Chương 6. Chân lí không thể bị mất

Dhammapada: Con đường của Phật
The Dhammapada: The way of the buddha
Osho
Tập 09


Chương 6. Chân lí không thể bị mất


Câu hỏi thứ nhất:

Thưa thầy kính yêu,

Tôi đang bác bỏ tâm trí của mình và níu bám lấy nhận biết.

Prem Shahido, tâm trí phải không bị bác bỏ chút nào; nếu bạn bác bỏ nó, nó sẽ còn lại. Bác bỏ nghĩa là kìm nén. Bất kì cái gì bị bác bỏ không bao giờ rời khỏi bạn; nó đơn giản đi từ ý thức vào vô thức, từ phần sáng của bản thể bạn vào những tầng tối nơi bạn không thể đối diện với nó. Bạn trở nên quên lãng về nó, nhưng nó có đó, còn sống động hơn bao giờ. Đối diện với kẻ thù còn tốt hơn là để kẻ thù ở sau lưng bạn; điều đó nguy hiểm hơn nhiều.

Và tôi đã không bảo bạn bác bỏ tâm trí. Tâm trí là cái máy hay, một trong những phép màu của sự tồn tại. Chúng ta chưa có khả năng làm ra cái gì sánh được với tâm trí con người. Ngay cả máy tính phức tạp nhất cũng chẳng là gì khi so với nó. Trí não một người có thể chứa tất cả các thư viện của thế giới; năng lực của nó gần như vô giới hạn. Nhưng nó là cái máy, nó không phải là bạn. Bị đồng nhất với nó là sai, làm nó thành người chủ của bạn là sai, bị nó hướng dẫn là sai. Nhưng là người chủ và người hướng dẫn lại hoàn toàn đúng. Tâm trí như người hầu là có giá trị mênh mông, cho nên đừng bác bỏ nó. Bác bỏ nó sẽ làm bần cùng bạn, điều đó sẽ không làm cho bạn giầu có.

Tôi không chống lại tâm trí; tôi thiên về siêu việt lên trên nó. Và nếu bạn bác bỏ bạn không thể siêu việt được. Dùng nó như bàn đạp bước lên. Điều đó tất cả đều tuỳ thuộc vào bạn: bạn có thể làm nó thành cái cản trở nếu bạn bắt đầu nghĩ rằng tâm trí phải bị bác bỏ, phủ nhận, phá huỷ; hay bạn có thể làm nó thành bàn đạp bước lên nếu bạn chấp nhận nó, nếu bạn cố gắng hiểu nó. Trong chính nỗ lực hiểu nó, siêu việt xảy ra. Bạn vượt ra ngoài nó, bạn trở thành nhân chứng.

Và, Shahido, điều thứ hai....

Bạn nói, 'Tôi níu bám lấy nhận biết.'

Điều đó nhất định xảy ra. Nếu bạn bác bỏ tâm trí bạn sẽ bắt đầu níu bám lấy nhận biết. Và níu bám không là gì ngoài tâm trí vận hành từ cửa sau. Níu bám là quá trình của tâm trí. Nhưng điều đó nhất định xảy ra cho những người bác bỏ, kìm nén.

Vấn đề là biến đổi. Tâm trí phải được dùng đúng; thế thì sẽ không có níu bám lấy nhận biết. Bằng không, sợ tâm trí, rằng nó có thể quay lại, bạn sẽ níu bám lấy nhận biết - và trong níu bám nó đã quay lại rồi, nó đã có đó rồi. Níu bám là tâm trí; vô níu bám về bản chất là nhận biết. Bạn không thể níu bám lấy nhận biết được; nếu bạn níu bám, đó chỉ là hiện tượng tâm trí. Nhận biết của bạn nữa cũng chỉ là thứ giả do tâm trí tạo ra bởi vì bạn đang yêu cầu quá nhiều về nó. Nó là giả, hoàn toàn giả; nếu bạn phải níu bám lấy nó, nó là giả.

Nhận biết thực vẫn còn với bạn; bạn không cần níu bám lấy nó. Ai sẽ níu bám lấy nó? Bạn là nhận biết. Ai sẽ níu bám lấy ai? Trong nhận biết không có hai - người níu bám và đối tượng của việc níu bám; trong nhận biết bạn là một. Chỉ có nhận biết và không cái gì khác. Người ta không thể níu bám vào nhận biết được. Nhưng điều đó nhất định xảy ra nếu bạn bác bỏ tâm trí; chính bước đầu tiên đã đi sai. Đừng bác bỏ nó - hiểu nó đi.

Và thực ra, từ 'hiểu' là rất có ý nghĩa. Khi bạn hiểu cái gì đó nó đứng dưới bạn. Bạn trở nên siêu việt, bạn đi ra ngoài nó; nó ở dưới bạn. Nó có tiện dụng của nó; tiện dụng lớn lao. Sẽ không có khoa học nếu không có tâm trí và sẽ không có công nghệ nếu không có tâm trí. Mọi tiện nghi của con người sẽ biến mất nếu không có tâm trí. Con người sẽ rơi lại vào trong thế giới con vật hay thậm chí còn thấp hơn nếu không có tâm trí. Tâm trí đã cho nhiều.

Vấn đề không phải là tâm trí; vấn đề là sự đồng nhất của bạn với nó. Bạn nghĩ bạn là nó, đấy mới là vấn đề. Đừng đồng nhất. Quan sát tâm trí, và bạn là người quan sát và để tâm trí ở đó được nhìn ngắm, được chứng kiến, được quan sát. Và thay đổi triệt để lớn lao xảy ra qua quan sát. Tâm trí vận hành hiệu quả hơn nhiều khi bạn quan sát nó bởi vì mọi thứ là rác rưởi đều bị loại bỏ và tâm trí không cần mang trọng lượng không cần thiết; nó trở thành nhẹ. Và khi bạn trở thành người quan sát, tâm trí có thể có nghỉ ngơi nào đó nữa. Bằng không cả đời tâm trí đều làm việc, hết ngày nọ tới ngày kia, năm nọ tới năm kia; nó chỉ dừng khi bạn chết. Nó tạo ra mệt nhọc sâu sắc, mệt mỏi tâm trí.

Bây giờ các nhà khoa học nói ngay cả kim loại cũng trở nên mệt mỏi - mệt mỏi kim loại. Cho nên còn nói gì về tâm trí, cái rất tinh tế, cái rất tinh vi? Sử dụng nó một cách cẩn thận đi. Nhưng bạn vẫn còn tách rời, không quan tâm, không tham dự. Khi bạn viết bạn không trở thành bút máy, mặc dầu bạn không thể viết được nếu thiếu nó. Bút máy tốt là rất bản chất cho việc viết tốt. Nếu bạn bắt đầu viết bằng ngón tay mình không ai sẽ có khả năng đọc được điều bạn đã viết, thậm chí cả bạn cũng không đọc được, và nó sẽ rất nguyên thuỷ. Nhưng bạn không phải là bút máy, và bút máy không phải là người viết mà chỉ là công cụ viết.

Tâm trí không phải là người chủ mà chỉ là công cụ trong tay người chủ.

Shahido, tỉnh táo, nhận biết hơn, nhưng đừng níu bám lấy nó. Níu bám sẽ phá huỷ toàn thể cái đẹp của nó. Tại sao níu bám? Nỗi sợ là gì? Chúng ta níu bám chỉ từ sợ hãi. Bạn là nhận biết, bạn không thể đánh mất nó được. Ngay cả bây giờ, khi bạn vô nhận biết về sự kiện rằng bạn là nhận biết, bạn vẫn không đánh mất nó.

Chân lí không thể bị mất được. Dù bạn biết điều đó hay bạn không biết, chẳng khác biệt gì. Chân lí vẫn còn là chân lí, dù được biết hay không được biết. Bản thể bên trong nhất của bạn vẫn là nhận biết thuần khiết. Bạn sống ở chu vi, do đó bạn không có khả năng thấy trung tâm riêng của mình.

Tính chất sannyas nghĩa là thám hiểm lãnh thổ của bạn, đi hướng tới trung tâm. Đó là điều thiền tất cả là gì. Khi bạn trở nên được định tâm, bỗng nhiên có tự do lớn lao bởi vì bạn biết bạn không phải là tâm trí và bạn không phải là thân thể. Điều đó không có nghĩa là bạn bắt đầu bác bỏ thân thể hay tâm trí. Bạn kính trọng thân thể, bạn kính trọng tâm trí. Bạn yêu thân thể nhiều thế, nhiều hơn bao giờ. Nó là ngôi nhà đẹp. Nó là nhà bạn và bạn phải sống trong nó trong bẩy mươi, tám mươi, chín mươi năm. Và nó phục vụ bạn hay thế; việc phục vụ của nó có giá trị lớn lao. Bạn kính trọng nó, bạn là bạn của nó, bạn chăm sóc nó. Nhưng dầu vậy bạn vẫn biết: 'Mình không là thân thể không là tâm trí. Mình là tâm thức.'

Và thế thì không có vấn đề về níu bám. Biết rằng 'Mình là tâm thức,' bạn trở thành một phần của Thượng đế. Thế thì không có sinh cho bạn, không có tử cho bạn. Thế thì bạn là một phần của vĩnh hằng, và là một phần của vĩnh hằng là phúc lạc. Khi bạn biết bạn không thể chết được, mọi nỗi sợ biến mất và năng lượng có trong sợ được thoát ra như tình yêu. Khi bạn biết bạn là một phần của cái toàn thể, không lo âu nào còn lại, không đau khổ nào là có thể, và năng lượng tham gia vào trong lo âu, trong đau khổ, được thoát ra. Bạn trở thành từ bi, tình yêu, niềm vui; điều đó bắt đầu tuôn chảy trong bạn. Bạn không chỉ là phúc lành cho bản thân mình, bạn trở thành phúc lành cho mọi người khác; bạn trở thành phúc lành cho bản thân sự tồn tại.

Câu hỏi thứ hai:

Thưa thầy kính yêu,

Có cần đi qua phân tích mơ để đạt tới chứng ngộ không?

Gautami, phân tích mơ không thể giúp cho bạn trở nên chứng ngộ đâu, nhưng chứng kiến mơ chắc chắn có thể giúp bạn được.

Đó là khác biệt giữa tâm lí học và tôn giáo: tâm lí học phân tích giấc mơ; tôn giáo quan sát chúng, giúp bạn trở nên nhận biết về chúng. Và khoảnh khắc bạn trở nên nhận biết về mơ của mình, chúng biến mất; chúng không thể tồn tại một khoảnh khắc lâu hơn. Chúng chỉ có thể tồn tại khi bạn hoàn toàn vô nhận biết; để cho chúng tồn tại, vô nhận biết là điều kiện tuyệt đối.

Vị phật chưa bao giờ mơ, ông ấy không thể mơ được. Cho dù ông ấy muốn mơ, ông ấy cũng không thể mơ được. Mơ đơn giản biến mất khỏi bản thể ông ấy bởi vì ngay cả trong đêm khi ông ấy ngủ, sâu bên dưới trong cốt lõi bên trong nhất của mình ông ấy vẫn thức. Ngọn lửa của nhận biết liên tục cháy và ông ấy biết cái gì đang xảy ra. Ông ấy biết rằng thân thể mình đang ngủ. Việc chứng kiến trở nên đi sâu tới mức không chỉ ban ngày mà cả trong đêm nó cũng tiếp tục. Và thế thì việc mơ biến mất. Bạn mơ bởi vì bạn muốn; mơ của bạn phản ánh muốn của bạn. Bây giờ, bạn có thể cứ giải phẫu các ham muốn của mình trong nhiều kiếp, và bạn sẽ không đạt tới cái gì cả. Bạn có thể cứ phân tích giấc mơ của mình....

Có nhiều hệ thống phân tích. Nếu bạn đi tới người theo trường phái Freud họ sẽ phân tích giấc mơ của bạn theo một cách: họ sẽ diễn giải mọi thứ là dâm dục. Những thứ tưởng tượng được, những thứ không tưởng tượng được, mọi thứ đều phải qui về dâm dục. Nếu bạn đi tới người theo trường phái Adler với cùng giấc mơ đó, họ sẽ diễn giải chúng theo ý thức hệ của họ. Thế thì mọi thứ đều được qui về ý tưởng của Adler: ý chí quyền lực. Thế thì mọi thứ chẳng là gì ngoài ý chí nắm quyền; từng giấc mơ đều phải khớp với triết lí của ông ấy. Và đó cũng là trường hợp với người theo trường phái Jung và những người khác.

Và một điều đã được quan sát lặp đi lặp lại - một hiện tượng rất lạ xảy ra. Nếu bạn đi tới nhà phân tâm thuộc bất kì loại nào - Freud, Jung, Adler - bạn bắt đầu mơ theo cách nhà phân tâm của bạn mong đợi bạn mơ. Nếu bạn đi tới nhà phân tâm theo Freud, sớm hay muộn bạn bắt đầu mơ tương ứng theo ý tưởng của ông ấy. Mọi người rất sẵn lòng giúp đỡ; họ cảm thấy thương hại cho nhà phân tích đáng thương. Và ông ấy đang làm nỗ lực vất vả thế để phân tích giấc mơ của bạn. Đầu tiên ông ấy bắt đầu cho bạn diễn giải và thế rồi bạn bắt đầu mơ theo diễn giải của ông ấy. Chẳng mấy chốc các bạn khớp lẫn nhau - cứ dường như các bạn được làm ra cho nhau. Thế thì ông ấy sướng và bạn sướng. Ông ấy sướng bởi vì lí thuyết của ông ấy được xác nhận và bạn sướng là bạn là anh chàng tốt, mơ tương ứng với chuyên gia lớn. Và khi bạn thấy nhà phân tâm của mình sướng, bạn cảm thấy sướng. Thấy bạn sướng, ông ấy cảm thấy sướng. Đó là dàn xếp lẫn nhau thế! Và không ai thực sự được giúp đỡ... việc mơ tiếp tục.

Tôi chưa bao giờ bắt gặp một người nào được phân tâm đầy đủ, bởi vì theo Freud, người được phân tâm đầy đủ là người có giấc mơ đã biến mất. Và điều đó là không đúng ngay cả với bản thân Sigmund Freud; ông ấy liên tục mơ tới chính lúc cuối cùng của mình. Và ông ấy rất sợ phân tâm, bạn sẽ ngạc nhiên mà biết, bởi vì ông ấy biết các đệ tử của mình sẽ chỉ chứng minh rằng mọi giấc mơ của ông ấy đều dâm dục.

Có lần Jung muốn phân tâm Freud. Jung là đệ tử yêu mến nhất của ông này vào những ngày đó, cũng như có thời Judas đã là một trong những đệ tử yêu mến nhất của Jesus. Và điều Judas đã làm cho Jesus, Jung đã làm cho Freud. Mọi người có tên bắt đầu bằng 'J' đều nguy hiểm!

Freud và Jung đã du hành và họ bắt đầu nói. Jung nói, 'Ý tưởng này xuất hiện trong tôi lặp đi lặp lại: rằng tôi muốn phân tâm thầy. Thầy đã không được phân tâm. Thực ra, không ai không được phân tâm nên có quyền đi phân tâm người khác. Và thầy là người sáng lập - thầy phải được phân tâm chứ.'

Freud thực tại bắt đầu run rẩy và ông ấy nói, 'Không, không, không bao giờ! Điều đó sẽ phá huỷ danh tiếng của ta.'

Jung nói, 'Nếu điều đó là vậy, thế thì nó đã phá huỷ danh tiếng của thầy rồi, ít nhất cũng là với tôi. Nếu thầy sợ nhiều thế về việc nói về giấc mơ của thầy, điều đó đơn giản chỉ ra loại giấc mơ nào thầy phải có.'

Không một người nào trên thế giới được phân tâm toàn bộ cả. Và chừng nào mơ còn chưa biến mất, tâm trí bạn sẽ vẫn còn trong rối loạn. Mơ đơn giản nói bạn không biết cách gạt tâm trí mình ra; bạn không biết công tắc tồn tại ở đâu để cho bạn có thể bật hay tắt nó đi theo nhu cầu của mình. Khi bạn sắp đi ngủ bạn không thể tắt được nó đi; nó cứ huyên thuyên. Cho dù bạn nói với nó, 'Câm đi!' nó không nghe bạn chút nào; nó chẳng bận tâm. Và bạn biết hoàn toàn rõ nó sẽ không nghe lời. Bạn cảm thấy bất lực khi có liên quan tới tâm trí riêng của mình tới mức bạn phải đi theo nó, nó không đi theo bạn. Nếu nó muốn huyên thuyên nó sẽ huyên thuyên; khi bạn rơi vào giấc ngủ, dầu vậy nó vẫn cứ huyên thuyên.

Nghệ thuật của thiền làm cho bạn nhận biết công tắc ở đâu: nó là trong việc chứng kiến. Chứng kiến là công tắc có thể bật hay tắt tâm trí bạn. Bạn trở thành thầy, cho nên khi bạn muốn dùng nó bạn dùng nó và khi bạn không muốn dùng nó bạn đơn giản tắt nó đi và điều đó cho tâm trí nghỉ ngơi.

Do đó tâm trí của thiền nhân còn sáng chói hơn nhiều, thông minh hơn nhiều, sống động hơn nhiều, nhạy cảm hơn tâm trí của người không thiền, bởi vì tâm trí của thiền nhân có vài thời kì nghỉ ngơi sâu, sâu sắc làm tươi trẻ lại nó. Nếu bạn nhìn thiền nhân và người đó không thông minh, điều đó đơn giản nghĩa là người đó không phải là thiền nhân chút nào. Thiền nhân không thể ngu xuẩn được, thiền nhân không thể xoàng xĩnh được; điều đó là không thể được. Nếu người đó là thiền nhân, thế thì người đó sẽ toả ra sự sắc bén, thông minh, chói sáng. Người đó sẽ là thiên tài, người đó sẽ sáng tạo.

Thực ra, nếu chúng ta có thể tạo ra ngày càng nhiều thiền nhân trên thế giới này, trong mọi chiều hướng của cuộc sống, sẽ có nhiều sáng tạo hơn, nhiều thông minh hơn, ít ngu xuẩn hơn, ít lờ phờ hơn. Nhưng điều đó đã không xảy ra trong nhiều thời đại. Chính cái đối lập đã xảy ra bởi vì nhân danh thiền, cái gì đó khác đã tiếp tục. Nhân danh thiền mọi người hoặc đã tập trung hoặc suy tư. Cả hai đều không phải là thiền.

Tập trung chính là cái đối lập của thiền và suy tư cũng vậy, theo cách khác. Tập trung nghĩa là đóng tâm trí bạn lại, hội tụ tâm trí bạn, vào một điểm nào đó, vào đối tượng nào đó. Bạn hội tụ vào đối tượng nào đó tới mức bạn trở nên không nhận biết về mọi thứ khác; đó là tập trung. Nó loại ra mọi thứ khác; nó chỉ bao hàm một điều: đối tượng của sự tập trung của bạn, dù nó là bất kì cái gì.

Và thiền nghĩa là mở tuyệt đối. Nó bao gồm tất cả, nó không loại trừ cái gì. Do đó nó không tập trung chút nào. Nó là trạng thái mong manh, cởi mở, sẵn có.

Người đang cố gắng tập trung có thể bị làm phân tán. Người đó có thể dễ dàng bị phân tán bởi bất kì cái gì. Mỗi con chó nhà hàng xóm bắt đầu sủa và người đó bị phân tán, đứa trẻ bắt đầu cười khúc khích và người đó bị phân tán, con chim bắt đầu hót và người đó bị phân tán. Bất kì cái gì cũng có tác dụng, cứ dường như người đó chỉ chờ đợi bất kì cái gì làm phân tán mình; người đó mệt mỏi vì tập trung tâm trí mình. Đó là dồn nén, đó là căng thẳng.

Thiền không phải là dồn nén, nó không phải là căng thẳng. Người ta không bao giờ mệt mỏi vì thiền. Nó là thảnh thơi - làm sao bạn có thể mệt mỏi vì nó được? Nó là nghỉ ngơi sâu sắc, nó là nghỉ ngơi hoàn toàn. Người ta sẵn có cho mọi thứ; không cái gì có thể phân tán được bạn.

Bạn có thể nghe tôi hoặc như việc tập trung hoặc như thiền. Nếu bạn nghe tôi như việc tập trung, thế thì bất kì cái gì cũng có thể làm phân tán được. Chiếc ô tô chạy qua... con chim cúc cu bắt đầu hót từ khoảng xa - chim chóc huyên thuyên. Bất kì cái gì cũng có thể phân tán được bạn, bất kì cái gì nhỏ bé. Không phải chim chóc quan tâm tới việc làm phân tán bạn đâu; chúng không quan tâm tới bạn chút nào. Nhưng bạn sẽ cảm thấy tức tối nảy sinh trong bạn.

Đó là lí do tại sao cái gọi là người tôn giáo trở nên cáu giận hơn bất kì ai khác. Họ sống gần như trong cuồng nộ. Nếu một người trong nhà bạn trở nên có tính tôn giáo, người đó là đủ để tạo ra rắc rối cho mọi người, bởi vì từng điều nhỏ bé làm phân tán người đó và thế rồi người đó trả thù.

Bạn có thể nghe tôi trong thiền. Thế thì bạn không tập trung vào tôi; bạn đơn giản ngồi đó sẵn có, cởi mở. Chim chóc cứ huyên thuyên; điều đó nữa cũng tới bạn, nhưng bởi vì bạn không tập trung nên nó không phải là việc phân tán - nó làm giầu có. Điều tôi đang nói với bạn được làm giầu thêm. Tiếng hót của chim trở thành bối cảnh cho điều đó. Và bạn chưa bao giờ cảm thấy giận và bạn chưa bao giờ cảm thấy căng thẳng.

Suy tư cũng không phải là thiền. Suy tư nghĩa là suy nghĩ. Suy nghĩ có thể có hai kiểu. Một kiểu là dic dắc, nhảy từ đối tượng này sang đối tượng khác, chút ít điên khùng; đó là suy nghĩ bình thường. Bất kì cái gì cũng dẫn tới bất kì cái gì. Chó bắt đầu sủa và bạn bắt đầu nghĩ về bạn gái. Dường như chẳng có quan hệ gì, nhưng có thể cô bạn gái của bạn có lần đã nói, 'Em cứ sủa vào anh và anh không nghe!' Đột nhiên con chó nhắc nhở bạn. Hay có thể cô ấy cũng có con chó sủa bạn bất kì khi nào bạn tới gặp cô ấy. Và thế rồi từ điều này sang điều khác... bạn sẽ không ở cùng bất kì cái gì lâu đâu. Bạn gái nhắc nhở bạn về mẹ cô ấy, vân vân và vân vân. Không ai biết bạn sẽ chấm dứt ở đâu. Khi bạn nhìn một cách nội quan, bạn sẽ ngạc nhiên: chỉ chó sủa ở nhà hàng xóm đã bắt đầu cho toàn thể quá trình ý nghĩ.

Suy tư nghĩa là vẫn còn quan tâm tới một đối tượng, suy nghĩ về nó và chỉ về nó thôi. Suy nghĩ có sự nhất quán. Nếu bạn đang nghĩ về yêu, thế thì bạn đang nghĩ về yêu và mọi khía cạnh của nó. Bạn không nhảy từ điều này sang điều khác. Vâng, bạn có chiếc dây thừng nhỏ để cho bạn có thể di chuyển quanh chủ đề tình yêu, nhưng bạn cứ di chuyển quanh nó, vòng vòng vèo vèo. Bạn quên mất toàn thế giới - tình yêu trở thành thế giới của bạn trong khoảnh khắc đó.

Thiền không phải là suy tư bởi vì nó không phải là suy nghĩ chút nào - nhất quán, không nhất quán, điên khùng, lành mạnh. Nó không phải là suy nghĩ chút nào; nó là chứng kiến. Chỉ ngồi im lặng sâu bên trong bản mình, nhìn vào bất kì cái gì đang xảy ra cả bên trong và bên ngoài. Bên ngoài có tiếng ồn giao thông, bên trong cũng có tiếng ồn giao thông - giao thông trong đầu. Nhiều ý nghĩ thế - xe tải và xe bus các ý nghĩ và tầu hoả và máy bay các ý nghĩ, xô theo mọi hướng. Nhưng bạn đơn giản ngồi xa cách, không quan tâm, quan sát mọi điều mà không có đánh giá.

Bạn hỏi tôi, Gautami, 'Có cần đi qua phân tích giấc mơ để đạt tới chứng ngộ không?'

Không, chẳng cần chút nào. Bạn đã bao giờ nghe nói bất kì ai trở nên chứng ngộ qua phân tâm không? Vâng, mọi người đã trở nên điên, nhưng chẳng ai đã trở nên chứng ngộ.

Phân tâm phụ thuộc vào phân tích tâm trí, và họ không thấy gì khác trong bạn. Thân thể được chăm sóc bởi các nhà sinh lí học; thế rồi tất cả các phần còn lại là giao thông thường xuyên trong tâm trí của hoặc ý nghĩ hoặc mơ mộng, kí ức, tưởng tượng, ham muốn. Nhà phân tâm chẳng có gì khác để làm: ông ấy nhìn vào quá trình mơ của bạn. Và tại sao ông ấy chọn mơ? - bởi vì nếu ông ấy hỏi bạn nghĩ gì khi bạn thức bạn sẽ không bao giờ chân thực, bạn không bao giờ chân thành. Bạn lừa dối, không thực thà tới mức bất kì cái gì bạn nói về suy nghĩ của mình đều nhất định được quản lí; nó sẽ không còn đúng. Bạn sẽ chỉ nói cái đáng nói và bạn sẽ xoá bỏ đi nhiều điều. Bạn sẽ sửa lại ý nghĩ của mình. Bạn sẽ không cho phép nhà phân tâm nhìn vào trong ý nghĩ của bạn mà không bị kiểm duyệt nào, không có sửa đổi nào. Bạn sẽ không cho phép ông ấy thấy chất liệu thô của ý nghĩ của bạn bởi vì điều đó sẽ có vẻ như bạn đang điên khùng.

Bạn có thể thử điều đó. Ngồi trong phòng mình, đóng tất cả các cửa ra vào để cho không ai có thể vào, và bắt đầu viết ra bất kì cái gì xảy ra trong tâm trí bạn - dù nó là bất kì cái gì. Cứ viết ra trong mười lăm phút, thế rồi đọc nó - và bạn sẽ bị choáng. Đây là tâm trí mình sao? Tất cả những ý nghĩ này đang diễn ra trong tâm trí mình sao? Mình có điên hay cái gì đó không? Bạn không thể đưa nó cho bất kì ai xem được.

Cũng tốt là mọi người không có cửa sổ trong đầu họ; bằng không vợ sẽ nhìn qua cửa sổ đó trong đầu chồng và cô ấy sẽ thấy mọi thứ. Dẫu sao thì cô ấy cũng thấy mọi thứ, dù có cửa sổ hay không cửa sổ!

Nhà phân tâm phải phụ thuộc vào giấc mơ của bạn bởi vì trong mơ rất khó để bạn lừa ông ấy. Bạn không tự biết điều giấc mơ của bạn nghĩa là gì cho nên bạn phải nói chúng như chúng vậy, và ông ấy có thể thấy vài manh mối về bạn. Nhưng điều này sẽ không làm cho bạn chứng ngộ đâu. Điều này có thể giúp bạn chút ít trở nên bình thường hơn, nhưng bình thường là gì? Ngay cả những người bình thường cũng không bình thường - họ bất thường một cách bình thường, có vậy thôi. Cho nên bạn sẽ là bất thường một cách bình thường.

Có hai kiểu người bất thường trên thế giới này: bất thường một cách bình thường, bất thường một cách bất thường. Công việc của nhà phân tâm là đem người bất thường một cách bất thường về loại thứ nhất: bất thường một cách bình thường. Ông ấy giúp bạn điều chỉnh theo xã hội, với mọi người, với bản thân bạn, nhưng ông ấy không thể giúp bạn trở nên chứng ngộ được.

Bạn có thể cứ đi và phân tích các giấc mơ của bạn và bạn sẽ không bao giờ đi tới việc chứng kiến linh hồn của bạn qua phân tích đó. Làm sao bạn có thể đi tới nhân chứng bằng việc phân tích giấc mơ? Giấc mơ này sẽ đưa bạn vào giấc mơ khác. Có thể bạn sẽ trở thành tay mơ rất điêu luyện, rất nghệ thuật. Có thể bạn sẽ bắt đầu mơ theo cách tốt hơn, theo cách khoa học hơn, nhưng mơ vẫn là mơ thôi. Chúng không thể đưa bạn tới nhân chứng của mơ được, điều chính là thực tại của bạn.

Al: 'Tớ có giấc mơ hay lắm - tớ mơ tớ phá được ngân hàng ở Monte Carlo.'

Charles: 'Tớ cũng có giấc mơ hay tuyệt - tớ mơ tớ ở trong phòng cùng với Sophia Loren và Brigitte Bardot.'

Al: 'Úi chào! Cả Bardot và Sophia! Sao cậu không gọi tớ?'

Charles: 'Tớ có gọi đấy, nhưng cô hầu của cậu nói cậu ở Monte Carlo!'

Bạn có thể phân tích giấc mơ này. Sẽ thu được cái gì? Chẳng có ngân hàng ở Monte Carlo chẳng có Sophia Loren hay Bardot - chẳng cái gì là cái thu được của bạn cả. Nhưng nhà phân tâm sẽ phân tích nó. Nếu bạn đi tới nhà phân tâm trường phái Adler, nhấn mạnh của ông ấy sẽ là vào ngân hàng ở Monte Carlo: ý chí về quyền, tiền, danh. Ông ấy sẽ quên tất cả về Sophia Loren và Bardot; ông ấy không quan tâm - cái đó chẳng là gì cả. Nếu bạn đi tới nhà phân tâm trường phái Freud, ông ấy sẽ không nghĩ về Monte Carlo và ngân hàng chút nào; điều đó là không bản chất, ngẫu nhiên. Điều thực là Sophia Loren và Bardot.

Và nếu bạn đi tới nhà phân tâm trường phái Jung, thế thì chẳng ai biết ông ấy sẽ làm gì với giấc mơ của bạn. Ông ấy lẫn lộn thế! Nhưng ông ấy sẽ làm nhặng sị lên về nó, đến mức đó là chắc chắn. Ông ấy sẽ tạo ra nhiều bụi - bụi bí truyền. Ông ấy có thể bắt đầu nhìn vào giấc mơ của bạn và tìm ra những điều mà bạn chưa bao giờ ngờ tới - những điều huyền bí cổ đại, có thể là huyền bí Ai Cập. Hay ông ấy có thể thậm chí còn đi xa hơn - tới thời Atlantis. Ông ấy thực sự là kẻ đào mồ. Và ông ấy cứ tìm ra những điều không có đó.

Bạn phải đã nghe định nghĩa về triết gia. Triết gia là người mù đi tìm trong đêm tối, trong phòng tối, con mèo đen mà lại không có đó. Nhưng Jung đã tìm thấy nó ở đó đấy! Đó là cái đẹp của Jung - ông ấy tìm thấy con mèo đen mà không có ở đó; ông ấy vẫn tìm thấy nó. Và ông ấy tạo ra nhiều khói và bụi tới mức bạn không thể phủ nhận được ông ấy. Ông ấy tạo ra luận cớ lớn lao. Và bản thân ông ấy lại rất sợ đi tới nhân chứng.

Ông ấy đã từng ở Ấn Độ, và đã có một người đàn ông - một người mà khả năng về người đó chỉ thỉnh thoảng mới xảy ra. Maharshi Raman còn sống. Và bất kì khi nào Jung tới Ấn Độ, gần như ở mọi nơi mọi người đều gợi ý cho ông ấy, 'Sao ông phí thời gian đi đây đó, đi tới Varanasi và Bombay? Sao ông không đi tới Maharshi Raman?' Mọi người biết rằng ông ấy là nhà phân tâm lớn, nổi tiếng thế giới. 'Ông nên đi tới Maharshi Raman, người đã vượt ra ngoài tâm trí. Ngồi bên cạnh ông này ông có thể có vài thoáng nhìn. Ông có thể thành con người được hoàn toàn thay đổi.'

Nhưng Jung né tránh ông này, ông ấy đã không đi tới đó. Ngược lại, trên đường về nhà ông ấy bắt đầu viết chống lại huyền môn phương Đông. Ông ấy có thể đã không viết chống lại huyền môn như vậy bởi vì bản thân ông ấy đã tạo ra nhưng điều huyền bí lớn lao - nhưng nông cạn bởi vì ông ấy đã không là người được điểm đạo vào bất kì trường phái huyền môn nào. Ông ấy đã thu thập nhiều thứ từ các nguồn nông cạn. Ông ấy chưa bao giờ tiếp xúc với một thầy sống. Ông ấy đã tới gần vị phật thế - Maharshi Raman - vậy mà ông ấy đã bỏ lỡ. Và trong việc tự bảo vệ ông ấy đã bắt đầu viết lúc về nhà rằng huyền môn phương Đông không được ngụ ý dành cho tâm trí phương Tây - cứ dường như có linh hồn phương Đông và linh hồn phương Tây nữa. Vâng, có khác biệt trong lớp da của người phương Đông và người phương Tây; điều đó chẳng mấy là khác biệt đâu, chỉ chút ít về sắc tố da - đáng giá bốn xu. Và nhớ lấy, người da đem có sắc tố nhiều hơn người da trắng. Người đó có giá trị hơn - giá trị hơn bốn xu - bởi vì người đó có sắc tố nào đó làm cho người đó đen trong khi người da trắng bị thiếu.

Và vâng, có khác biệt nào đó trong tâm trí, bởi vì tâm trí phương Đông được ước định theo cách khác và tâm trí phương Tây được ước định theo cách khác. Ước định là khác, nhưng nhân chứng là như nhau. Jesus và Phật, Mohammed và Mahavira, là không khác nhau. Thánh Francis và Ramakrishna, Eckhart và Krishnamurti là không khác. Người đã biết tới nhân chứng thì không là phương Đông không là phương Tây. Người đó không còn là thân thể và không còn là tâm trí - làm sao người đó có thể là người phương Đông hay phương Tây?

Và Jung bắt đầu nói điều vô nghĩa này để tự bảo vệ. Ông ấy nói, 'Đó là lí do tại sao tôi né tránh Maharshi Raman, bởi vì phương pháp phương Đông không phù hợp với chúng tôi. Phương Tây cần yoga riêng của mình, phương Tây cần thiền riêng của mình.' Khác biệt gì có thể có đó trong việc là nhận biết? Dù bạn ở phương Đông hay ở phương Tây, nhận biết sẽ là như nhau - và điều đó là cốt lõi bản chất của thiền.

Họ là những người diễn giải lớn lao về giấc mơ... toàn bộ thế giới của nhà phân tâm là thế giới của mơ. Và khi có liên quan tới người chứng ngộ, với ông ấy toàn bộ thế giới không là gì ngoài giấc mơ. Với nhà phân tâm, mơ là toàn thể thế giới của ông ấy, và với người chứng ngộ toàn thể thế giới không là gì ngoài giấc mơ.

Nhà phân tích bực mình với cô bệnh nhân, cô ấy nói cô ấy đã không mơ đêm hôm trước.

'Trông đây,' anh ta cảnh báo cô ta, 'nếu cô không làm bài tập về nhà, tôi không thể giúp cô được đâu.'

Việc mơ là cần; đó là bài tập ở nhà của bạn. Làm nó ở nhà và thế rồi tới nhà phân tâm, và ông ấy ở đó với toàn thể tri thức chuyên gia để phân tích nó.

Gautami, chứng ngộ nghĩa là đi ra ngoài ham muốn và mơ. Không cần phí thời gian của bạn vào phân tích. Cứ đi ra ngoài, đưa toàn thể năng lượng của bạn đi vào cõi bên kia. Và khi bạn đi ra bên ngoài, mọi giấc mơ biến mất theo cách riêng của chúng.

Câu hỏi thứ ba:

Thưa thầy kính yêu,

Sao tôi cứ mất đi mọi thứ trừ bản ngã của mình?

Sughanda.... Odum, một người da đen già bị gọi ra trước thẩm phán hoà giải, bị buộc tội giữ con chó hoang.

'Con chó đó đã cắn con gái tôi Bobbie Jo ba lần,' người mẹ phàn nàn.

'Con chó của ông có cắn bé Bobbie Jo không?' thẩm phán hỏi.

'Không, thưa ngài,' Odum nói. 'Con chó của tôi, nó chưa bao giờ cắn bất kì bé gái nào.'

'Được,' thẩm phán nói với người mẹ, 'người này nói rằng con chó đó đã không cắn bé gái của bà.'

'Tôi sẽ về nhà và đem Bobbie Jo đến đây và chỉ cho các ông xem,' người đàn bà nói.

'Khoan đã,' người da đen nói. 'Ngay chỗ đầu tiên, con chó này già thế nó không có răng và nó không thể cắn được. Điều thứ hai, con chó này mù và không thể thấy được Bobbie Jo bằng cách nào cả. Điều thứ ba, con chó này điếc và không thể nghe được gì. Và điều thứ tư, nó không phải là con chó của tôi ngay chỗ đầu tiên.'

Sughanda, bạn không thể đánh mất bản ngã của mình bởi vì ngay chỗ đầu tiên nó không tồn tại chút nào. Bạn có thể đánh mất mọi thứ khác bởi vì những thứ đó thực sự tồn tại, nhưng làm sao bạn có thể đánh mất cái gì đó không tồn tại được? Bạn không thể đánh mất cái bóng của mình được; nó không tồn tại. Và bản ngã cỏn giả hơn là cái bóng của bạn; nó thậm chí không phải là cái bóng. Nó không phải là chất liệu, nó thậm chí không phải là cái bóng. Nó chỉ là ý tưởng được xã hội cấy vào bên trong bạn. Nó không có thực tại, cho nên làm sao bạn có thể làm mất nó được?

Cách duy nhất để làm mất nó là tìm nó - và bạn sẽ không thấy nó. Và khi bạn không thấy nó bạn đã làm mất nó. Đi vào bên trong và tìm nó đi, kiếm nó đi.

Đó là điều các thiền nhân đã từng làm trong nhiều thế kỉ. Họ nhắm mắt lại và họ đi vào trong và họ kiếm bản ngã, nơi có nó - và họ không thể tìm thấy được nó. Khi bạn không thể tìm thấy được nó và bạn đã nhìn vào mọi xó xỉnh ngóc ngách của bản thể mình và nó không thể được tìm thấy ở đâu cả, thế thì bạn biết bạn đã đánh mất nó. Ngay chỗ đầu tiên, thực sự nó chưa bao giờ có đó cả; nó chỉ là niềm tin của bạn.

Cũng giống như bạn thấy dây thừng trong bóng tối và bạn tin nó là con rắn. Thế rồi bạn run rẩy và vã mồ hôi và chạy và cố gắng tự cứu mình khỏi con rắn - điều không tồn tại chút nào. Mọi việc chạy của bạn và việc vã mồ hôi của bạn chỉ vô ích, nhưng nó có thể nguy hiểm cho bạn nữa. Ngay cả con rắn giả cũng có thể giết chết bạn - bạn có thể bị lên cơn đau tim! Đó là rắc rối với những cái giả; bạn không thể làm mất chúng được - chúng không có đó - nhưng chúng có thể làm những điều thực với bạn.

Bạn có thể thỉnh thoảng đã kinh nghiệm điều đó trong giấc mơ của mình, khi bạn có cơn ác mộng. Bạn chạy, và con hổ đang đuổi theo bạn, và con hổ đang tới mỗi lúc một gần hơn và gần hơn, và bạn chạy mỗi lúc một nhanh hơn và bạn biết rằng chỉ vài khoảnh khắc còn lại thôi. Bạn gần như có thể cảm thấy hơi thở nóng của con hổ sau lưng mình.

Và thế rồi bỗng nhiên bạn đi tới ngõ cụt, đường cùng. Bạn không thể quay lại được - con hổ có đó; bạn không thể tiến lên được. Nếu bạn nhảy xuống thung lũng bạn sẽ chết trước khi bạn tới đáy.

Trong trạng thái đó bạn thức dậy. Cơn ác mộng quá nhiều; nó đánh thức bạn dậy. Tim bạn đập thình thình, hơi thở bạn gấp gáp rối loạn, bạn vã mồ hôi trong đêm lạnh. Và không có hổ - chỉ có vợ bạn để tay lên lưng bạn, thở gần thế.... Bạn thức dậy, cơn ác mộng đã biến mất. Bạn biết không có hổ - 'Đấy chỉ là vợ đáng thương của mình' - nhưng dầu vậy, trong vài khoảnh khắc việc vã mồ hôi vẫn tiếp tục, tim sẽ cứ đập nhanh hơn, bạn sẽ đứng dậy thình lình. Dầu vậy, vẫn biết hoàn toàn rõ rằng tất cả đều là giả, bạn vẫn đang run rẩy.

Đích xác đây là trường hợp với bản ngã: nó là thực thể giả. Khi bạn thức dậy bạn không thể tìm thấy nó. Cho nên vấn đề không phải là vứt bỏ nó. Làm sao bạn có thể vứt bỏ cái gì đó mà không có? Vấn đề là nhìn vào nó, tìm nó, kiếm nó.

Tôi không nói với bạn, 'Tìm và kiếm Thượng đế đi.' Điều đó là vô nghĩa. Làm sao bạn có thể tìm và kiếm Thượng đế được, và ở đâu? Bạn không biết địa chỉ. Và cho dù bạn có gặp quí ông này thì bạn cũng sẽ không nhận ra ông ấy đâu. Cho dù ông ấy nói chào bạn, bạn sẽ không hiểu ngôn ngữ của ông ấy. Ông ấy không nói tiếng Đức, ông ấy không nói tiếng Pháp, ông ấy không nói tiếng Italia - thậm chí không nói cả tiếng Italia!

Nhưng mọi quốc gia đều tin rằng 'Ngài nói ngôn ngữ của chúng ta.' Người Ấn Độ nghĩ rằng ngài nói tiếng Phạn, rằng đích thân ngài đã viết ra Vedas. Và người Mô ha mét giáo nghĩ ngài nói tiếng A rập - đích thân ngài đã nói tiếng A rập qua Mohammed, sứ giả duy nhất. Và tất nhiên, người Do Thái nghĩ họ là người được chọn của Thượng đế - ngài nói tiếng Do Thái.

Sau thế chiến thứ hai một tướng Đức nói chuyện với một tướng Anh. Ông ta nói, 'Tôi không thể tin được làm sao chuyện đã xảy ra, làm sao chúng tôi đã thất bại. Chúng tôi có quân đội tốt hơn các ông, công nghệ tân tiến hơn, chúng tôi được trang bị tốt hơn theo đủ mọi cách. Làm sao chúng tôi đã thất bại và các ông đã thành công?'

Tướng Anh mỉm cười và ông ta nói, 'Lí do là chúng tôi thường xuyên cầu nguyện trước khi bắt đầu mọi trận đánh mỗi ngày.'

Tướng Đức nói, 'Nhưng chúng tôi cũng làm điều đó. Chúng tôi thường cầu nguyện trước khi chúng tôi bắt đầu đánh.'

Người Anh nói, 'Điều đó chúng tôi biết, nhưng chúng tôi thường cầu nguyện bằng tiếng Anh còn các ông cầu nguyện bằng tiếng Đức - và ngài không hiểu tiếng Đức chút nào.'

Mọi nước đều tin ngôn ngữ của mình là thiêng liêng, là ngôn ngữ của Thượng đế. Nhưng Thượng đế chỉ biết ngôn ngữ của im lặng - còn bạn lại không biết tới im lặng. Cho nên khi ngài nói chào bạn, đó sẽ là tiếng chào rất im lặng. Nó sẽ không được thốt ra, nó sẽ không được nói ra; nó sẽ chỉ là cử chỉ. Và gần như là bạn không thể nào nghe được nó bởi vì nó không thể được nghe.

Bạn không thể nhận ra được khuôn mặt của ngài bởi vì nó không giống khuôn mặt của Jesus, nó không giống khuôn mặt của Krishna, nó không giống khuôn mặt của Phật. Tất cả các khuôn mặt đều là của ngài và dầu vậy ngài chẳng có khuôn mặt nào. Thiền nhân gọi khuôn mặt đó là là 'khuôn mặt nguyên thuỷ'; nó không giống ai cả. Người Ki tô giáo sẽ không nhận ra ngài bởi vì họ sẽ tìm khuôn mặt của Christ và người Hindus sẽ không nhận ra ngài bởi vì họ sẽ tìm khuôn mặt của Krishna. Vâng, trong khuôn mặt của Krishna cũng có ngài và trong khuôn mặt của Christ cũng có ngài, nhưng họ chỉ là những con sóng - Krishna, Christ, Phật, Mahavira - và ngài là đại dương. Bạn không thể nhận ra được đại dương nếu bạn chỉ biết về một con sóng; đại dương không phải là sóng mặc dầu mọi con sóng đều thuộc vào đại dương.

Bạn không thể tìm được Thượng đế, và bạn ngủ tới mức mọi tìm kiếm của bạn đều sẽ sai. Điều đầu tiên là tìm bản ngã của bạn; đó là hướng đúng cho người tìm kiếm. Và khi bạn không thấy bản ngã - khi bản ngã không được tìm thấy ở đâu cả, nó đơn giản biến mất - thế thì có khả năng nhận ra khuôn mặt của Thượng đế, bởi vì ngài là vô ngã. Và khi bạn có hương vị của vô ngã, một chút ít hương vị, bạn sẽ hiểu ngài. Khi bản ngã biến mất bạn sẽ biết im lặng là gì, không gian là gì, trống rỗng là gì. Bạn tràn đầy với bản ngã không tồn tại thế; khi nó mất đi rồi bạn sẽ biết khoảng trống lớn lao bên trong bạn. Và ngài là không gian, không gian thuần khiết. Cái gì đó của ngài sẽ được bạn biết tới; thế thì bạn có thể nhận ra ngài, bạn được bắc cầu tới ngài.

Sughanda, bạn nói, 'Sao tôi cứ mất đi mọi thứ trừ bản ngã của mình?'

Bởi vì mọi thứ khác đều có thực tại cụ thể còn bản ngã không có thực tại chút nào. Nếu bạn muốn làm mất bản ngã của mình bạn sẽ phải đi vào trong. Có thể đó là lí do tại sao mọi người không đi vào trong - sợ rằng họ có thể đánh mất bản thân mình. Và nỗi sợ của họ là đúng. Thận trọng vào! Nếu bạn sẵn sàng đánh mất bản thân mình, chỉ thế thì hãy quyết định đi vào trong.

Nhưng khoảnh khắc đó là khoảnh khắc lớn lao trong cuộc sống - khi bạn đánh mất bản ngã của bạn - bởi vì chính khoảnh khắc đó, ngay lập tức, Thượng đế được tìm thấy. Khoảnh khắc đó bạn không có, Thượng đế có. Khoảnh khắc đó bạn bay hơi, Thượng đế giáng xuống bạn.

Câu hỏi thứ tư:

Thưa thầy kính yêu,

Tôi bao giờ cũng cảm thấy rằng con vật rất thân thiện với tôi. Sao vậy?

Roberto, bạn là người Italia! Tôi sẽ kể cho bạn một câu chuyện Italia.

'Thật là tuyệt vời anh mới có quyền năng với các con vật câm,' Rizzoli ba hoa với vợ mình. 'Em để ý bất kì chỗ nào chúng ta đi, lũ chó - con lớn, con bé - chả thành-a vấn đề, chúng-a đều tới và liếm-a tay anh.'

'Có thể,' bà Rizzoli nói, 'nếu thỉnh thoảng anh mà ăn-a bằng dao và dĩa, chúng sẽ không thân thiện thế đâu!'

Chỉ chút ít tính Italia thôi, để cho ngay cả con người cũng có thể thân thiện với bạn.

Câu hỏi thứ năm:

Thưa thầy kính yêu,

Cách thức đúng để xử trí với đàn bà là gì?

Somesh, chỉ có một cách để xử trí với đàn bà. Điều rắc rối là chẳng ai biết nó là gì.

Câu hỏi thứ sáu:

Thưa thầy kính yêu,

Tôi không thích việc thầy bảo chúng tôi đừng nhìn lên mặt trời hôm nay trong khi trời đang nhật thực toàn phần. Tôi nghĩ thầy đã tin vào tự do tuyệt đối.

Sunderam, bạn không phải là người duy nhất hỏi câu hỏi này đâu. Ít nhất hai mươi người ngu khác cũng đã hỏi cùng câu hỏi đó. Tôi xin lỗi là tôi đã bảo bạn đừng nhìn thẳng vào mặt trời - làm điều đó đi! Xin làm cho tôi một ân huệ! Tôi đã hoàn toàn sai khi nói điều đó như vậy - tự do của bạn bị phá huỷ. Hãy tận hưởng tự do của bạn; ít nhất là hôm nay, đừng quên tận hưởng nó. Cứ nhìn thật nhiều nhất có thể được vào mặt trời và đừng dùng thiết bị nào - bởi vì điều đó sẽ cản trở tự do của bạn. Bằng mắt trần - mắt tự nhiên - cứ nhìn vào mặt trời đi. Tận hưởng nó cho thoả lòng bạn.

Tôi đã không định nói điều đó cho bạn. Toàn thể sự trách móc thuộc về Vivek! Cô ấy cứ nài nỉ tôi và nài nỉ tôi nói với các bạn; bằng không tôi đã không định nói cho các bạn điều gì.

Một vài người trong số hai mươi gã ngu này đã nói, 'Chúng tôi chưa bao giờ nghĩ rằng thầy mê tín.' Đây không phải là mê tín - đây là sự kiện khoa học. Có hàng triệu người mê tín đấy. Chẳng hạn, ở Ấn Độ, sau khi nhật thực hết rồi thì đi tắm và nếu bạn có thể tắm ở dòng sông linh thiêng như sông Hằng, điều đó được coi là rất tôn giáo, thiêng liêng - bởi vì người Ấn Độ tin rằng mặt trời đã gặp khó khăn lớn và nó đã ra khỏi khó khăn. Điều đó là mê tín. Mặt trời chẳng gặp khó khăn nào cả. Nhật thực không xảy ra trên mặt trời; mặt trời chẳng liên quan gì tới nhật thực cả. Đó chỉ là mặt trăng đi vào giữa bạn và mặt trời; nhật thực cũng không xảy ra trên mặt trăng. Nó chỉ xảy ra cho chúng ta.

Người Ấn Độ cúng dường sau khi nhật thực qua rồi, hân hoan rằng thần mặt trời ra khỏi bĩ cực. Đấy là mê tín.

Nhưng nhìn vào mặt trời là nguy hiểm - nguy hiểm về mặt khoa học; đó không phải là vấn đề mê tín. Bạn có thể thử điều đó. Vài người trong những người khác đã viết, 'Làm sao chúng tôi có thể tin được vào điều thầy nói khi ngày tháng của thầy sai, ngày của thầy sai?' Điều đó đúng. Cho dù ngày tháng của tôi là sai và ngày của tôi sai, nhật thực sẽ vẫn có cùng hiệu quả. Về ngày và ngày tháng tôi không chắc được thế. Thực ra, tôi không có ý tưởng về thời gian. Tôi cứ phải nhìn đi nhìn lại đồng hồ, bằng không tôi sẽ cứ nói mãi.

Mới tháng trước điều đó đã xảy ra: đồng hồ chết... vào tám giờ hai mươi nó chết. Tôi cứ nhìn đi nhìn lại vào nó... nó cứ mười giờ mười. Và tôi mê tín tới mức tôi vẫn tin vào đồng hồ này! Tôi cứ tưởng lúc đó là tám giờ ba mươi. Cuối cùng tôi bắt đầu thấy sự bất ổn nào đó quanh tôi. Tôi nghĩ, 'Có chuyện gì thế nhỉ? Cái gì sai ở đâu đó rồi.' Tôi nhìn đồng hồ - vẫn tám giờ ba mươi. Tôi nói, 'Không có vấn đề gì; vẫn còn đủ thời gian.'

Vâng, vào ngày mười bốn tôi đã nói, 'Ngày mai.' Một cách tự nhiên, ngày tháng của tôi là sai, nhưng điều đó không có nghĩa là điều tôi nói là sai. Ngày mười lăm hay mười sáu, chả thành vấn đề; ngày tháng là tuỳ tiện thôi. Chúng chỉ là sự sáng tạo của chúng ta - ngày là tuỳ tiện. Nhưng chỉ bởi vì điều đó, nếu bạn hỏi tôi làm sao bạn có thể tin được....

Tôi không bảo bạn tin vào cái gì cả. Bạn có thể đi và kiểm tra với các nhà khoa học - điều đó là nguy hiểm cho mắt, và đôi khi nguy hiểm tới mức mù loà do nó gây ra sẽ không thể chữa được.

Nhưng đây không phải là mệnh lệnh. Tôi không nói rằng nhìn lên mặt trời trong nhật thực là tội lỗi hay tội ác. Tôi không nói rằng đó là cái gì đó vô đạo đức, phi tôn giáo, phi tâm linh. Đó đơn giản ngu xuẩn!

Câu hỏi cuối cùng:

Thưa thầy kính yêu,

Có đúng là tiền không thể mua được hạnh phúc không?

Anando, vâng, điều đó đúng. Tiền không thể mua được hạnh phúc - nhưng nó gây khổ sở còn nhiều hơn là thoải mái. Đó là lí do tại sao tôi không chống lại tiền, tôi ủng hộ tất cả cho nó. Khổ mà thoải mái còn tốt hơn là khổ mà không thoải mái. Tôi đã sống trong nghèo nàn và tôi đã sống trong giầu có, và tin tôi đi: giầu có còn tốt hơn nghèo nàn nhiều.

Đủ cho hôm nay.


Mục lục chính.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Đứa trẻ nổi loạn - Osho

Tự truyện - Cuộc đời luận sư Osho