không thể làm cho bạn thành vị phật được. Đó là nơi mà công xã này khác với các viện như Esalen. Họ kết thúc với các nhóm - chúng ta bắt đầu từ các nhóm. Chỗ họ kết thúc, đích xác từ điểm đó chúng ta bắt đầu.
Và không phải là trùng hợp mà hàng nghìn nhà trị liệu đã trở nên quan tâm tới công trình của tôi. Họ đã tới đây... Trong số các sannyasin của tôi, nhóm lớn nhất so với mọi nghề chuyên môn là nhóm của các nhà trị liệu tâm lí. Bây giờ chúng ta có thể cảm thấy một nhu cầu lớn trên khắp thế giới rằng đương đầu, trị liệu nguyên thuỷ, động thái có thể giúp chút ít làm nhẹ gánh bớt cho mọi người, nhưng chúng không thể giúp làm cho họ thành chư phật được - chúng không thể giúp cho họ trở nên thức tỉnh được.
Mê đắm tạo ra thói quen, kìm nén thu thập chất độc bên trong. Trong mê đắm bạn ném chất độc vào người khác, nhưng họ sẽ không còn im lặng - họ sẽ ném trả lại nó. Điều đó trở thành trận đấu: bạn ném giận của bạn lên người khác, họ ném giận của họ lên bạn - nhưng không ai được giúp đỡ cả, mọi người đều bị hại và tổn thương.
Và nếu bạn kìm nén... Bởi vì cái vô tích sự của mê đắm, các tu sĩ đã bịa ra kìm nén. Nó giữ bạn thoát khỏi nguy hiểm. Kìm nén giữ bạn là công dân tốt, người tử tế. Nó giữ bạn không bị nguy hiểm của việc bị pháp luật bắt giữ, của việc không lâm vào thù hận; nó giữ bạn hoà dịu. Kìm nén giúp bạn trở thành con người xã hội tốt hơn, điều đó đúng. Nhưng nó làm cho bạn bị thương bên trong, chỉ là vết thương, và mủ cứ tụ lại bên trong. Bên ngoài nó vận hành như chất bôi trơn, nhưng bên trong bạn trở nên ngày một điên hơn.
Nếu xã hội này và thế kỉ này là điên khùng nhất trong toàn thể lịch sử, công trạng thuộc về quá khứ. Năm nghìn năm khuyên can thánh thiện cho mọi người - công trạng này thuộc về các thánh nhân đó. Nếu mọi người đang trở nên điên khùng, nếu mọi người đang trở nên mất trí, nếu mọi người đang tự tử, nếu mọi người đang trở thành sát nhân, công trạng này chắc chắn thuộc về mọi cái gọi là các thánh nhân, các tu sĩ, các nhà thuyết giáo, các lãnh tụ. Họ chịu trách nhiệm cho điều đó.
Mới hôm nọ tôi đã kể cho các bạn về chính phủ Canada muốn điều tra, tiến hành cuộc điều tra sâu rộng về công xã này bởi vì một công dân Mĩ, là một sannyasin, đã tự tử, và một người Mĩ khác, cũng là sannyasin, đã phát điên. Bây giờ tôi tự hỏi: người tự tử đó đã sáu mươi tuổi. Ông ta là người Ki tô giáo trong sáu mươi năm, nhưng Ki tô giáo không bị điều tra. Và ông ta đã là sannyasin thậm chí không tới sáu mươi ngày! Công trạng này thuộc về Ki tô giáo, không phải tôi.
Người đã phát điên là một người Tin lành. Bây giờ, tôi bị kết án bởi vì người đó là sannyasin, nhưng nhà thờ Tin lành không bị kết án. Và người đó đã lớn lên như một người Tin lành, người đó sống như một người Tin lành trong ba mươi nhăm năm, và mới chỉ vài ngày đây người đó mới là sannyasin. Bây giờ, xã hội Mĩ không bị kết án.
Đây là logic kì lạ... và tôi đang cố gắng giúp mọi người. Khi người đó tới đây, người đó đã điên rồi. Người đó đã tới đây sau sáu năm phân tâm; bởi vì phân tâm không thể giúp gì cho người đó nên người đó đã tới đây và trở thành một sannyasin. Bởi vì nhà thờ Tin lành và các mục sư không thể giúp cho người đó, cho nên người đó đã tới đây và trở thành sannyasin. Nhưng họ đã làm những việc tốt đến mức khó mà đem người đó trở lại đất được.
Và người đó đã không ở lại đây lâu; người đó đã ở đây chỉ ba tuần. Bây giờ công trạng này không thể thuộc về tôi được. Nếu người đó trở nên điên, tôi không thể có trách nhiệm được. Nhưng logic kì lạ này có đó.
Tại đây nữa cùng logic này tiếp tục. Nếu một sannyasin cư xử sai, tôi bị kết án. Nhưng biết bao nhiêu người Hindu bị bỏ tù hàng ngày - Hindu giáo không bị kết án. Biết bao nhiêu người Mô ha mét giáo cư xử không đúng, nhưng Mô ha mét giáo không bị kết án. Nếu một người Sikh giết ai đó, Sikh giáo không bị kết án. Đây là một thế giới rất ngu xuẩn và ngớ ngẩn.
Mọi người tới tôi để xin giúp đỡ. Nhiều người đã được giúp. Chín mươi chín phần trăm mọi người đã được giúp đỡ. Nhưng một phần trăm đã hư hại nhiều đến mức gần như không thể nào giúp được họ. Họ cũng có thể được giúp đỡ, nhưng tôi không được phép giúp họ.
Chẳng hạn, một người thích ở truồng tới đây, người này thỉnh thoảng ở truồng trước mọi người. Bây giờ người đó có thể được giúp đỡ, dễ dàng được giúp đỡ - nếu người đó được phép đi lại trần truồng. Người đó không nguy hiểm; người đó không làm hại gì cho bất kì ai. Người đó đơn giản mang ý tưởng lập dị này... người đó thích điều đó làm bạn sốc. Đây là cách làm cho bạn bị sốc, đây là cách thu được sự chú ý: ở truồng ra trước mọi người. Nếu người đó đơn giản được phép đi lại trần truồng mà không ai chú ý gì tới người đó cả, người đó sẽ được chữa.
Việc chữa là đơn giản, rất đơn giản! Đừng bị sốc, và đừng chú ý. Điều đó gây chấn động cho bạn và làm bạn để ý rằng người đó là kẻ thích trần truồng. Nếu không ai để ý tới, nếu người đó có thể trần truồng tới bạn và bạn nói với người đó cứ dường như là người đó không trần truồng, người đó sẽ phân vân. Người đó sẽ không thể nào tin được vào điều đang xảy ra nữa. Người đó sẽ đi và nhìn vào gương để xem liệu người đó có trần truồng hay không! Và vấn đề là gì? Nếu không ai chú ý gì và không ai sốc cả, người đó có thể thử mặc quần áo - có thể đây là những người lạ và họ có thể bị sốc bởi việc mặc quần áo chăng!
Mọi người có thể được giúp đỡ, nhưng xã hội không cho phép tôi giúp họ. Thậm chí một phần trăm đó cũng có thể được chữa lành, bởi vì không ai thực sự là không thể được chữa lành. Nhưng sẽ phải cần tới thời gian, sẽ phải cần tới kiên nhẫn.
Phật nói: Với kiên nhẫn lớn lao người đó thiền, tìm kiếm tự do và hạnh phúc.
Thiền - thiền nghĩa là quan sát - và bạn sẽ đạt tới tự do và phúc lạc.
Cho nên tỉnh thức, phản xạ, quan sát. Làm việc với chăm chú và chú ý.
Sống theo cách này
Và ánh sáng sẽ lớn lên trong ông.
Ánh sáng trưởng thành theo cách riêng của nó. Bạn đơn giản trở nên im lặng hơn, quan sát hơn, thiền hơn, và ánh sáng hạ xuống bạn - theo cách riêng của nó. Bạn không cần đi đâu cả.
Bằng quan sát và làm việc
Người chủ làm cho bản thân mình thành hòn đảo.
Ngập lụt không thể tràn lên được.
Việc quan sát của bạn trở thành hòn đảo, thành trì, mà không đam mê, không thèm khát, không tham lam, không giận dữ nào có thể chiếm được. Với hòn đảo đó, lần đầu tiên bạn trở thành cá nhân tích hợp. Lần đầu tiên bạn trở thành con người.
Con người này là tuyệt đối cần thiết hôm nay, con người mới này - homo novus.
Đủ cho hôm nay.
Nhận xét
Đăng nhận xét