Chương 59: Quan sát từ đỉnh đồi

Sách của những bí mật - Tập 4
Book of secrets - Volume 4
Osho


Chương 59: Quan sát từ đỉnh đồi


30 tháng 6 năm 1973, buổi tối tại Bombay, Ấn Độ

86. Giả sử nàng suy ngẫm điều gì đó vượt ra ngoài, nhận thức, vượt ra ngoài sự nắm bắt, vượt ra ngoài chứ không phải không tồn tại - đó chính là nàng.

87. Ta đang tồn tại. Đây là của ta. Đây là điều này. Ôi người yêu dấu, ngay cả trong cái biết như thế cũng là vô biên.


Con người có hai mặt - cả hai, thú vật và thánh thiện. Thú tính thuộc về quá khứ của con người, thánh tính thuộc về tương lai của con người, và điều này gây ra khó khăn. Quá khứ đã trôi qua, nó không còn nữa; chỉ cái bóng của nó vẫn còn rơi rớt. Và tương lai vẫn chỉ là tương lai; nó còn chưa tới; nó chỉ là một giấc mơ, chỉ là một khả năng. Và giữa hai thứ này - cái bóng của quá khứ và giấc mơ của tương lai - tồn tại con người. Con người vừa không là cả hai, vừa là cả hai.

Con người là cả hai bởi quá khứ của con người - con . người đã là con thú. Con người là cả hai bởi tương lai của con người - con người có thể thánh thiện. Và con người không là cả hai, bởi vì quá khứ không còn nữa và tương lai còn chưa tới.

Con người tồn tại như là một sự căng ra giữa hai tình trạng này: cái đã là và cái có thể là. Điều này gây ra một sự xung đột, một cuộc vật lộn không ngừng để nhận ra, để là một cái gì đó. Theo một nghĩa nào đó, con người không tồn tại. Con người chỉ là một bước từ con thú tới đấng linh thiêng - và một bước nghĩa là không ở đâu. Nó đã ở đâu đó và nó sẽ ở nơi nào đó, nhưng ngay bây giờ nó không ở đâu, chỉ lơ lửng trong không trung.

Cho nên bất cứ điều gì con người đang làm - tôi nói bất cứ điều gì - anh ta cũng không bao giờ thỏa mãn, không bao giờ hài lòng, bởi vì hai thực tại hoàn toàn đối lập gặp gỡ trong anh ta. Nếu con thú thỏa mãn thì thánh nhân không hài lòng. Nếu thánh nhân hài lòng thì con thú không thỏa mãn. Một phần luôn luôn không mãn nguyện.

Nếu bạn hướng tới con thú, bạn thỏa mãn một phần con người bạn, nhưng ngay lập tức sự bất mãn nảy sinh trong sự thỏa mãn đó, bởi vì phần đối lập, tương lai của bạn trái ngược với nó. Sự thỏa mãn của con thú là sự bất mãn của tiềm năng tương lai của bạn. Nếu bạn thỏa mãn tiềm năng thánh tính của mình thì con thú lại nổi loạn; nó cảm thấy bị tổn thương. Một sự bất mãn tuyệt đối nảy sinh trong bạn. Bạn không thể thỏa mãn cả hai, nếu thỏa mãn cái này thì cái kia bất mãn.

Tôi nhớ lại một giai thoại. Một người say mê xe thể thao tới cổng thiên đường, và thánh Peter đã chào đón anh ta. Anh ta đến cùng với chiếc Jaguar của mình, và điều đầu tiên anh ta hỏi thánh Peter là: “Trên thiên đường có những con đường cao tốc đẹp không?”

Thánh Peter nói, “Có, họ có những con đường cao tốc đẹp nhất, nhưng cũng có khó khăn là ở thiên đường họ không cho phép xe ô tô”.

Người mê tốc độ nói, “Thế thì nó không dành cho tôi. Xin hãy bố trí cho tôi được đi tới chỗ khác. Tôi sẽ tới địa ngục. Tôi không thể rời chiếc Jaguar của mình”.

Thế nên, sự sắp xếp đã được tiến hành. Anh ta tới địa ngục, Satan chào đón anh ta ở cổng và nói rất vui khi gặp anh ta. Vị đó nói, “Ngươi cũng như ta; ta cũng là người yêu thích những chiếc Jaguar”.

Người mê tốc độ nói, “Hay quá, cho tôi xin bản đồ hệ thống đường cao tốc của ngài”.

Satan trở nên buồn bã. Ông ta nói, “Thưa ngài, ở dưới đây chúng tôi không có đường cao tốc nào - những chiếc xe đó chỉ để cho vui!”

Đây là tình trạng của con người. Con người là hai mặt, một sự tồn tại kép, phân đôi. Nếu bạn thỏa mãn một thứ, thì một cái gì đó trở nên thất vọng với phần kia của bạn. Nếu bạn không làm thế, thì phần kia lại bất mãn. Một cái gì đó luôn đang thiếu. Và bạn không thể thỏa mãn cả hai, bởi vì chúng hoàn toàn đối lập.

Và mọi người đang làm cái điều không thể này, đang cố làm điều này - tìm một sự thỏa hiệp ở đâu đó để cả hai, thiên đường và địa ngục, có thể gặp gỡ; để cơ thể và linh hồn, phần thấp hơn và phần cao hơn, quá khứ và tương lai, có một sự thỏa hiệp và có thể gặp gỡ ở đâu đó. Chúng ta đã làm điều đó trong nhiều kiếp. Nó đã không xảy ra, và nó sẽ không xảy ra. Toàn bộ nỗ lực là ngớ ngẩn, là không thể.

Những kỹ thuật này không liên quan đến việc tạo ra một sự thỏa hiệp trong bạn. Những kỹ thuật này là để mang đến cho bạn một sự siêu việt. Những kỹ thuật này không phải để thỏa mãn tính thánh chống lại tính thú. Đó là điều không thể. Điều đó sẽ tạo ra trong bạn nhiều rối loạn hơn, nhiều bạo lực hơn, nhiều vật lộn hơn. Những kỹ thuật này không phải để thỏa mãn tính thú của bạn chống lại tính thánh. Những kỹ thuật này chỉ để vượt lên sự lưỡng cực. Chúng không hỗ trợ cho tính thú cũng như tính thánh.

Nên nhớ đó là sự khác biệt cơ bản giữa tantra với các tôn giáo khác. Tantra không phải là một tôn giáo, bởi vì tôn giáo về cơ bản có nghĩa là: ủng hộ tính thánh và chống lại tính thú - cho nên mọi tôn giáo đều là một phần của xung đột đó. Tantra không phải là một kỹ thuật để đấu tranh, nó là kỹ thuật để siêu việt. Nó không phải là để chiến đấu với tính thú, nó không phải là ủng hộ tính thánh. Nó chống lại mọi sự lưỡng cực. Thực ra nó không ủng hộ cũng không chống lại. Nó đơn giản là tạo ra một sức mạnh thứ ba trong bạn, một trung tâm thứ ba của sự tồn tại, nơi đó bạn không là thú tính cũng không là thần thánh. Với tantra thì điểm thứ ba đó là advaita, điểm thứ ba đó là phi-lưỡng-cực.

Tantra nói bạn không thể đạt tới cái nhất thể thông qua việc đấu tranh với nhị nguyên. Bạn không thể đạt được phi- nhị nguyên bằng cách chọn một cực trong cuộc chiến với nhị nguyên. Sự lựa chọn sẽ không dẫn bạn tới cái nhất thể; chỉ có sự chứng kiến phi lựa chọn sẽ là có thể.

Điều này là rất nền tảng đối với tantra, và vì điều này mà tantra chưa bao giờ thực sự được hiểu đúng. Nó đã bị hiểu sai từ rất lâu, suốt nhiều thế kỷ, bởi vì khi tantra nói nó không chống lại tính thú, bạn bắt đầu cảm thấy như thể tantra ủng hộ tính thú. Và khi tantra nói nó không ủng hộ tính thánh, bạn bắt đầu nghĩ rằng tantra chống lại tính thánh.

Thực ra, tantra ủng hộ một sự chứng kiến phi lựa chọn. Không cùng với tính thú, không cùng với tính thánh, và không tạo ra một sự xung đột. Chỉ quay lại, chỉ đi khỏi, chỉ tạo ra một khoảng trống giữa bạn và sự đối ngẫu này và trở thành năng lượng thứ ba, sự chứng kiến, từ đó bạn có thể thấy cả hai, con thú và vị thánh.

Tôi đã nói với bạn rằng tính thú là quá khứ và tính thánh là tương lai, và quá khứ thì đối nghịch với tương lai. Tantra là hiện tại. Nó không là quá khứ cũng không là tương lai. Nó là chính thời điểm này, không thuộc về quá khứ và cũng không hướng đến tương lai. Đừng khao khát tương lai và cũng đừng bị áp đặt bởi quá khứ. Đừng cho phép quá khứ trở thành sự ám ảnh và đừng tạo ra sự phóng chiếu nào về tương lai. Giữ nguyên là thật tại chính thời điểm nảy, ở đây và bây giờ, và bạn siêu việt lên. Thế thì bạn không là con thú cũng không là vị thánh.

Đối với tantra, được như thế là Thượng đế. Được như thế, trong khoảnh khắc như thế, khi quá khứ không còn liên quan và tương lai không được tạo ra, bạn được tự do, bạn là tự do.

Theo nghĩa này thì những kỹ thuật này không phải là tôn giáo, bởi vì tôn giáo luôn luôn đối lập với tính thú. Tôn giáo tạo ra một sự xung đột. Cho nên nếu bạn thực sự là tôn giáo, bạn sẽ trở nên tâm thần phân liệt, bạn sẽ bị chia tách. Mọi nền văn minh tôn giáo đều là những nền văn minh chia tách. Chúng tạo ra chứng loạn thần kinh, bởi vì chúng tạo ra xung đột nội tại. Chúng chia bạn thành hai, và một phần của con người bạn trở thành kẻ thù. Thế rồi toàn bộ năng lượng của bạn bị tiêu tan bởi việc chiến tranh với chính mình.

Theo nghĩa đó thì tantra không phải là tôn giáo, bởi vì tantra không tin vào bất cứ xung đột nào, bất cứ bạo lực nào. Và tantra nói không chiến tranh với chính mình. Chỉ nhận biết. Đừng hung hăng và bạo lực với chính mình. Chỉ là một nhân chứng, một người quan sát. Trong thời điểm quan sát bạn không là cả hai; cả hai bộ mặt đều biến đi. Trong thời điểm chứng kiến đó bạn không là con người. Bạn chỉ đơn thuần tồn tại. Bạn tồn tại mà không có bất cứ nhãn mác nào. Bạn tồn tại mà không có cái tên nào. Bạn tồn tại mà không có tiêu chuẩn nào. Bạn không cụ thể là bất cứ ai - chỉ là một sự hiện hữu đơn thuần, một bản thể thuần khiết. Những kỹ thuật này là để hướng đến bản thể thuần khiết đó.

Bây giờ tôi sẽ thảo luận về các kỹ thuật.

Kỹ thuật đầu tiên:

Giả sử nàng suy ngẫm về điều gì đó vượt ra ngoài nhận thức, vượt ra ngoài sự nắm bắt, vượt ra ngoài chứ không phải không tồn tại - đó chính là nàng.

Giả sử nàng suy ngẫm về điều gì đó vượt ra ngoài nhận thức - đó là điều không thể nhìn thấy, không thể nhận thức. Nhưng bạn có thể tưởng tượng điều gì đó không thể nhìn thấy không? Sự tưởng tượng luôn là về những gì có thể nhìn thấy. Làm sao bạn có thể tưởng tượng điều gì đó, làm sao bạn có thể giả sử điều gì đó mà nó không thể được nhận thức?

Những gì mà bạn có thể nhận thức thì bạn có thể tưởng tượng. Bạn thậm chí không thể mơ cái gì đó không thể được nhìn thấy, không thể được hình dung. Chính vì vậy mà những giấc mơ của bạn là những cái bóng của thực tại. Ngay cả sự tưởng tượng của bạn cũng không phải là sự tưởng tượng thuần khiết, bởi vì dù bạn có thể tưởng tượng gì thì bằng cách nào đó bạn cũng đã biết. Bạn có thể tạo ra những sự kết hợp mới, nhưng mọi nhân tố của sự kết hợp thì đã được biết và được nhận thức.

Bạn có thể tưởng tượng một ngọn núi bằng vàng đang bay trên bầu trời như một đám mây. Bạn chưa nhận thức được một thứ như thế, nhưng bạn đã nhận thức được một đám mây, bạn đã nhận thức được một ngọn núi, bạn đã nhận thức được vàng. Ba yếu tố này có thể được kết hợp lại. Sự tưởng tượng không phải là nguyên bản; nó luôn luôn là sự kết hợp điều gì đó mà bạn đã nhận thức.

Kỹ thuật này nói:

Giả sử nàng suy ngẫm về điều gì đó vượt ra ngoài nhận thức.

Đó là điều không thể, nhưng chính vì thế mà nó lại đáng để thực hiện, bởi vì trong chính nỗ lực đó mà điều gì đó sẽ xảy đến với bạn. Không phải là bạn sẽ trở nên có khả năng nhận thức - nếu bạn cố gắng nhận thức điều gì đó mà bạn không thể nhận thức, thì sẽ mất đi mọi sự nhận thức. Bằng chính nỗ lực đó, nếu bạn cố gắng nhìn cái gì đó mà bạn chưa bao giờ nhìn thấy thì mọi cái mà bạn đã nhìn thấy sẽ biến mất.

Nếu bạn nỗ lực một cách kiên trì, nhiều hình ảnh sẽ đến với bạn - bạn phải loại bỏ chúng đi, bởi vì bạn biết rằng bạn đã nhìn thấy điều này; điều này có thể được nhận thức. Có thể về mặt thực tế bạn chưa nhìn thấy nó như nó tồn tại, nhưng ngay cả nếu bạn có thể tưởng tượng nó thì nó có thể được nhận thức. Hãy loại bỏ nó. Liên tục loại bỏ. Kỹ thuật này nói phải kiên nhẫn với cái không thể được nhận thức.

Điều gì sẽ xảy ra? Nếu bạn liên tục loại bỏ, đó sẽ là một nỗ lực gian khổ, bởi vì nhiều hình ảnh sẽ nổi lên. Tâm trí bạn sẽ cung cấp nhiều hình ảnh, nhiều giấc mơ; nhiều khái niệm, nhiều biểu tượng sẽ đến. Lúc này tâm trí bạn sẽ tạo ra những sự kết hợp, nhưng cứ liên tục loại bỏ trừ khi xuất hiện cái gì đó mà bạn không thể nhận thức được. Đó là gì? Nếu bạn cứ liên tục loại bỏ thì sẽ không có gì xảy ra với bạn như là một đối tượng; sẽ chỉ có màn hình tâm trí mà không có hình ảnh, không có biểu tượng, không có giấc mơ, không có bức tranh nào trên nó. Tại thời điểm đó, một sự biến hình xảy ra. Khi chỉ có màn hình mà không có bất cứ hình ảnh nào, bạn trở nên nhận ra chính mình. Bạn trở nên nhận ra người nhận thức. Khi không có gì được nhận thức, toàn bộ sự chú ý thay đổi. Toàn bộ ý thức phản chiếu lại. Khi bạn không có gì để nhìn, lần đầu tiên bạn trở nên nhận ra cái ta của riêng mình. Bạn bắt đầu nhìn thấy chính mình.

Câu kinh này nói:

Giả sử nàng suy ngẫm về điều gì đó vượt ra ngoài nhận thức, vượt ra sự nắm bắt, vượt ra ngoài chứ không phải không tồn tại - đó chính là nàng.

Khi đó bạn xuất hiện với chính mình. Lần đầu tiên bạn sẽ trở nên nhận ra người đã nhận thức, đã nắm bắt, đã biết. Nhưng chủ thể này luôn luôn ẩn trong các khách thể. Bạn biết cái này cái nọ, nhưng bạn không bao giờ biết người biết. Người biết bị lẫn trong cái biết.

Tôi nhìn thấy bạn rồi tôi nhìn thấy ai đó khác, và quá trình này cứ tiếp diễn. Trong suốt cuộc đời tôi sẽ thấy điều này, điều kia, và tôi sẽ tiếp tục thấy và thấy. Và người thấy, người đã thấy quá trình này thì lại bị lãng quên, bị lẫn trong đám đông. Đám đông gồm những khách thể, và chủ thể bị lẫn trong đó.

Câu kinh này nói nếu bạn cố gắng suy ngẫm về điều gì đó vượt ra ngoài nhận thức, vượt ra ngoài sự nắm bắt - bạn không thể nắm bắt bởi tâm trí - vượt ra ngoài chứ không phải không tồn tại... Ngay lập tức tâm trí sẽ nói rằng nếu có cái gì đó mà bạn không thể nhìn thấy và không thể nắm bắt, thì nó không tồn tại. Tâm trí sẽ ngay lập tức phản ứng rằng nếu cái gì đó mà bạn không thể nhìn được, không thể nhận thức được, không thể nắm bắt được, thì nó không tồn tại. Tâm trí sẽ nói rằng nó không tồn tại. Đừng trở thành nạn nhân của tâm trí.

Câu kinh này nói: ... vượt ra ngoài nhận thức, vượt ra ngoài sự nắm bắt, vượt ra ngoài chứ không phải không tồn tại. Tâm trí sẽ nói rằng đây không là gì, cái này không thể tồn tại, đây là cái không hiện hữu. Câu kinh nói, đừng tin vào nó. Có một cái gì đó mà nó là vượt lên cái không hiện hữu, nó tồn tại mà bạn không thể nhận thức được và không thể nắm bắt được: đó chính là bạn.

Bạn không thể nhận thức được chính mình, bạn có thể không? Bạn có thể tưởng tượng ra bất cứ tình huống nào mà bạn có thể gặp chính mình, bạn có thể biết chính mình trong đó không? Bạn có thể liên tục sử dụng từ “biết-chính-mình” và điều đó là tuyệt đối ngớ ngẩn, bởi vì bạn không thể biết cái ta đó. Cái ta đó luôn là người biết. Nó không thể được quy về thành cái biết, nó không thể được quy về thành một khách thể.

Chẳng hạn, nếu bạn nghĩ rằng mình có thể biết cái ta đó, thì cái ta mà bạn biết sẽ không phải là cái ta của bạn, nhưng người đang biết cái ta thì sẽ là cái ta đó. Bạn sẽ luôn luôn giữ nguyên là người biết; bạn không thể trở thành cái biết. Bạn không thể đẩy bạn ra trước mặt mình; bạn sẽ luôn lùi lại sau. Bất cứ điều gì bạn biết thì cũng không phải là bạn - điều này có nghĩa rằng bạn không thể biết nó. Bạn không thể biết nó theo cách bạn biết những thứ khác.

Tôi không thể nhìn thấy chính mình theo cách tôi nhìn thấy bạn. Ai sẽ nhìn? Bởi vì mọi mối liên hệ của kiến thức, cái nhìn, sự nhận thức, có nghĩa là có ít nhất hai thứ: cái biết và người biết. Theo nghĩa này thì “biết-chính-mình” là không thể, bởi vì chỉ có một. Ở đó người biết và cái biết là một; người quan sát và đối tượng được quan sát là một. Bạn không thể biến đổi chính mình thành một đối tượng.

Thế nên, cụm từ “biết-chính-mình” là sai, nhưng nó hàm chứa một cái gì đó, nó nói một điều gì đó đúng. Bạn có thể biết mình theo một nghĩa rất khác, theo một nghĩa tuyệt đối khác với cách bạn biết những thứ khác. Khi không có gì để biết, khi mọi đối tượng đã biến mất, khi mọi thứ có thể được nhận thức và được nắm bắt không còn nữa, khi bạn đã loại bỏ hết, bỗng nhiên bạn trở nên nhận ra chính mình. Và sự nhận ra này không phải là đối ngẫu: không có khách thể và không có chủ thể. Chỉ đơn thuần là tính chủ quan.

Sự nhận biết này là một dạng khác của biết. Sự nhận biết này mang đến cho bạn một chiều hướng khác của tồn tại. Bạn không bị chia thành hai. Bạn nhận ra chính mình. Bạn đang không nhận thức được nó, bạn không thể nắm bắt nó, song nó vẫn có thực - là điều thực nhất.

Thử nghĩ theo cách này. Chúng ta có năng lượng: năng lượng đó liên tục di chuyển tới các đối tượng. Năng lượng không thể là tĩnh. Nên nhớ đó là một trong những quy luật tối thượng: năng lượng không thể là tĩnh, nó luôn luôn động. Nó không thể khác được. Tính năng động là chính bản chất của nó - năng lượng chuyển động. Khi tôi nhìn thấy bạn, năng lượng của tôi di chuyển tới bạn. Khi tôi nhận thức bạn, một vòng tròn được hình thành. Năng lượng của tôi di chuyển tới bạn, rồi nó quay trở lại tôi - một vòng tròn được tạo ra.

Nếu năng lượng của tôi di chuyển tới bạn và không quay trở lại, tôi sẽ không biết bạn. Một vòng tròn là cần thiết: năng lượng phải đi ra và sau đó quay lại tôi. Cùng với việc quay trở lại, nó mang bạn tới tôi. Tôi biết bạn. Sự hiểu biết có nghĩa là năng lượng đã tạo ra một vòng tròn. Nó đã di chuyển từ chủ thể tới khách thể, và sau đó nó quay trở lại với nguồn ban đầu. Nếu tôi cứ tiếp tục sống theo cách này - tạo ra những vòng tròn với những người khác - tôi sẽ không bao giờ biết chính mình, bởi vì năng lượng của tôi được rót đầy bởi năng lượng của người khác. Nó mang những hình ảnh đó, nó truyền những hình ảnh đó tới tôi. Đây là cách bạn tích lũy kiên thức.

Kỹ thuật này nói cứ để khách thể biến đi. Cho phép năng lượng của bạn di chuyển vào trống rỗng, vào rỗng không. Nó đi khỏi bạn, nhưng không có đối tượng nào để nó nắm bắt, không có đối tượng nào để nó nhận thức. Nó di chuyển và quay trở lại bạn thông qua sự trống rỗng; không có khách thể. Nó không mang kiến thức tới cho bạn. Nó trở nên trống rỗng, rỗng không, thuần khiết. Nó không mang gì đến. Nó chỉ mang chính nó. Nó trở nên nguyên vẹn - không có gì đã vào nó; nó vẫn giữ nguyên thuần khiết.

Đây là toàn bộ quá trình thiền. Bạn đang ngồi tĩnh lặng, năng lượng của bạn đang di chuyển. Không có khách thể nào để năng lượng có thể bị ô nhiễm, có thể trở nên bị vướng mắc, có thể trở nên tạo dấu ấn, có thể trở thành một với nó. Thế rồi bạn mang nó quay trở lại với chính mình. Không có khách thể, không có ý nghĩ, không có hình ảnh. Năng lượng chuyển động, sự chuyển động này là thuần khiết, và sau đó nó quay trở lại với bạn - nguyên vẹn. Khi nó rời bạn để ra đi; nó không mang gì. Một chiếc xe rỗng, nó đến với bạn, nó chạm vào bạn. Nó không mang theo kiến thức nào; nó chỉ đang đến một mình. Khi năng lượng thuần khiết đó thâm nhập vào bạn, bạn trở nên nhận ra chính mình.

Nếu năng lượng của bạn đang mang một cái gì khác, thì bạn sẽ trở nên nhận biết về cái khác ấy. Bạn nhìn một bông hoa. Năng lượng đang mang bông hoa tới bạn - hình ảnh của bông hoa, mùi của bông hoa, màu sắc của bông hoa. Năng lượng đang mang bông hoa tới bạn. Nó đang giới thiệu bông hoa với bạn. Thế rồi bạn trở nên quen với bông hoa. Năng lượng được bao phủ bởi bông hoa này. Bạn không bao giờ trở nên quen với năng lượng này, năng lượng thuần khiết mà nó chính là bạn. Bạn cứ di chuyển tới người khác và trở lại nguồn.

Nếu không có gì gây ấn tượng với nó, nếu nó đến vô điều kiện, nếu nó đến như nó đã ra đi, nếu nó mang chính nó, không còn gì khác, thì bạn trở nên nhận ra chính mình. Đây là một vòng tròn năng lượng thuần khiết - năng lượng không di chuyển tới cái gì đó khác, mà di chuyển bên trong bạn, tạo ra một vòng tròn bên trong bạn. Thế rồi không có ai khác, chỉ có chính bạn đang chuyển động bên trong mình. Sự chuyển động này trở thành biết-chính-mình, tự khai sáng, về cơ bản, mọi kỹ thuật thiền đều là những biến thể khác nhau của điều này.

Giả sử nàng suy ngẫm điều gì đó vượt ra ngoài nhận thức, vượt ra ngoài sự nắm bắt, vượt ra ngoài chứ không phải không tồn tại - đó chính là nàng.

Nếu điều này có thể xảy ra thì lần đầu tiên bạn sẽ trở nên nhận biết về chính mình, về con người mình, về sự tồn tại của mình - tính chủ quan.

Sự hiểu biết có hai dạng: sự hiểu biết về các đối tượng và sự hiểu biết về tính chủ quan. Sự hiểu biết về cái biết, cái có thể biết, và sự hiểu biết về người biết. Và một người có thể biết hàng triệu và hàng triệu thứ, anh ta có thể trở nên quen với toàn bộ thế giới, nhưng nếu anh ta không nhận biết về người biết thì anh ta là người vô minh. Anh ta có thể rất am hiểu, nhưng anh ta không thông tuệ. Anh ta có thể đã thu thập nhiều thông tin, nhiều kiến thức, nhưng điều cơ bản làm cho con người thành một người biết thì lại đang thiếu - anh ta không nhận biết về chỉnh mình.

Trong các Upanishad có một câu chuyện, Svetaketu, một chàng trai trẻ, trở về nhà sau khi đã gặp bậc thầy của mình. Anh đã vượt qua mọi bài kiểm tra của mình một cách xuất sắc. Tất cả những gì mà bậc thầy có thể trao cho anh ta, anh ta đã thu thập được. Anh ta đã trở nên rất ngã mạn.

Khi anh ta về đến nhà cha mình, điều đầu tiên mà người cha đã hỏi Svetaketu là: “Có vẻ như con bị ngập trong kiến thức, và kiến thức đó đang làm cho con rất ngã mạn - cách con bước đi, cách con vào nhà. Cha có duy nhất một câu hỏi dành cho con. Con đã biết người biết tất cả chưa? Con đã biết rằng chỉ bởi việc biết người đó mà biết được mọi thứ chưa? Con đã biết chính mình chưa?”

Svetaketu nói, “Nhưng trong trường không có bài học nào về điều đó, và bậc thầy chưa bao giờ thảo luận về nó. Con đã biết mọi thứ có thể được biết. Cha hỏi con bất cứ điều gì và con sẽ trả lời cha. Nhưng dạng câu hỏi mà cha đang đưa ra là gì? Nó chưa bao giờ được thảo luận đến”.

Người cha nói, “Thế thì con hãy quay trở lại trường, và trừ khi con biết rằng thông qua việc biết đó mà mọi thứ đều được biết, và không có việc biết đó thì không có gì được biết, thì đừng trở về đây. Đầu tiên, con hãy biết chính mình”.

Svetaketu trở lại trường. Anh đề nghị bậc thầy, “Cha con nói con không thể được phép quay về nhà, con không thể được chào đón ở đó, bởi vì ông nói rằng gia đình chúng con là những người Bà la môn không chỉ bởi dòng dõi. Chúng con là những người biết, những người biết đấng sáng tạo Hindu, là những người Bà la môn không chỉ bởi dòng dõi mà bởi sự hiểu biết thật sự đích thực. Cho nên cha con nói, ‘Trừ khi con trở thành một người Bà la môn thực sự, không bởi dòng dõi, mà bởi biết về đấng sáng tạo Hindu, biết điều tối thượng, thì đừng có vào nhà. Con không xứng đáng với chúng ta’. Bây giờ xin thầy hãy dạy cho con điều đó”.

Người thầy nói, “Tất cả những gì có thể dạy, ta đã dạy con. Và đó là một điều không thể dạy được. Cho nên con hãy làm một việc sau: con chỉ đơn thuần chuẩn bị cho điều đó. Điều đó không thể được dạy trực tiếp. Con chỉ đơn thuần đón đợi; vào một ngày nó sẽ xuất hiện. Con hãy mang tất cả số bò của ashram...” Ashram có rất nhiều bò; họ nói có bốn trăm con. “Con hãy mang tất cả những con bò đó vào rừng. Ở lại đó với chúng: đừng suy nghĩ gì cà, đừng dùng lòi nói, hãy trở thành như một con bò. Hãy ở lại với những con bò, yêu thương chúng, và im lặng như những con bò im lặng. Khi nào số bò trở thành một ngàn con thì hãy quay trở lại”.

Svetaketu đi vào rừng cùng với bốn trăm con bò. Suy nghĩ không còn tác dụng gì, không có ai để nói chuyện. Dần dần, tâm trí anh ta trở nên như một con bò. Anh ta ngồi im lặng dưới những tán cây, và anh phải chờ đợi trong nhiều năm, bởi vì chỉ khi số bò trở thành một ngàn con thì anh mới có thể quay trở về. Ngôn ngữ, xã hội dần dần biến khỏi đầu óc anh ta. Anh ta dàn trở nên không còn là một con người nữa. Mắt anh ta trở nên giống như mắt con bò”.

Câu chuyện đó thật tuyệt. Câu chuyện kể rằng anh ta đã quên cách đếm - bởi ngôn ngữ biến mất và lời nói biến mất... anh đã quên cách đếm, anh quên cả thời điểm phải quay trở về. Câu chuyện thật đẹp. Đàn bò nói, “Svetaketu, bây giờ chúng tôi là một ngàn rồi. Bây giờ hãy để chúng tôi quay về nhà bậc thầy. Chắc ông ấy đang đợi”.

Svetaketu quay trở về, và bậc thầy nói với các môn đệ của mình, “Đếm số bò xem'.

Đàn bò được đếm và các môn đệ nói, “Đúng, có một ngàn con”.

Và bậc thầy được cho là đã nói, “Không phải một ngàn mà là một ngàn lẻ một - đó là Svetaketu”.

Svetaketu đang đứng lặng im giữa đàn bò, chỉ đứng đó, không ý nghĩ, không tâm trí. Giống như một con bò - thuần khiết, đơn giản, hồn nhiên. Và bậc thầy nói, “Con không cần vào. Bây giờ hãy quay về nhà cha con. Con đã biết; nó đã xảy ra với con. Tại sao con quay lại với ta? Điều đó đã xảy ra với con”.

Điều đó xảy ra: khi trong tâm trí không có đối tượng để biết thì người biết xuất hiện với bạn. Khi tâm trí không bị ngập trong những ý nghĩ, khi không có gì lăn tăn, khi không có nổi một gợn sóng, bạn ở đó một mình. Không có gì khác ngoài bạn. Rõ ràng bạn trở nên nhận ra cái ta của mình; lần đầu tiên bạn trở nên được lấp đầy bởi chính mình. Một sự tự khai sáng xảy ra.

Câu kinh này là một trong những kỹ thuật nền tảng. Hãy thử nó. Điều đó là gian khó, bởi thói quen nghĩ, thói quen bám vào những đối tượng, bám vào cái có thể nhận thức được và nắm bắt được đã bám rễ quá sâu, đã trở thành thâm căn cố đế đến mức phải cần nhiều thời gian và phải nỗ lực bền bỉ để không dính líu vào các đối tượng, không dính líu đến những ý nghĩ, chỉ để trở thành sự chứng kiến và loại bỏ các đối tượng, các ý nghĩ, và nói, “Không, không phải cái này, không phải cái này”.Toàn bộ kỹ thuật của các Upanishad được cô đọng trong hai từ; neti, neti - không phải cái này, không phải cái này. Bất cứ điều gì xuất hiện trong tâm trí, hãy nói, “Không phải cái này”. Liên tục nói, liên tục loại bỏ và vứt tất cả đồ đạc ra ngoài. Căn phòng phải trở nên trống rỗng, tuyệt đối trống rỗng. Khi có sự trống rỗng thì điều đó xảy ra. Nếu có cái gì đó khác thì bạn cứ bị ấn tượng với nó, và bạn không thể biết chính mình. Sự hồn nhiên của bạn mất biến vào những đối tượng. Một tâm trí đầy ý nghĩ đang hướng ra ngoài. Bạn không thể kết nối với chính mình.



Kỹ thuật thứ hai:

Ta đang tồn tại. Đây là của ta. Đây là cái này. Ôi người yêu dấu, ngay cả trong cái biết như thế cũng là vô biên.

Ta đang tồn tại. Bạn chưa bao giờ đi sâu vào cảm giác này. Ta đang tồn tại. Bạn đang tồn tại, nhưng bạn chưa bao giờ đào sâu vào hiện tượng này. Shiva nói: Ta đang tồn tại. Đây là của ta. Đây là cái này. Ôi người yêu dấu, ngay cả trong cái biết như thế cũng là vô biên.

Tôi sẽ kể cho bạn một giai thoại Zen. Ba người bạn đang đi bộ trên một con phố. Buổi chiều đang buông dần và mặt trời đang lặn, khi đó họ nhận thấy một nhà sư đang đứng trên đỉnh đồi. Họ bắt đầu nói về vị sư này và tự hỏi ông ta đang làm gì ở đó. Một người nói, “Chắc ông ta đang chờ những người bạn của mình. Chắc ông đã đi bộ từ nơi ẩn cư của mình và những người bạn tụt lại phía sau, nên ông đang chờ họ”.

Người khác bác bỏ điều đó và nói, “Điều này không đúng, bởi vì nếu một người đang chờ ai đó thì thỉnh thoảng phải quay lại phía sau chứ. Nhưng ông ta không hề nhìn lại phía sau. Nên tôi cho là thế này - ông ta đang không chờ ai cả. Đúng hơn là, chắc con bò của ông đã bị lạc. Trời sắp tối, mặt trời đang lặn, nên ông ta đang tìm con bò của mình. Ông ta đứng trên đỉnh đồi và tìm xem con bò ở đâu trong rừng”.

Người thứ ba nói, “Điều này không thể đúng, bởi vì ông ta đang đứng im lặng thế, không hề cử động, và có vẻ như ông đang không nhìn gì cả; mắt ông nhắm lại. Chắc ông ta đang cầu nguyện. Ông ta đang không tìm con bò lạc nào hay chờ những người bạn đã tụt lại phía sau”.

Họ không thể đưa ra quyết định. Họ cứ mãi tranh luận rồi họ nói, “Chắc chúng ta phải đi lên đỉnh đồi và hỏi chính người đó xem ông ta đang làm gì”.

Thế nên họ lên đến chỗ nhà sư. Người đầu tiên nói, “Ông đang chờ những người bạn còn ở phía sau sao?”

Nhà sư mở mắt ra và nói, “Tôi đang không chờ ai. Và tôi không có những người bạn và những kẻ thù để chờ”. Ông ta lại nhắm mắt.

Người khác nói, “Thế thì tôi phải đúng. Ông đang tìm con bò của mình bị lạc trong rừng phải không?”

Ông ta nói, “Không, tôi đang không tìm bất cứ ai - con bò nào hay người nào. Tôi không quan tâm đến bất cứ điều gì ngoài chính mình”.

Người thứ ba nói, “Thế thì chắc chắn, dứt khoát rằng ông đang cầu nguyện hay thiền”.

Nhà sư mở mắt ra và nói, “Tôi đang không làm gì cả. Tôi chỉ đang ở đây. Tôi chỉ đang ở đây, không làm bất cứ việc gi. Tôi chỉ đang ở đây”.

Đây là cách mà các Phật tử nói về thiền. Nếu bạn làm một cái gì đó, đó không phải là thiền - bạn đã di chuyển quá xa. Nếu bạn cầu nguyện, đó không phải là thiền - bạn đã bắt đầu huyên thuyên. Nếu bạn sử dụng câu nào đó, đó không phải là cầu nguyện, đó không phải là thiền - tâm trí đã lẻn vào. Người đàn ông đó đã nói đúng. Ông ta nói, “Tôi chỉ đang ở đây, đang không làm bất cứ điều gì”.

Câu kinh này nói: Ta đang tồn tại. Hãy đi sâu vào cảm nhận này. Chỉ ngồi, đi sâu vào cảm nhận này - Ta đang tồn tại, ta hiện hữu. Hãy cảm nhận điều đó, đừng nghĩ về nó, bởi vì bạn có thể nói nó trong tâm trí - ta hiện hữu - và điều đó là vô ích. Cái đầu bạn là nguyên nhân làm hỏng bạn. Đừng cử liên tục lặp lại trong đầu ta hiện hữu, ta đang tồn tại. Điều đó là vô nghĩa, là vô dụng. Bạn bỏ lỡ điều cốt lõi.

Hãy cảm nhận điều đó sâu trong xương cốt bạn. Hảy cảm nhận điều đó khắp cơ thể bạn. Cảm nhận điều đó như là một sự hợp nhất toàn bộ, không phải chỉ ở trong đầu. Chỉ cảm nhận điều đó - ta hiện hữu. Đừng sử dụng những câu “tôi hiện hữu”. Bởi vì tôi hiện hữu lại liên quan đến bạn, tôi đang sử dụng các câu “tôi hiện hữu”. Và Shiva đang nói với Parvati, nên ngài phải sử dụng câu “Ta đang tồn tại”. Không. Đừng liên tục lặp lại. Đây không phải là một câu mật chú. Bạn không được lặp lại ta đang tồn tại, ta đang tồn tại. Nếu bạn lặp lại điều này, bạn sẽ rơi vào giấc ngủ. Bạn sẽ trở nên tự-thôi-miên.

Nếu bạn cứ lặp đi lặp lại một điều gì đó, bạn trở nên tự động thôi miên. Đầu tiên bạn chán nản, rồi bạn cảm thấy buồn ngủ, và sau đó nhận biết của bạn không còn. Bạn sẽ rất tươi trẻ khi tỉnh lại, giống như sau một giấc ngủ sâu. Điều đó tốt cho sức khỏe, nhưng không tốt cho thiền. Nếu bạn đang chịu đựng chứng mất ngủ, bạn có thể tụng một câu mật chú. Nó cũng tốt như bất cứ loại thuốc ngủ nào, thậm chí còn tốt hơn. Bạn có thể liên tục lặp lại một câu nào đó: liên tục lặp lại một cách đơn điệu rồi bạn sẽ rơi vào giấc ngủ. Bất cứ điều gì tạo ra sự đơn điệu sẽ mang đến cho bạn một giấc ngủ sâu. Cho nên các nhà phân tâm học và các nhà tâm lý vẫn cứ nói với những người bị chứng mất ngủ hãy nghe tiếng tích tắc của đồng hồ. Liên tục nghe nó và bạn sẽ rơi vào giấc ngủ, bởi vì âm thanh tíc tắc trở thành một điệu hát ru.

Đứa trẻ trong dạ con người mẹ ngủ liên tục suốt chín tháng, và trái tim của người mẹ liên tục đập tíc tắc. Điều đó trở thành một điều kiện, một sự huấn luyện sâu sắc - sự lặp lại không ngừng của trái tim. Vì thế mà bất cứ lúc nào ai đó ôm bạn gần trái tim người đó, bạn cảm thấy dễ chịu. Tíc tắc - bạn cảm thấy buồn ngủ, thư giãn. Bất cứ thứ gì gây ra một sự đơn điệu thì cũng mang đến sự thư giãn; bạn có thể rơi vào giấc ngủ.

Trong một ngôi làng bạn có thể ngủ sâu hơn ở thành phố, bởi vì ngôi làng thì buồn tẻ đơn điệu. Thành phố không đơn điệu. Mỗi thời điểm một cái gì đó mới đang diễn ra; tiếng ồn giao thông không ngừng thay đổi. Ở ngôi làng mọi thứ đều đơn điệu, không đổi. Thực sự trong một ngôi làng không có gì mới, không có gì xảy ra; mọi thứ điều hoạt động theo một chu kỳ. Cho nên dân làng ngủ sâu, bởi vì cuộc sống quanh họ là buồn tẻ, đơn điệu. Ở thành phố thì khó ngủ, bởi vì cuộc sống quanh bạn rất náo động; mọi thứ đều thay đổi.

Bạn có thể sử dụng bất cứ câu mật chú nào: Ram, Ram, aum, aum - bất cứ điều gì. Bạn có thể sử dụng cụm từ Jesus Christ; bạn có thể sử dụng cụm từ Ave Maria. Bạn có thể sử dụng bất cứ cụm từ nào và tụng nó một cách đơn điệu, nó sẽ mang đến cho bạn một giấc ngủ sâu. Thậm chí bạn có thể thực hiện điều này: Raman Mahashi từng đưa ra kỹ thuật Ta là ai? Và nhiều người bắt đầu sử dụng nó như là câu mật chú. Họ ngồi nhắm mắt và liên tục lặp lại, “Ta là ai? Ta là ai? Ta là ai?” Nó đã trở thành một câu mật chú. Đó không phải là mục đích.

Cho nên đừng biến nó thành một câu mật chú, đừng ngồi và nói, “Ta đang tồn tại”. Không cần thiết. Mọi người biết, và bạn đã biết rằng bạn đang tồn tại; không cần thiết, điều đó là vô ích. Hãy cảm nhận - ta đang tồn tại. Cảm nhận là vấn đề khác, hoàn toàn khác. Sự suy nghĩ là một mánh khóe để tránh việc cảm nhận. Nó không chỉ khác, nó còn là một sự đánh lừa.

Tôi ngụ ý gì khi nói hãy cảm nhận ta đang tồn tại? Tôi đang ngồi trong chiếc ghế này. Nếu tôi bắt đầu cảm nhận ta đang tồn tại, tôi sẽ trở nên nhận ra nhiều điều: sức ép trên ghế, sự tiếp xúc với vải nhung, không khí lùa qua phòng, tiếng ồn chạm vào cơ thể tôi, máu lặng lẽ tuần hoàn, trái tim, hơi thở diễn ra liên tục, và một cảm nhận rung động tinh tế của cơ thể. Vì cơ thể là năng động; nó không phải là một thứ tĩnh. Bạn đang rung động. Một sự rung động tinh tế liên tục diễn ra và khi bạn đang sống nó sẽ vẫn tiếp tục. Sự rung động này luôn có đó.

Bạn sẽ trở nên nhận ra mọi vấn đề đa chiều này. Và bạn trở nên nhận biết nhiều thứ đang diễn ra... nếu ngay lúc này bạn nhận ra bất cứ điều gì đang diễn ra bên trong và bên ngoài bạn, thì đây là điều được ngụ ý bởi ta đang tồn tại. Nếu bạn trở nên nhận ra theo cách này, suy nghĩ sẽ dừng lại. Bởi vì khi bạn cảm nhận mình đang tồn tại, thì đó là hiện tượng toàn vẹn đến mức suy nghĩ không thể tiếp tục.

Ban đầu bạn sẽ cảm thấy những ý nghĩ đang trôi qua. Dần dần, bạn càng bắt rễ sâu vào tồn tại thì bạn càng lắng đọng trong cảm nhận về bản thể, những ý nghĩ sẽ ở xa, bạn sẽ cảm thấy một khoảng cách - như thể bây giờ những ý nghĩ đó đang không xảy đến với bạn, mà chúng đang xảy đến với ai đó khác, rất xa. Có một khoảng cách. Và sau đó, khi bạn đã thực sự bắt rễ, đã xây nền vào bản thể thì tâm trí sẽ biến mất. Bạn sẽ có đó mà không có một lời nào, không có một hình ảnh tâm trí nào.

Tại sao điều này xảy ra? - bởi vì tâm trí là một hoạt động cụ thể để liên hệ với người khác. Nếu tôi phải liên hệ với bạn thì tôi sẽ phải sử dụng tâm trí, ngôn ngữ, lời nói của tôi. Nó là hiện tượng xã hội; nó là hoạt động nhóm. Cho nên ngay cả nếu bạn đang nói khi một mình thì bạn cũng không một mình - bạn đang nói với ai đó. Thậm chí khi bạn đang một mình, khi bạn đang nói thì bạn đang nói với ai đó; bạn không một mình. Làm sao bạn có thể nói một mình? Ai đó hiện diện trong tâm trí bạn và bạn đang nói với người đó.

Tôi đã đọc tự truyện của một giáo sư triết học. Ông ta kể rằng vào một ngày ông đưa con gái mới năm tuổi của mình đến trường, và sau khi để cô bé lại trường, ông đi tới trường đại học để giảng bài. Cho nên ông chuẩn bị bài giảng của mình trên đường đi, và ông đã quên hẳn cô con gái đang ngồi bên cạnh mình trong xe hơi, và ông bắt đầu đọc to bài giảng. Cô bé nghe chốc lát rồi hỏi ông, “Cha ơi, cha có đang nói với con hay với ai vậy?”

Ngay cả khi bạn đang nói thì cũng không bao giờ là không với ai, mà luôn luôn là với ai đó. Người đó có thể không hiện diện, nhưng với bạn thì người đó hiện diện; với tâm trí bạn thì có người đó ở đó. Mọi ý nghĩ đều là đối thoại. Nghĩ như thế là một đối thoại, nó là một hoạt động xã hội. Vì thế, nếu một đứa trẻ được nuôi dưỡng mà không có xã hội, thì nó sẽ không biết bất cứ ngôn ngữ nào. Nó sẽ không có khả năng diễn đạt bằng lời. Xã hội trao cho bạn ngôn ngữ; không có xã hội thì không có ngôn ngữ. Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội.

Khi bạn có nền tảng sâu bên trong mình, thì không có xã hội, không có ai. Bạn một mình tồn tại. Tâm trí biến mất. Bạn đang không liên quan với bất cứ ai, thậm chí là trong tưởng tượng, thế nên tâm trí biến mất. Bạn ở đó mà không có tâm trí, và đây chính là thiền - tồn tại mà không có tâm trí. Tồn tại hoàn toàn tỉnh táo và ý thức, không vô thức, cảm nhận tồn tại trong tính toàn vẹn của nó, trong tính đa chiều của nó, nhưng tâm trí đã đột nhiên biến mất.

Và nhiều thứ biến đi cùng với tâm trí. Với tâm trí, bạn có tên, bạn có hình tướng, bạn là một người Hindu hay một người Hồi giáo hay một người Parsee, bạn tốt hay xấu, bạn là một vị thánh hay một tội đồ, bạn xấu hay đẹp - mọi thứ biến mất. Tất cả những thứ được dán nhãn lên bạn bỗng nhiên không còn. Bạn ở trong sự thuần khiết nguyên sơ của mình. Bạn ở đó hoàn toàn hồn nhiên, nguyên sơ - có nền tảng, không trôi nổi, bắt rễ sâu vào tồn tại.

Với tâm trí, bạn có thể đi vào quá khứ. Với tâm trí bạn có thể đi vào tương lai. Không có tâm trí, bạn không thể đi vào quá khứ hay đi vào tương lai. Không có tâm trí, bạn ở đây và bây giờ - chính khoảnh khắc này là tất cả vĩnh hằng. Không có gì tồn tại trừ thời điểm này. Phúc lạc xuất hiện. Bạn không cần tìm kiếm nữa. Bắt rễ sâu vào thời điểm này, bắt rễ sâu vào sự sống, bạn thật an lạc. Và thực ra sự an lạc này không phải là một cái gì đó đang xảy ra với bạn - bạn chính là nó.

Ta đang tồn tại. Hãy thử kỹ thuật này. Và bạn có thể thử nó ở bất cứ đâu. Trên xe bus, trên tàu hỏa, hay chỉ đang ngồi hay đang nằm trên giường, hãy thử cảm nhận sự tồn tại như nó đang là; đừng nghĩ về nó. Bỗng nhiên bạn sẽ trở nên nhận ra rằng bạn đã không biết nhiều thứ mà chúng liên tục xuất hiện với bạn. Bạn đã không cảm nhận cơ thể mình. Bạn có tay nhưng bạn chưa bao giờ cảm nhận nó - những gì nó nói, những gì nó vẫn liên tục thông báo cho bạn, nó cảm thấy thế nào.

Đôi khi nó nặng nề và buôn bã, đôi khi nó hạnh phúc và nhẹ nhõm. Đôi khi mọi thứ tuôn chảy trong nó, đôi khi mọi thứ tê cứng. Đôi khi bạn cảm thấy nó sống động, nhảy múa, đôi khi như thể không có sự sống trong nó - đóng băng, tê dại; chỉ treo lơ lửng xung quanh bạn chứ không còn sự sống.

Khi bạn bắt đầu cảm nhận con người mình, bạn sẽ tới lúc biết những cảm xúc của tay mình, của mắt mình, của mũi mình, của cơ thể mình. Đó là một hiện tượng lớn lao; có những sắc thái tinh tế. Cơ thể liên tục nói với bạn và bạn không có đó để nghe nó. Và tồn tại xung quanh bạn liên tục thâm nhập vào bạn theo những cách tinh tế, theo nhiều cách khác nhau, nhưng bạn lại không nhận ra. Bạn không có đó để đón nhận nó, chào đón nó.

Khi bạn bắt đầu cảm nhận tồn tại, cả thế giới trở nên sống động với bạn theo cách hoàn toàn mới; bạn đã không biết điều đó. Thế rồi bạn đi qua cũng con phố đó nhưng nó không còn như cũ nữa, bởi vì giờ đây bạn đã có nền tảng sâu trong tồn tại. Bạn gặp vẫn những người bạn đó nhưng họ không còn như cũ nữa, bởi vì bạn khác rồi. Bạn trở về nhà mình và người vợ mà bạn đã sống chung nhiều năm không còn như cũ nữa.

Bây giờ bạn nhận biết về chính con người của mình, bạn trở nên nhận biết con người của người khác nữa. Khi người vợ trở nên tức giận, bạn thậm chí có thể tận hưởng sự giận dữ của cô ấy, bởi vì bây giờ bạn có thể cảm nhận những gì đang xảy ra. Và nếu bạn có thể cảm nhận nó thì sự giận dữ không có vẻ gì là giận dữ nữa, nó có thể trở thành tình yêu. Nếu bạn có thể cảm nhận sâu bên trong thì sự giận dữ này cho thấy cô ấy vẫn còn yêu bạn. Nếu không thì cô ấy sẽ không còn giận dữ, cô ấy sẽ không còn bận tâm. Cô ấy vẫn chờ bạn cả ngày. Cô ấy giận dữ là bởi cô ấy yêu bạn. Cô ấy không thờ ơ.

Nên nhớ, giận dữ hoặc ghét không phải là những đối cực thực sự của tình yêu - sự thờ ơ mới chính là đối cực thực sự. Khi ai đó thờ ơ với bạn, tình yêu không còn. Nếu ai đó không sẵn sàng giận dữ với bạn thì mọi thứ không còn. Nhưng thông thường, nếu vợ bạn giận dữ thì bạn lại phản ứng một cách bạo lực hơn, bạn trở nên hung hãn. Bạn không thể hiểu ý nghĩa biểu trưng của nó. Bạn không có nền tảng sâu trong mình. Bạn đã không thực sự biết sự giận dữ của chính mình, vì thế bạn không thể hiểu sự giận dữ của người khác.

Nếu bạn biết sự giận dữ của chính mình, nếu bạn có thể cảm nhận toàn bộ tâm trạng của nó thì bạn cũng biết sự giận dữ của người khác nữa. Bạn giận dữ chỉ khi bạn yêu ai đó, nếu không thì không có nhu cầu. Thông qua giận dữ người vợ đang nói rằng cô vẫn còn yêu bạn, cô không thờ ơ với bạn. Cô ấy đã chờ, đã đợi, và bây giờ toàn bộ sự chờ đợi đã trở thành cơn giận.

Có thể cô ấy không nói thẳng điều đó, bởi vì ngôn ngữ của cảm nhận là không trực tiếp. Và ngày nay điều đó đã trở thành một vấn đề nghiêm trọng - bởi vì bạn không thể hiểu ngôn ngữ của cảm nhận, bởi vì bạn không biết những cảm nhận của riêng mình. Bạn không có nền tảng trong chính con người mình. Bạn chỉ có thể hiểu những lời nói, bạn không thể hiểu những cảm xúc. Cảm xúc có cách biểu lộ riêng, và chúng cơ bản hơn, thực hơn.

Một khi bạn quen với thực tại của chính mình, bạn cũng sẽ trở nên nhận ra thực tại của người khác. Và mọi người đều rất bí ẩn, và mọi người đều như một vực thẳm để được khám phá - một khả năng vô hạn để thâm nhập và để biết. Và mọi người đang chờ đợi rằng ai đó nên thâm nhập, đi sâu, và cảm nhận tâm hồn của người đó. Nhưng vì bạn đã không biết tâm hồn mình thì bạn không thể biết tâm hồn của ai khác. Tâm hồn gần gũi nhất mà vẫn còn chưa biết thì làm sao biết được tâm hồn của người khác

Bạn sống mà như một xác chết di dộng, và bạn sống trong một đám đông dở sống dở chết; mọi người đều đang ngủ say. Sự tỉnh táo của bạn chỉ như thế này: bạn đi ngang qua những người ngủ say và bạn về tới nhà mình mà không gặp tai nạn nào, thế thôi. Đây là mức độ tỉnh táo mà bạn có. Đây là mức độ tối thiểu con người có thể có, chính vì vậy mà bạn quá buồn chán, quá tù túng. Cuộc sống chỉ là một gánh nặng kéo dài, và sâu bên trong mọi người đều đang chờ đợi cái chết, để được giải thoát khỏi cuộc đời. Cái chết dường như là hy vọng duy nhất.

Tại sao điều này lại đang xảy ra? Sự sống có thể là niềm phúc lạc vô hạn. Tại sao lại có sự buồn chán như thế này? Bạn không có nền tảng trong sự sống. Bạn bị bật rễ; bị bật rễ và sống ở mức tối thiểu. Và cuộc sống thực sự xuất hiện khi bạn sống ở mức tối đa.

Câu kinh này sẽ trao cho bạn một sự sống ở mức tối đa. Suy nghĩ chỉ có thể mang đến cho bạn một mức tối thiểu; sự cảm nhận có thể trao cho bạn mức tối đa đó. Thông qua tâm trí thì không có cách nào tới được tồn tại; con đường duy nhất là thông qua trái tim.

Ta đang tồn tại. Hãy cảm nhận điều đó thông qua trái tim. Và cảm nhận Sự tồn tại này là của ta. Đây là của ta. Điều này rất đẹp, ta đang tồn tại. Hãy cảm nhận nó, xây nền chắc vào nó; thế rồi đây là của ta - sự tồn tại này, sự sống chan chứa này là của ta.

Bạn cứ nói rằng ngôi nhà này là của tôi, đồ đạc này là của tôi. Bạn liên tục nói về những tài sản của bạn, và bạn chưa bao giờ biết bạn thực sự sở hữu gì. Bạn sở hữu con người toàn vẹn. Bạn sở hữu khả năng sâu sắc nhất, cốt lõi trung tâm nhất của tồn tại bên trong mình. Shiva nói: ta đang tồn tại. Hãy cảm nhận điều này. Đây là của ta.

Điều này cũng không được biến thành một ý nghĩ; ghi nhớ điều đó liên tục. Hãy cảm nhận điều đó - đây là của ta, sự tồn tại này - và rồi bạn sẽ cảm nhận lòng biết ơn. Làm sao bạn có thể cám ơn Thượng đế? Sự cám ơn của bạn chỉ là bề ngoài, hình thức. Và khốn khổ làm sao!... ngay cả với Thượng đế chúng ta cũng hình thức. Làm sao bạn có thể biết ơn? Bạn còn chưa biết phải biết ơn điều gì.

Nếu bạn có thể cảm thấy mình đã bắt rễ sâu vào tồn tại, đã hòa vào nó, tuôn trào cùng nó, và thậm chí cho phép nhảy múa cùng nó thì bạn sẽ cảm thấy “Đây là của ta. Sự tồn tại này thuộc về ta. Toàn bộ vũ trụ huyền bí này thuộc về ta. Toàn bộ tồn tại này đã tồn tại vì ta. Nó đã tạo ra ta. Ta là một bông hoa của nó”.

Tâm thức này đã xuất hiện với bạn là một bông hoa kỳ diệu nhất đã xuất hiện với vũ trụ. Và trong hàng triệu và hàng triệu năm trái đất này đã chuẩn bị cho sự tồn tại của bạn.

Đây là của ta và đây là điều này. Hãy cảm nhận, “Đây là những gì là cuộc sống, đây là điều này - cái như thế. Ta đã lo lắng không cần thiết. Ta không cần thiết là một kẻ ăn xin, không cần thiết nghĩ về ăn xin. Ta là người chủ”.

Khi bạn bắt rễ sâu, bạn là một với toàn bộ, và sự sống tồn tại vì bạn. Bạn không là một kẻ ăn xin; bỗng nhiên bạn trở thành một vị hoàng đế. Đây là điều này.

Ôi người yêu dấu, ngay cả trong cái biết như thế cũng là vô biên.

Và trong khi cảm nhận điều này đừng tạo ra giới hạn đối với nó. Hãy cảm nhận nó là vô hạn. Đừng tạo ra đường biên cho nó; không có đường biên nào. Nó không kết thúc ở đâu. Thế giới không bắt đầu ở đâu; thế giới không kết thúc ở đâu. Tồn tại không có khởi đầu và không có kết thúc. Bạn cũng không có sự khởi đầu nào; bạn cũng không có sự kết thúc nào.

Có sự khởi đầu và sự kết thúc là do tâm trí - tâm trí có khởi đầu và tâm trí có kết thúc. Đi ngược lại, du hành ngược lại vào cuộc sống của bạn: xuất hiện một thời điểm nơi mọi thứ dừng lại - có một khởi đầu. Bạn có thể nhớ ngược trở lại khi bạn ba tuổi, hay, nhiều nhất là hai tuổi - điều đó là hiếm hoi - nhưng khi đó ký ức dừng lại. Bạn có thể du hành ngược trở lại khi bạn hai tuổi. Điều đó có nghĩa là gì? Và bạn không thể nhớ bất cứ điều gì trước đó, trước hai tuổi đó. Bỗng nhiên có một khoảng trắng, bạn không biết bất cứ điều gì.

Bạn có nhớ gì về sự ra đời của mình không? Bạn có nhớ gì về chín tháng trong dạ con người mẹ không? Bạn ở đó, nhưng không có tâm trí. Tâm trí bắt đầu từ khoảng tuổi thứ hai; chính vì vậy mà bạn có thể nhớ lại tới tuổi đó. Thế rồi không có tâm trí, ký ức dừng lại. Tâm trí có sự khởi đầu, tâm trí có sự kết thúc, nhưng bạn không có khởi đầu.

Khi trong thiền sâu như thế, bạn có thể đến lúc cảm nhận được sự tồn tại, thì không có tâm trí - một dòng chảy không khởi đầu, không kết thúc của năng lượng, của lực vũ trụ; một đại dương vô hạn xung quanh bạn, và bạn chỉ là một con sóng trong nó. Con sóng đó có khởi đầu và có kết thúc, nhưng đại dương không có. Và khi bạn biết rằng mình không phải là con sóng mà là đại dương thì mọi đau khổ biến mất.

Sâu bên trong đau khổ của bạn là gì? - sâu bên trong có cái chết. Bạn sợ sự kết thúc nào đó sẽ xảy ra. Điều đó là tuyệt đối chắc chắn; không có gì chắc chắn như cái chết - có nỗi sợ hãi, sự run rẩy. Bất cứ điều gì bạn làm bạn cũng bất lực. Không gì có thể được làm - cái chết sẽ có đó. Và điều đó không ngừng diễn ra trong tâm trí ý thức và vô thức. Đôi lúc nó nổi lên trong tâm trí ý thức - bạn trở nên sợ cái chết. Bạn nén nó xuống, và sau đó nó vẫn tiếp tục trong vô thức. Mọi thời điểm bạn đều sợ chết, sợ sự kết thúc.

Tâm trí sẽ chết, bạn sẽ không chết - nhưng bạn không biết chính mình. Bạn biết cái gì đó chỉ là một thứ được tạo ra: nó có sự khởi đầu, nó sẽ có sự kết thúc. Cái mà có khởi đầu thì phải có kết thúc. Nếu bạn có thể tìm ra bên trong con người mình cái gì đó không bao giờ có khởi đầu, chỉ đơn giản tồn tại, thì nó cũng không thể có kết thúc, thế thì nỗi sợ chết biến mất. Và khi nỗi sợ chết biến đi thì tình yêu tuôn chảy qua bạn, chỉ đến khi đó.

Làm sao bạn có thể yêu khi sẽ có cái chết? Bạn có thể bám vào ai đó, nhưng bạn không thể yêu. Bạn có thể sử dụng ai đó, nhưng bạn không thể yêu. Bạn có thể lợi dụng ai đó, nhưng bạn không thể yêu.

Không thể có tình yêu nếu có nỗi sợ. Nỗi sợ là chất độc. Tình yêu không thể nở hoa cùng với nỗi sợ sâu bên trong. Mọi người đều sẽ chết. Mọi người đang xếp hàng chờ đến thời điểm của mình. Làm sao bạn có thể yêu? Mọi thứ dường như vô nghĩa. Tình yêu biểu hiện vô nghĩa nếu như có cái chết, bởi vì cái chết sẽ hủy hoại mọi thứ. Thậm chí tình yêu cũng không phải là vĩnh hằng. Bất cứ điều gì bạn làm cho người yêu của mình, cho người thân yêu, thì bạn không thể làm được gì bởi vì bạn không thể tránh cái chết - nó chỉ đang chờ phía sau mọi thứ.

Bạn có thể quên nó, bạn có thể tạo ra một vẻ bề ngoài, và bạn có thể không ngừng tin rằng nó sẽ không có đó, nhưng niềm tin của bạn rất hời hợt - trong thâm tâm bạn biết nó sẽ có đó. Và nếu có cái chết thì cuộc sống là vô nghĩa. Bạn có thể tạo ra những ý nghĩa nhân tạo, nhưng chúng sẽ không giúp gì nhiều. Tạm thời, trong một vài khoảnh khắc, chúng có thể có ích, và rồi thực tại lại nổi lên và ý nghĩa biến mất. Bạn chỉ có thể liên tục đánh lừa mình, thế thôi - trừ khi bạn đến lúc biết cái gì đó mà nó không có khởi đầu và không có kết thúc, nó vượt ra ngoài cái chết.

Khi bạn tới lúc biết điều đó, thì có thể có tình yêu, bởi vì khi đó không có cái chết. Tình yêu là có thể. Đức Phật yêu bạn, Jesus yêu bạn, nhưng bạn tuyệt đối không biết tình yêu đó. Tình yêu đó đã xuất hiện bởi vì nỗi sợ đã biến mất, và tình yêu của bạn chỉ là một cơ chế để tránh nỗi sợ. Cho nên bất cứ khi nào bạn yêu, bạn cảm thấy không sợ. Ai đó trao cho bạn sức mạnh.

Và đây là hiện tượng tương hỗ: bạn trao sức mạnh cho ai đó và ai đó trao sức mạnh cho bạn. Cả hai đều yếu, và cả hai cùng đang tìm kiếm người nào đó, và rồi hai người yếu gặp nhau và họ giúp nhau trở nên mạnh - điều này thật tuyệt vời! Làm sao nó xảy ra? Đó chỉ là giả tưởng. Bạn cảm thấy rằng có ai đó phía sau mình, cùng với mình, nhưng bạn biết không ai có thể cùng với mình khi chết. Và nếu không ai có thể cùng bạn khi chết thì làm sao người ấy có thể cùng với bạn khi sống? Thế thì đó chỉ là một sự trì hoãn, chỉ là tránh cái chết. Và vì bạn sợ mà bạn cần một người nào đó để bạn không còn sợ.

Emerson đã viết ở đâu đó rằng thậm chí người chiến binh vĩ đại nhất cũng là một kẻ hèn nhát trước vợ mình. Ngay cả một Napoleon cũng là một kẻ hèn, bởi vì người vợ biết rằng ông ta cần sức mạnh của bà, ông ta cần bà để được là chính mình. Ông ta phụ thuộc vào bà. Khi ông ta từ chiến trường, từ cuộc chiến trở về, ông ta run rẩy, sợ hãi. Ông ta nghỉ ngơi trong lòng bà, ông ta thư giãn trong lòng bà. Bà an ủi ông; ông ta trở thành như một đứa trẻ. Mọi người chồng đều là một đứa trẻ trước người vợ. Và người vợ? - cô ấy phụ thuộc vào người chồng. Cô sống thông qua anh ta. Cô không thể sống thiếu anh ta; anh ta là cuộc sống của cô.

Đây là sự lừa dối lẫn nhau. Cả hai đều sợ - cái chết có đó. Họ cố yêu nhau và quên cái chết. Những người yêu trở nên, hay biểu hiện là, không sợ chết. Thậm chí những người yêu đôi khi có thể đối mặt với cái chết một cách rất gan dạ, nhưng đó chỉ là sự biểu hiện.

Tình yêu của chúng ta là một phần của nỗi sợ - chỉ để trốn tránh nó. Tình yêu thực sự xuất hiện khi không có nỗi sợ - khi cái chết đã biến đi, khi bạn biết mình không bao giờ bắt đầu và sẽ không bao giờ kết thúc. Đừng nghĩ đến điều đó. Bạn có thể nghĩ đến điều đó bởi nỗi sợ. Bạn có thể nghĩ, “Đúng, mình biết mình sẽ không tới hồi kết, không có cái chết, linh hồn là bất tử”. Bạn có thể nghĩ như vậy bởi nỗi sợ - điều đó sẽ không ích gì.

Nếu bạn đi sâu vào thiền thì điều đó sẽ xảy ra. Nỗi sợ sẽ biến mất, bởi vì bạn biết mình là vô hạn. Bạn không ngừng trải rộng tới vô tận - trở về quá khứ, hướng tới tương lai, và chính thời điểm này, thời điểm hiện tại này, trong độ sâu của nó, bạn hiện hữu. Bạn đơn giản tồn tại - bạn không bao giờ bắt đầu, bạn sẽ không bao giờ kết thúc.

Hãy cảm nhận sự tồn tại không giới hạn này - sự vô biên này.

Mục lục chính.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Đứa trẻ nổi loạn - Osho

Tự truyện - Cuộc đời luận sư Osho