Chương 4. Buổi sáng tan vỡ
Chương 4. Buổi sáng tan vỡ
Câu hỏi thứ nhất:
Thưa thầy kính yêu,
Khi tôi chết, tôi có thực sự chết không? Tôi muốn thực sự được thuyết phục rằng cái chết là giấc ngủ vĩnh hằng.
Ram Jethmalani này, chết là ảo tưởng lớn nhất. Nó chưa bao giờ xảy ra cả, nó không thể xảy ra được theo chính bản chất của mọi sự. Vâng, có cái gì đó tạo ra ảo tưởng: chết là cắt rời giữa thân thể và linh hồn nhưng chỉ là cắt rời; thân thể không chết mà linh hồn cũng không chết. Thân thể không thể chết được bởi vì nó đã chết rồi; nó thuộc vào thế giới vật chất. Làm sao một vật chết có thể chết được? Và linh hồn không thể chết được bởi vì nó thuộc vào thế giới của vĩnh hằng, Thượng đế - nó là bản thân cuộc sống. Làm sao cuộc sống có thể chết được?
Cả hai cùng có trong chúng ta. Việc nối ghép này trở nên bị cắt rời; linh hồn trở nên bị ngắt ra khỏi thân thể - đó là mọi điều chết là gì, điều chúng ta gọi là chết. Thân thể quay trở về với vật chất, với đất; và linh hồn, nếu nó vẫn có ham muốn, khao khát, bắt đầu tìm kiếm bụng mẹ khác, cơ hội khác để hoàn thành chúng. Hay nếu linh hồn được kết thúc với mọi ham muốn, với mọi khao khát, thế thì không còn khả năng nào cho nó quay lại trong dạng thân thể nữa - thế thì nó đi vào trong tâm thức vĩnh hằng.
Đi vào trong tâm thức vĩnh hằng là hiện tượng rất ngược đời: người ta không có vậy mà người ta có. Giọt sương tuột vào trong đại dương là không còn nữa, theo một nghĩa nào đó - như một giọt sương nó không còn nữa; biên giới làm cho nó thành giọt sương đã biến mất. Nhưng theo nghĩa khác nó là nhiều hơn là nó đã từng là: nó đã trở thành chính đại dương, biên giới của nó đã mở rộng thành vô hạn, biên giới của nó đã bùng nổ thành vô biên.
Một người như Phật trở thành tâm thức phổ quát, vậy mà - và đây là ngược đời - tính cá nhân của ông ấy không bị mất đi, tâm thức của ông ấy không bị mất đi.
Cho nên, Ram này, tôi không thể nói rằng chết là giấc ngủ vĩnh hằng được - ngược lại, nó là việc thức tỉnh vĩnh hằng. Các nhà thơ đã từng nói với bạn hàng thế kỉ: Chết là giấc ngủ vĩnh hằng - đừng sợ. Bản thân họ không biết, họ đơn giản cho bạn an ủi thôi. Nhưng cái gì có thể là khác biệt giữa chết thực và ngủ vĩnh hằng? Bạn đã bao giờ nghĩ về điều đó chưa? Nếu giấc ngủ là vĩnh hằng nó là chết. Nếu nó không bao giờ bị phá vỡ thì khác biệt ở đâu? Cái xác và người ngủ vĩnh hằng đích xác là một. Nếu giấc ngủ sẽ là mãi mãi và mãi mai, nó là chết.
Người nguyên thuỷ ở gần với chân lí này hơn nhiều: họ nói rằng giấc ngủ là cái chết nhỏ. Họ đúng đấy, bởi vì trong vài giờ bạn trở nên hoàn toàn quên lãng thế giới, người khác, bản thân bạn, thân thể bạn. Bạn trở nên hoàn toàn bị ngắt ra trong vài giờ, thế rồi bạn được nối lại. Nó là cái chết nhỏ. Giấc ngủ là cái chết nhỏ nhưng điều ngược lại không đúng: chết không phải là giấc ngủ vĩnh hằng; nếu nó là vậy thì khác biệt sẽ là gì, Ram?
Nếu bạn đơn giản muốn an ủi bản thân mình rằng, 'Mình sẽ là việc ngủ vĩnh hằng trong cái chết,' điều đó là chuyện khác. Nhưng chân lí không an ủi bạn; chân lí là như nó vậy. Chân lí là ở chỗ cái chết có hai khả năng. Nếu bạn chết đi với khao khát, ham muốn, thế thì nó đem bạn quay lại trong thân thể khác, bởi vì không có thân thể bạn không thể làm nỗ lực nào để hoàn thành ham muốn của mình. Không có thân thể bạn không thể ăn thức ăn, bạn không thể làm tình; không có thân thể bạn không thể trở thành thủ tướng đất nước được - không có thân thể không thể làm gì được. Thân thể là phương tiện để làm mọi thứ; thu nhận, đi lại, đạt tới, đi tới. Không có thân thể bạn đơn giản hiện hữu; nó là trạng thái hiện hữu. Có thân thể bạn bao giờ cũng trở thành: trở thành cái này, trở thành cái nọ, giầu hơn, nổi tiếng hơn, thành công hơn. Không có thân thể mọi việc trở thành đều dừng lại. Trở thành là cái tên khác cho ham muốn, cho nên nếu một người chết đi với ham muốn sâu, sâu sắc để trở thành cái gì đó, người đó sẽ được sinh ra lần nữa trong thân thể khác. Đó là một phương án.
Phương án thứ hai là: nếu bạn đã hiểu ra cái vô tích sự của ham muốn, cái ngu xuẩn hoàn toàn của ham muốn, nếu bạn đã thấy điều đó thấu suốt - rằng không ham muốn nào đã bao giờ có thể được hoàn thành, rằng nó hứa hẹn và nó hứa hẹn nhiều đấy nhưng nó không bao giờ chuyển giao hàng hoá, rằng mọi ham muốn đều lừa dối, rằng chính vì không thông minh của chúng ta mà chúng ta cứ thành nạn nhân của ham muốn; nếu bạn đã thấy điều đó thấu suốt và bạn chết đi mà không phóng chiếu nào trong tâm trí, không hạt mầm nào của ham muốn, thế thì mọi hạt mầm đều bị thiêu cháy. Chính bởi vì điều này mà Patanjali đã gọi trạng thái tối thượng của samadhi là nirbeej samadhi, samadhi vô chủng tử - nếu bạn có thể chết đi cùng với mọi hạt mầm đã bị thiêu cháy, sẽ không có việc nảy mầm thêm nữa, sẽ không có việc sinh khác.
Thế thì bạn đi đâu? Bạn không rơi vào giấc ngủ. Thực ra để đạt tới trạng thái samadhi vô chủng tử người ta phải tuyệt đối thức tỉnh, người ta phải là vị phật, bởi vì hạt mầm của ham muốn bị thiêu cháy chỉ trong ngọn lửa của thức tỉnh. Cho nên nếu bạn chết đi mà không có ham muốn nào, bạn chết đi trong nhận biết toàn bộ, bạn thấy cái chết xảy ra. Và lại nhớ, với 'chết' tôi ngụ ý bạn thấy sự cắt đứt xảy ra - dần dần, từ từ linh hồn trở nên tách rời khỏi thân thể. Dần dần, dần dần nó trở nên bị bật rễ khỏi thân thể, nó trở nên tự do hơn khỏi nhà tù. Và một khoảnh khắc tới khi bạn tự do toàn bộ khỏi nhà tù, ở bên ngoài nhà giam có tên là cơ chế thân tâm.
Thế thì bạn vẫn còn thức tỉnh vĩnh hằng. Thế thì bạn vẫn còn trong vũ trụ, khuếch tán trong đại dương cuộc sống, nhưng thức tỉnh vĩnh hằng. Nó không phải là trạng thái ngủ.
Bạn hỏi tôi, 'Khi tôi chết, tôi có thực chết không?' Ram Jethmalani, bạn thực sẽ không thể chết, nhưng Ram Jethmalani sẽ chết, bởi vì Ram Jethmalani không là gì ngoài cái tên của tổ hợp linh hồn và thân thể; nó là cái tên của sự đồng nhất. Chúng ta cảm thấy bị đồng nhất với thân thể mình; chúng ta nghĩ chúng ta là thân thể mình, tâm trí mình. Nhớ lấy, tâm trí chỉ là một phần của thân thể, phần tinh tế, phần vô hình. Nếu chúng ta bị đồng nhất với cơ cấu thân tâm, thế thì chắc chắn sự đồng nhất này sẽ chết.
Ram Jethmalani nhất định chết, nhưng có cái gì đó trong Ram Jethmalani sẽ không chết đâu. Bạn phải trở nên nhận biết về nó. Và cách duy nhất để trở nên nhận biết về nó là có tính thiền nhiều hơn, là nhân chứng nhiều hơn. Bắt đầu quan sát thân thể bạn, bắt đầu quan sát tâm trí bạn; đừng bị dính líu vào, vẫn còn tách rời, xa cách, bình thản. Cứ như một người ngồi trên bờ sông và quan sát dòng sông chảy qua. Bạn không nói, 'Tôi là dòng sông.' Nó là vậy với thân thể, quan sát nó. Trở nên càng ngày càng là nhân chứng hơn. Và khi việc chứng kiến phát triển và trở nên được tích hợp, bạn sẽ có khả năng thấy Ram Jethmalani biến mất thậm chí ngay trước khi chết.
Trong thiền bản ngã chết, bản ngã biến mất. Một khi bản ngã đã biến mất, một khi bạn đã thấy bản thân mình như một thực thể vô ngã, thế thì không có chết cho bạn.
Chúng ta có thể nói điều đó theo cách khác: chính bản ngã tạo ra ảo tưởng về chết. Và bản thân bản ngã là giả, do đó chết nữa cũng là giả. Chúng ta níu bám lấy cái giả, đó là lí do tại sao chúng ta phải khổ từ chết.
Tính chất sannyas nghĩa là trở nên không bị đồng nhất với cơ chế thân tâm - trở thành nhân chứng, người thấy, người quan sát trên núi. Và khi bạn trở thành người thấy, người quan sát, núi càng ngày càng vươn lên cao hơn, và thung lũng tăm tối, tối đen bị bỏ lại đằng sau. Bạn cứ nhìn thung lũng trong lúc này; thế rồi, dần dần, nó trở thành xa tới mức bạn không thể thấy nó được, bạn không thể nghe thấy tiếng động nào từ thung lũng, và một khoảnh khắc tới tại đỉnh tối thượng của núi khi thung lũng không còn tồn tại cho bạn. Thế thì dù vẫn sống, theo một nghĩa nào đó bạn đã chết. Ashtavakra, một trong những nhà tiên tri vĩ đại nhất của đất nước này, nói: sannyasin là người đã chết thậm chí cả khi người đó còn sống. Nhưng người chết trong khi vẫn còn sống sẽ sống khi người đó chết.
Bạn cũng hỏi tôi, 'Tôi muốn thực sự được thuyết phục rằng chết là giấc ngủ vĩnh hằng.'
Ram này, thuyết phục chẳng giúp gì được mấy đâu, bởi vì thuyết phục nghĩa là ai đó khác làm im lặng hoài nghi của bạn, đè nén hoài nghi của bạn, ai đó khác trở thành người có thẩm quyền với bạn. Có thể về mặt logic người đó giỏi biện luận hơn, có thể người đó có tâm trí hợp lí hoá lớn lao và người đó có thể thuyết phục bạn rằng không có cái chết, và bạn có thể bị làm cho im lặng và hoài nghi của bạn có thể bị làm cho im lặng. Nhưng ngay cả hoài nghi đã bị làm im lặng sẽ quay lại, sớm hay muộn, bởi vì chúng đã không biến mất - chúng mới chỉ bị kìm nén bởi các luận cứ logic.
Thuyết phục không ích gì nhiều; hoài nghi dai dẳng như dòng nước ngầm. Người này là người Ki tô giáo được thuyết phục, người khác là người Hindu được thuyết phục. Và tôi đã thấy tất cả các loại người - họ tất cả đều đầy hoài nghi, tất cả họ - người Ki tô giáo, người Hindu, người Mô ha mét giáo. Thực ra một người càng đầy hoài nghi hơn, người đó càng ương ngạnh hơn, người đó càng cố gắng tin hơn, bởi vì những hoài nghi đó là đau đớn. Người đó nói, 'Tôi tin tưởng mạnh mẽ vào Gita, vào Koran, vào Kinh Thánh. Tôi là người Cơ đốc giáo đáng tin cậy.'
Sao bạn cần là người Cơ đốc giáo đáng tin cậy? Để làm gì? Bạn phải đang chịu đựng hoài nghi lớn lao rồi. Nếu bạn không có hoài nghi nào bạn cũng không có tin tưởng nào. Hoài nghi là bệnh tật và tin tưởng là thuốc, nhưng mọi tin tưởng đều là thuốc đối chứng - chúng kìm nén, chúng tất cả đều là chất độc. Mọi tin tưởng đều độc hại. Vâng, trong lúc này họ có thể cho bạn cảm giác rằng bây giờ không có vấn đề gì, nhưng chẳng mấy chốc hoài nghi sẽ khẳng định chúng; chúng sẽ đợi cho tới đúng thời điểm. Chúng sẽ bùng nổ với sự khẩn thiết lớn lao vào một ngày nào đó. Chúng sẽ bùng phát như núi lửa; chúng sẽ báo thù. Bởi vì bạn đã kìm nén chúng nên chúng đã thu thập quá nhiều năng lượng. Một ngày nào đó, vào khoảnh khắc yếu đuối nào đó, khi bạn mất cảnh giác, chúng sẽ báo thù. Cái gọi là thánh nhân của bạn tất cả đều đang chịu đựng hoài nghi lớn.
Không, tôi không thể cho bạn bất kì thuyết phục nào; tôi không tin vào thuyết phục, tin tưởng. Nhưng, Ram này, tôi có thể mời bạn tới cùng tôi, tôi có thể giúp bạn thấy. Sao lại được thuyết phục? Không cần đâu.
Tôi đã thấy và tôi có thể giúp bạn thấy, và chỉ việc thấy riêng của bạn mới có giá trị nào đó. Tôi đã nhận ra: tôi có thể giúp bạn nhận ra. Tôi đã đi qua con đường này: tôi có thể cầm tay bạn trong tay tôi, tôi có thể đưa bạn, dần dần, tới đỉnh cao nhất của kinh nghiệm thiền. Kinh nghiệm riêng của bạn sẽ là biến đổi thực; thế thì hoài nghi không bao giờ có thể quay lại được nữa. Và khi bạn đã biết rồi, bạn sẽ ngạc nhiên rằng tất cả các nhà thơ đã từng bảo bạn rằng cái chết là giấc ngủ, giấc ngủ say, giấc ngủ vĩnh hằng, đều đã nói dối bạn - lời dối trá an ủi, lời dối trá đẹp đẽ, lời dối trá giúp đỡ, nhưng dối trá vẫn cứ là dối trá thôi, và giúp đỡ chỉ có thể là tạm thời.
Cũng giống như khi bạn quá lo nghĩ, quá căng thẳng và bạn uống rượu. Vâng, trong vài giờ bạn sẽ quên tất cả lo nghĩ của mình và tất cả căng thẳng của mình, nhưng rượu không thể lấy đi lo nghĩ của bạn mãi mãi được; nó không thể giải quyết được chúng. Và trong khi bạn chìm trong rượu những lo nghĩ đó lớn lên, trở nên mạnh hơn; bạn đang cho chúng thời gian phát triển. Và khi bạn trở lại vào sáng hôm sau với váng vất và đau đầu được cộng vào với lo nghĩ, bạn sẽ ngạc nhiên; chúng còn lớn hơn khi bạn đã rời bỏ chúng.
Thế rồi điều đó trở thành hình mẫu của cuộc sống: cứ trở nên say mèn để cho bạn có thể quên đi quên lại - nhưng bạn cứ phải đối diện với cuộc sống của mình lặp đi lặp lại. Đây không phải là cách sống thông minh.
Tôi chống lại mọi thứ gây say, chống lại mọi ma tuý. Chúng không ích gì; chúng chỉ giúp cho bạn trì hoãn vấn đề. Tôi muốn thực sự giải quyết các vấn đề của bạn. Tôi đã giải quyết được vấn đề của tôi rồi, và các vấn đề là như nhau, ít hay nhiều. Tôi có thể đem bạn tới gần tôi hơn để cho bạn có thể cảm thấy trái tim tôi và bạn có thể thấy qua mắt tôi và bạn có thể cảm thấy điều đã xảy ra. Và việc cảm đó, việc nếm trải đó, sẽ trở thành lực từ kéo lên bạn.
Điều đó không phải là thuyết phục, điều đó không phải là tin tưởng - điều đó tạo ra tin cậy. Và một khi tin cậy được tạo ra cuộc hành trình đã bắt đầu. Tôi biết, Ram này, bạn cần giúp đỡ lớn lao. Tôi đã nhìn vào trong mắt bạn - chỉ một lần bạn ở đây và chỉ một lần tôi đã nhìn vào mắt bạn - chúng trông rất buồn. Bạn phải đang mang nỗi phiền não lớn bên trong bản thân bạn.
Bên ngoài bạn là con người thành công, luật sư bào chữa tội phạm hàng đầu ở nước này. Bên ngoài bạn thành công theo mọi cách - là nghị sĩ, chủ tịch hội luật sư Ấn Độ - nhưng sâu bên dưới tôi đã thấy, chỉ một thoáng nhìn qua thôi, rằng bạn đang ngồi trên núi lửa. Tôi đã thấy phiền não lớn lao trong mắt bạn, những giọt nước mắt lớn đang đợi chảy ra từ mắt bạn. Bạn không phúc lạc theo bất kì cách nào.
Tôi có thể làm cho bạn phúc lạc được - sao phải hỏi về thuyết phục? - tôi có thể cho bạn kinh nghiệm thực. Toàn thể nỗ lực của tôi ở đây không phải là để cho mọi người tin tưởng mà là kinh nghiệm, không giúp họ một cách hời hợt mà thực sự biến đổi họ. Tôi tuyệt đối sẵn có cho bạn. Và bạn không thể thoát được tôi lâu đâu.
Ram cũng là luật sư của tôi và anh ấy thích thú nói với mọi người rằng 'Tôi là luật sư của Thượng đế.' Nhưng là luật sư của tôi là ở trong nguy hiểm; sớm hay muộn bạn sẽ bị sập bẫy. Có thể đó là lí do tại sao tôi đã chọn bạn làm luật sư của tôi, để cho bạn có thể tới gần tôi hơn. Cách thức của tôi là quanh co khúc khuỷu.
Tình yêu lớn với tôi đã nảy sinh trong bạn. Bây giờ, tình yêu đó là đoá hoa đầu tiên của mùa xuân; nhiều thứ nữa đang trên đường tới.
Nhưng nhớ lấy, toàn thể cách tiếp cận của tôi là cách tiếp cận của kinh nghiệm mang tính tồn tại. Tôi không muốn bạn là người tin tưởng, tôi muốn bạn kinh nghiệm theo cách riêng của bạn; tôi không muốn thuyết phục bạn. Điều tôi đang nói là kinh nghiệm của tôi: không có chết. Tôi không nói với bạn, 'Hãy tin rằng không có chết.' Tôi đơn giản diễn đạt, chia sẻ kinh nghiệm của tôi rằng không có chết. Đó là thách thức! Nó không phải là nỗ lực để thuyết phục bạn, nó là thách thức để đi và thám hiểm. Bạn được đón chào. Nghĩ về tôi như nhà bạn vậy!
Câu hỏi thứ hai:
Thưa thầy kính yêu,
Tôi cảm thấy nỗi buồn sâu sắc cả ngày dài bắt nguồn từ nhận xét của thầy hôm nay về phân tâm và về nhớ lại chuyện cười của thầy trong những năm qua đối với các nhà tâm thần. Trong cuộc sống riêng của mình tôi đã được ân huệ với việc gặp gỡ vài nhà tâm thần, nhà tâm hồn trí huệ và hiếm hoi - một trong số họ đã đưa tôi tới thầy. Những người đó đã cung cấp - và vẫn tiếp tục cung cấp - một ốc đảo cho tôi trong một sa mạc trần trụi khác ở phương tây. Nghề nghiệp của họ không mấy bằng mức độ bản thể họ, điều hấp dẫn tôi. Sao thầy đánh nghề nghiệp của họ mạnh thế? Và làm sao tôi có thể tin cậy vào bản thân mình khi điều đó mâu thuẫn với điều thầy nói? Tôi cảm thấy bị mắc vào điều ngược đời.
Prem Sarjana này, tôi đánh mọi người chỉ khi tôi yêu họ, tôi không phí cú đánh của tôi vào những người không cần thiết, vào những người không xứng đáng đâu. Các nhà phân tâm, các nhà tâm thần, các nhà tâm lí là mục tiêu của tôi. Tôi đang bủa lưới của mình để bắt giữ thật nhiều nhất có thể được.
Người ta kể về Jesus:
Một hôm, vào sáng sớm, ông ấy đi ra hồ; hai anh em, cả hai đều là ngư phủ, đang bủa lưới trong hồ để đánh cá.
Jesus đặt tay lên một trong những người anh em này; anh ta quay lại nhìn, nhìn vào mắt của Jesus còn sâu thẳm hơn hồ, còn im lặng hơn hồ và đẹp hơn nhiều... Anh ta chỉ hiểu hồ này; cả đời anh ta đã làm việc trên hồ, đánh cá. Nhìn vào trong mắt Jesus, lần đầu tiên anh ta trở nên nhận biết rằng điều này là có thể được, rằng mắt cũng có thể đẹp và có thể có chiều sâu thế và sáng tỏ thế và xanh như thế và bao la thế. Anh ta lập tức bị hấp dẫn - anh ta là ngư phủ đơn thuần - và Jesus nói với anh ta, 'Thế là đủ rồi, anh đã đánh cá cả đời mình, bây giờ tới và theo ta: ta sẽ dạy cho anh nghệ thuật bắt người.'
Và người đánh cá này đã theo Jesus, trở thành một trong các tông đồ của ông ấy.
Tôi quan tâm, ngay lập tức quan tâm, tới việc đánh bắt tất cả các loại nhà tâm lí, nhà phân tâm, nhà tâm thần, bởi một lẽ đơn giản là họ có tiềm năng lớn nhất. Họ có thể trở thành mảnh đất đúng cho con người mới tới; họ tự do với tất cả những thứ vô nghĩa tôn giáo, họ tự do với tất cả những cái ngu xuẩn chính trị. Họ là những người tự do nhất theo một cách nào đó. Bây giờ chỉ có một điều còn lại với họ, một rào chắn mỏng: họ đã làm phân tâm thành tôn giáo của mình, họ đã tạo ra ba ngôi riêng của họ - Freud, Adler, Jung. Họ đã tạo ra Kinh Thánh riêng của họ, thượng đế học riêng của họ, bây giờ họ bị mắc vào trong nó... điều đó xảy ra.
Khi bạn đã sống hàng thế kỉ trong tù, cho dù bạn được phép tự do bạn sẽ nhanh chóng đi vào trong nhà tù khác bởi vì điều đó đã thành thói quen của bạn. Bạn không thể sống mà không có xiềng xích. Họ đã phá vỡ mọi xiềng xích nhưng họ bây giờ đã tạo ra xiềng xích mới do chính mình làm ra, và khi bạn làm ra xiềng xích riêng của mình, tự làm bằng tay mình, tự làm ở nhà mình, bạn bị gắn bó với chúng hơn nhiều.
Ai bận tâm về điều Phật nói? Hai mươi nhăm thế kỉ đã qua rồi. Ai để ý điều Jesus đã nói hay đã không nói? Thực ra họ đã lùi xa tới mức không ai thực sự bị ám ảnh bởi họ nữa, ngoại trừ vài người - những người không đương đại, những người vẫn sống từ hai mươi thế kỉ trước.
Nhưng khi bạn tạo ra xiềng xích riêng của mình và nhà tù riêng của mình... và phân tâm là tôn giáo mới nhất - rất dễ sa ngã thành nạn nhân của phân tâm hơn, thành nạn nhân của Sigmund Freud hơn là của Jesus Christ; dễ tin vào Marx hơn là vào Mohammed, hơn là vào Mahavira, hơn là vào Manu, hơn là vào Moses, bởi vì ông ấy gần chúng ta thế, ông ấy nói ngôn ngữ đương đại thế. Và đó là điều đã xảy ra cho những người cộng sản. Điện Kremlin đã trở thành Kaaba của họ, Kashi của họ, Kailash của họ; họ cũng có ba ngôi riêng của họ - Marx, Engels, Lenin; họ đã viết ra Kinh Thánh riêng của họ - Das Kapital. Họ có các tông đồ riêng của họ - Stalin, Mao, Castro, Tito. Và cùng điều đó đang xảy ra cho các nhà phân tâm, nó đã trở thành tôn giáo mới.
Tôi đánh các nhà phân tâm, Sarjana này, bởi vì tôi yêu họ. Tôi thực sự quan tâm tới họ. Tôi muốn họ tới và kinh nghiệm tôi, và tới và biết điều đang xảy ra ở đây. Và nhiều người đã nghe thấy tiếng gọi rồi; trong tất cả các ngành nghề, các nhà phân tâm, các nhà tâm thần, các nhà tâm lí, đã tiếp nhận tôi một cách sâu sắc nhất, sâu lắng nhất. Hàng trăm người trong số họ đã tới và trở thành sannyasins.
Và chắc chắn tôi sẽ cứ đùa cợt về họ; những chuyện cười đó cũng là chuyện tình của tôi. Đó là cách tôi biểu lộ tình yêu của tôi, mối quan tâm của tôi.
Bạn nói, 'Tôi cảm thấy nỗi buồn sâu sắc cả ngày dài bắt nguồn từ nhận xét của thầy hôm nay về phân tâm và việc nhớ lại chuyện cười của thầy trong những năm qua đối với các nhà tâm thần.'
Bạn dường như tự mình đã làm ra tôn giáo từ phân tâm học, đó là lí do tại sao bạn cảm thấy buồn; bằng không bạn đã tận hưởng những chuyện cười rồi, bạn đã yêu chúng rồi. Chúng thật thế.
Các nhà tâm thần đều là những người lập dị, tôi ngụ ý những người hay. Bất kì khi nào tôi nói rằng ai đó là lập dị, tôi đều ca ngợi họ. Bạn phải học ngôn ngữ của tôi. Bất kì khi nào tôi nói rằng ai đó là người lập dị tôi đều ngụ ý rằng ai đó là có giá trị. Là bình thường thì không phải là điều gì lớn lao lắm; là bình thường là trung bình thôi. Đó là kết án, rằng ai đó chỉ là bình thường; điều đó nghĩa là người đó chẳng có gì trong người đó cả, người đó chỉ là lỗ hổng.
Đừng cảm thấy buồn, tôi không chống lại phân tâm đâu - mặc dầu tôi muốn các nhà phân tâm đi ra ngoài nó. Nó phải là bậc đá bước lên. Và bất kì khi nào tôi thấy ai đó níu bám lấy bậc đá tôi đều đánh người đó thật đau để chỉ cho người đó rằng có cái gì đó ở bên ngoài.
Và bạn nói, 'Trong cuộc sống riêng của mình tôi đã được ân huệ với việc gặp gỡ vài nhà tâm thần, nhà tâm hồn trí huệ và hiếm hoi - một trong số họ đã đưa tôi tới thầy.'
Bạn có thể có ân huệ đó - có vài người thực sự thông minh, thông thái. Nhưng bạn không hiểu nghĩa của từ 'trí huệ'. Không thể nào tìm thấy nhà phân tâm trí huệ đâu; nếu người đó mà trí huệ thì người đó đã trở thành sannyasin rồi, người đó sẽ không còn là nhà phân tâm nữa. Và họ có thể là sự giúp đỡ lớn lao; và đặc biệt là ở phương Tây nơi các thầy không tồn tại, nhà phân tâm là khả năng duy nhất để thu được sự giúp đỡ nào đó, việc thay thế thuần tuý cho thầy - bởi vì thầy nghĩa là người đã chứng ngộ, người đã đạt tới, người không còn có vấn đề gì để giải quyết, không còn ham muốn nào để được hoàn thành - người đã được hoàn thành rồi.
Rất khó tìm thấy thầy ở phương Tây. Điều tốt nhất kế đó là nhà tâm thần, nhà phân tâm. Nhưng nhớ lấy, người đó chỉ là tốt nhất kế sau thôi. Và khi tôi nó khó tìm ra thầy ở phương Tây tôi ngụ ý rằng truyền thống phương Tây đã rơi vào trong tay của các linh mục. Trong hai nghìn năm các linh mục đã không cho phép các thầy sống sót, tồn tại; hay thậm chí, mặc kệ họ, một người trở nên chứng ngộ, người đó phải lẩn trốn. Người đó không thể tuyên bố được về chứng ngộ của mình, người đó không thể chia sẻ được chứng ngộ của mình, hay người đó phải chia sẻ nó theo cách mà các tu sĩ đã không trở nên nhận biết về điều người đó làm.
Cho nên hai điều những người chứng ngộ phương Tây đã từng làm: một là giả vờ là một phần của nhà thờ, dùng ngôn ngữ của nhà thờ và đổ chứng ngộ của mình vào trong nó, bởi vì đó là một trong những cách không lâm vào xung đột với nhà thờ và quốc gia; đó là cách đã được Meister Eckhart, thánh Francis, Jacob Bohm và những người khác thực hiện. Họ vẫn còn là một phần của nhà thờ. Đó chỉ là một phương cách để tồn tại và để chia sẻ cái gì đó. Và họ dùng ngôn ngữ của nhà thờ, cái rất không khớp. Họ không thể tự do được như các Thiền sư hay các thầy Sufi; họ không thể diễn đạt được bản thân mình một cách toàn bộ; họ phải bó buộc kinh nghiệm của họ vào cách nói Ki tô giáo, cách nói mờ xỉn, chết. Nếu không thì những người không sẵn sàng thoả hiệp phải đi trốn, họ phải đi vào bí mật; đó là cách giả kin thuật được sinh ra. Các nhà giả kim thuật không phải là các nhà hoá học đâu; các nhà giả kim thuật không thực sự cố gắng biến đổi kim loại cơ bản thành vàng, đó chỉ là phương cách để che giấu đằng sau.
Các nhà giả kim thuật là các thầy thực nhưng họ giả vờ là nhà giả kim thuật, và nếu bạn đã thấy họ từ bên ngoài bạn sẽ thấy họ quan tâm tới kim loại cơ sở và vàng và bạc. Và nhiều thực nghiệm đã diễn ra, nhưng sâu bên dưới thực nghiệm thật cũng diễn ra. Việc biến đổi vô ý thức thành ý thức - đó là biến đổi thực của kim loại cơ bản thành vàng. Vàng đại diện cho tâm thức, chứng ngộ.
Cho nên điều này đã xảy ra ở phương Tây. Các tu sĩ nhiều quyền lực thế và các tu sĩ cùng mưu đồ với quốc gia tới mức hoặc họ thiêu sống người như Jean d' Arc, một nhà huyền môn - họ giết nhiều nhà huyền môn - hoặc ép buộc các nhà huyền môn phải sống bí mật, hay ép buộc họ nói ngôn ngữ của nhà thờ.
Do đó ở phương Tây các thầy gần như biến mất, và bây giờ từ phương Đông, đặc biệt là từ Ấn Độ, có nhiều, nhiều cái gọi là thầy vẩn vơ khắp phương Tây - Mahesh Yogi, Muktananda, vân vân và vân vân. Tôi gọi họ là 'các thầy vân vân.' Đây là tất cả những người rởm. Bởi vì thầy đợi đệ tử tới mình; không cần thầy đi đâu cả. Nếu thầy có từ lực thực thầy sẽ hấp dẫn mọi người từ những góc xa xôi nhất của thế giới. Nếu bạn không có từ lực nào trong mình thế thì bạn sẽ phải đi và bán bất kì cái gì bạn có thể lừa gạt mọi người. Cho nên toàn thể phương Tây đầy những thầy rởm này.
Tốt hơn cả, Sarjana này, ở cùng với nhà tâm thần còn hơn là ở cùng với một Muktananda, bởi vì nhà tâm thần ít nhất cũng đi theo hướng đúng. Ông ấy còn chưa đạt tới nhưng ông ấy đang đi theo hướng đúng. Bạn có thể tìm ra vài người rất thông minh trong nghề đó. Nhưng trí huệ là khác toàn bộ: trí huệ nghĩa là chứng ngộ, người trí huệ nghĩa là người đã biết tới bản thân mình.
Nhưng tôi có thể hiểu được khó khăn của bạn: ở trong sa mạc của phương Tây, ốc đảo trở thành cực kì quan trọng, và đó là lí do tại sao bạn trở nên rất buồn nếu tôi đánh các nhà phân tâm. Nhưng không đánh họ không thể nào đánh thức họ dậy được. Tôi có thể hiểu khó khăn của bạn. Nhưng bởi vì bạn đang ở đây, là một phần của phật trường, bạn nên gạt bỏ các nhà phân tâm và các nhà tâm thần của bạn đi. Nói lời tạm biệt họ; cám ơn họ về tất cả những điều họ đã làm cho bạn, nhưng nói lời tạm biệt họ. Ở phương Tây bạn đã không được giúp đỡ và đó là khả năng duy nhất của việc có được bất kì sự giúp đỡ nào.
'Đó là ở sâu trong rừng đằng sau kia,' ông già Herbie, người hướng dẫn bắt đầu nói. 'Tôi đang đi chậm chạp chăm chú vào công việc của mình thì bỗng nhiên một con gấu khổng lồ lẻn tới đằng sau tôi. Nó kẹp chặt tay tôi vào cạnh sườn tôi và bắt đầu thở phì vào tôi. Súng của tôi rơi khỏi tay. Điều đầu tiên các ông biết đấy, con gấu đã cúi mình xuống, nhặt khẩu súng lên, dí súng vào lưng tôi.'
'Ông đã làm gì?' lính mới há hốc mồm kinh ngạc.
Ông già Herbie thở dài, 'Tôi còn có thể làm được gì nữa? Tôi đã cưới con gái nó!'
Ở phương tây bạn có thể làm được gì khác? Bất lực... Nhưng bởi vì bạn đang ở đây nên đừng cảm thấy buồn nếu tôi đánh nhà phân tâm.
Bạn nói, 'Nghề nghiệp của họ không bằng mức độ bản thể họ nhưng vẫn hấp dẫn tôi.'
Bạn không biết mình đang nói gì. Bạn đang nói tới mức độ bản thể nào vậy? Tôi đã thấy hàng trăm nhà phân tâm - công xã đầy họ, chúng tôi có nhiều nhà tâm thần hơn bệnh nhân. Mức độ bản thể nào? Không có nhiều mức độ bản thể ngay chỗ đầu tiên.
Chỉ có hai bình diện thôi: hoặc là bạn chứng ngộ, hoặc bạn không chứng ngộ. Bạn cho rằng có nhiều, nhiều bình diện cho nên người này mười phần trăm chứng ngộ, người kia hai mươi phần trăm chứng ngộ, người khác ba mươi phần trăm chứng ngộ sao? Không, hoặc nó là một trăm phần trăm hoặc nó là không - không phần trăm hay một trăm phần trăm.
Bạn phải đã bị hấp dẫn - đến mức đó tôi có thể hiểu được - nhưng hấp dẫn của bạn phần nhiều là vì bạn hơn là vì mức độ của người mà bạn trở nên bị hấp dẫn.
Phương Tây đang chịu đựng nhiều ốm yếu tinh thần; bị bệnh tinh thần còn tốt hơn bị bệnh thể chất, ít nhất nó cũng là cái gì đó cao hơn. Giầu và thất vọng còn tốt hơn là nghèo và đói. Tôi đã biết cả nghèo và giầu, và tôi phải nói thẳng với bạn, là giầu là tốt hơn, bởi vì người giầu chịu bệnh giầu; người nghèo chịu bệnh nghèo. Người nghèo quan tâm tới thân thể, người giầu quan tâm tới tâm trí.
Và nhà tâm thần, nhà phân tâm có thể cung cấp cho bạn nhiều điều an ủi, nhiều điều chỉnh. Và, chắc chắn, khi bạn bị rối loạn, bất kì ai có vẻ không rối loạn, người có vẻ rất trí huệ trong lời khuyên của họ, người cứ phân tích các giấc mơ của bạn, đều có vẻ dường như người đó có mức độ bản thể khác. Nó không phải vậy.
Tất cả những điều phân tâm đang làm là giúp cho mọi người trở nên được điều chỉnh. Tâm trí hiện đại phương Tây đã trở nên bị điều chỉnh rất sai - đó là dấu hiệu tốt, đó là dấu hiệu của khủng hoảng, khủng hoảng căn cước. Tất cả các giá trị cũ đã trở nên không hợp thức, các giá trị mới được cần tới. Quá khứ đã trở thành không liên quan; chúng ta đã thành công nhiều ở phương Tây tới mức chúng ta không thể sống được với những giá trị đã được tạo ra khi mọi người còn nghèo, nhớ điều đó.
Xã hội nghèo cần những giá trị khác, xã hội giầu cần những giá trị khác. Khi xã hội nghèo thành công trong việc trở nên giầu, nó trở nên bị điều chỉnh sai, bởi vì nó cứ dạy các giá trị cũ mà không còn có liên quan, và nó sống trong xã hội mới giầu có.
Cho nên tâm trí mọi người đều trong đống lộn xộn. Điều đã được nói cho họ bởi các tu sĩ, bởi trường học, bởi trường cao đẳng và đại học, thuộc vào quá khứ. Và xã hội đã di chuyển từ đó. Cứ dường như bạn được dạy về cơ chế của xe bò kéo và bạn có chiếc xe hơi; bạn sẽ bị điều chỉnh sai, bởi vì bạn biết cơ chế của xe bò kéo và bạn có chiếc Mercedes Benz. Bạn đâm ra lúng túng; tri thức của bạn là không liên quan, nhưng bạn níu bám lấy tri thức của mình bởi vì đó là tất cả những gì bạn biết. Đó là điều đang xảy ra.
Tong nhiều thế kỉ mọi người đã được bảo tham vọng, có đủ mọi loại giầu có, thành công trong thế giới này. Bây giờ điều đó tất cả đã xảy ra! Bây giờ bảo mọi người giầu có, thành công, là hoàn toàn vô tích sự. Họ sẽ cười vào bạn, họ sẽ nói, 'Anh đang nói điều vô nghĩa gì thế!'
Do đó mới có người hippies. Ở phương Đông họ không thể xảy ra được; các giá trị cũ vẫn còn liên quan - mọi người biết về xe bò kéo và mọi người có xe bò kéo. Họ khớp hoàn hảo. Nhưng công nghệ phương Tây, khoa học phương Tây, sự giầu có phương Tây, đã đi xa trước tâm trí và thái độ phương Tây. Cho nên mọi người đều lúng túng. Tri thức của từng người không khớp với tình huống người đó sống. Người đó không thể vứt bỏ tri thức được bởi vì với việc vứt bỏ tri thức người đó trở thành gần như người dốt nát. Và không có tri thức khác là có sẵn.
Chức năng của nhà phân tâm là giúp cho những người bị điều chỉnh sai trở nên được điều chỉnh lại. Đây không phải là công việc cách mạng gì mấy; nó là phản cách mạng, nó là phản động. Đó là lí do tại sao tôi đánh phân tâm học. Phân tâm học phải báo trước thời đại mới! Và ngược lại, điều đang được làm là giúp cho mọi người trở nên được điều chỉnh với xã hội cũ, mục nát, cái đang chết. Phân tâm học phải giúp cho mọi người hướng tới con người mới, người sẽ chẳng mấy chốc hiện ra trên đường chân trời. Đó là nỗ lực của tôi ở đây.
Công việc của tôi có tính đa chiều. Nó không chỉ có tính tôn giáo, nó không chỉ có tính giáo dục, nó không chỉ có tính tâm hồn, nó không chỉ có tính nghệ thuật - nó có mọi chiều; bởi vì con người mới sẽ là con người đa chiều. Và nhà phân tâm đang giúp đỡ xã hội cũ, mục nát để nó tồn tại tốt hơn nó tồn tại mà không có sự giúp đỡ của phân tâm học.
Các tu sĩ, giáo sĩ, và nhà truyền giáo thường xuyên đối diện với lo âu, sợ hãi và thất vọng. Đây là trường hợp với Cha Flannagan. Đòi hỏi của giáo dân của ông ấy đã áp đảo ông ấy. Ông ấy e rằng ông ấy có thể đối diện với sự suy nhược tinh thần hoàn toàn. Cho nên ông ấy đến tư vấn một nhà tâm thần. Bác sĩ động viên ông ấy bỏ bộ lễ phục tu sĩ, mặc quần áo thường phục, đeo cà vạt đỏ, áo sơ mi kẻ sọc, quần yếm, đi đến quán rượu và hoà lẫn với người thường, những người thường lui tới chỗ như vậy. Tại đó, làm người cải trang, ông ta có thể không khó khăn gì vượt qua thất vọng của mình. Ông ấy chấp nhận đơn thuốc này, thay đổi áo quần, và thực hiện chuyến đi tới quán rượu.
Khi ông ta ngồi vào bàn một cô ca sĩ nhanh nhẹn đi tới ông ta để nhận lệnh.
Cô ấy nói, 'Em chưa từng gặp anh trước đây thì phải? Mặt anh trông quen quen.'
Hơi chút bối rối ông ta trả lời, 'Không, thực vậy, cô chưa bao giờ gặp tôi trước đây. Đây là lần đầu tiên tôi tới quán rượu này.'
Thấy có động viên cư xử, ông ấy quay lại quán rượu này lần thứ hai. Cùng cô ca sĩ đó chạy xô về ông ta để nhận lệnh. Lần này cô ấy nói, 'Em chắc là em đã gặp anh ở chỗ nào đó.'
Bị bối rối hơn, nhưng vẫn bị thuyết phục rằng mình đã không bị nhận ra, ông ta kêu lên, 'Tất nhiên em chưa bao giờ gặp tôi trước đây. Đây là lần thứ hai tôi tới quán rượu này.'
Một thời gian sau ông ta tới thăm quán rượu đó lần thứ ba. Ngay lập tức cô ca sĩ nhỏ bé chạy tới ông ta với nụ cười lớn nói, 'Bây giờ em biết anh là ai rồi! Anh là Cha Flannagan ở nhà thờ phố Dublin!'
Choáng váng vì việc nhận ra này gần như làm ông ta bối rối, nhưng cô gái nhỏ bé vỗ vai ông ta với những lời đảm bảo thông cảm này: 'Đừng sợ, Cha Flannagan! Em là xơ Elizabeth ở nữ tu viện Thánh Theresa. Em có tới cùng nhà tâm thần đó!'
Những ý niệm cũ về cuộc sống, đạo đức cũ, các ý niệm cũ về tội lỗi và ăn năn, tất cả đều đã trở thành không liên quan. Giới tu sĩ cũ bị điều chỉnh sai tuyệt đối, và những người sống theo các ý niệm tôn giáo cũ đang cảm thấy không đúng chỗ. Và những người mới cũng cảm thấy không đúng chỗ, do đó có lỗ hổng giữa các thế hệ - nó chưa bao giờ lớn như ngày nay.
Bố mẹ không thể hiểu được con cái, con cái không thể hiểu được bố mẹ. Họ nói ngôn ngữ khác, không có trao đổi; bức Trường thành Trung Quốc đã tới giữa bố mẹ và con cái.
Tất cả những giá trị cũ được yêu mến, được yêu mến trong hàng thế kỉ, đều có vẻ ngu xuẩn. Những thứ chúng ta nghĩ là tâm linh thì không còn là tâm linh nữa. Thế giới cần tính tâm linh mới và một loại tính tôn giáo mới.
Tôi đánh các nhà tâm thần, các nhà phân tâm, nhiều hơn bất kì nghề nào khác bởi lẽ đơn giản là họ là những người có thể hiểu được điều tôi đang làm ở đây. Và nếu họ hiểu đúng họ sẽ phục vụ cho tương lai và không cho quá khứ. Họ sẽ giúp bạn trở nên hài hoà với bản thân mình hơn là trở nên được điều chỉnh với xã hội ốm yếu đang trên giường chết.
Đó là chỗ công việc của tôi khác: tôi không giúp bạn trở thành được điều chỉnh theo xã hội. Xã hội này nhất định chết đi, nó mang định mệnh chết đi, và điều đó xảy ra càng sớm càng tốt bởi vì nó đã trở nên xấu xí. Mang mãi cái xác mục nát này không cho phép mọi người sống đúng. Họ phải chăm nom tới cái xác bốc mùi, và có nhiều xác thế trong nhà bạn tới mức không còn chỗ cho bạn sống.
Chúng ta phải gạt bỏ quá khứ. Mãi cho tới giờ không người nào theo các trường phái tâm lí Freud hay Adler hay Jung đã từng có giúp đỡ gì; nó đã trở thành một phần của thể chế. Như các tu sĩ đã từng làm trong quá khứ, các nhà phân tâm bây giờ đang làm cùng điều: giúp mọi người thoả hiệp với xã hội, giúp mọi người thành bình thường. Tính bình thường không phải là lành mạnh! Lành mạnh có tính rất nổi dậy, và phân tâm còn chưa đủ dũng cảm để có tính nổi dậy. Do đó tôi đánh nó - bởi vì tôi biết tiềm năng; nó có thể trở nên có tính nổi dậy.
Một khi phân tâm trở nên có tính nổi dậy nó sẽ giúp con người mới tới sớm hơn, nó sẽ giúp cuộc cách mạng thực đầu tiên trên thế giới. Mãi cho tới nay tất cả các cuộc cách mạng đều rất nhỏ bé, rởm, hời hợt, bởi vì cuộc cách mạng thực chỉ có thể xảy ra trong tâm hồn của con người, không trong cấu trúc xã hội hay cấu trúc kinh tế. Cuộc cách mạng thực chẳng liên quan gì tới chính trị; nó có cái gì đó liên quan tới tính tâm linh của con người.
Chúng ta phải tạo ra tâm linh mới, cách nhìn mới.
Bạn nói, Sarjana, 'Trong cuộc sống riêng của mình tôi đã được ân huệ với việc gặp gỡ vài nhà tâm thần, nhà tâm hồn trí huệ và hiếm hoi - một trong số họ đã đưa tôi tới thầy.'
Nhưng người đó ở đâu? Bây giờ nghĩa vụ của bạn là đưa người đó tới tôi. Trả lại cho người đó cùng đồng tiền chứ! Người đó đang làm gì ở đó? Người đó nên ở đây! Người đó phải đã đọc, người đó phải đã nghe nói về tôi, nhưng đấy không phải là cách để biết tôi. Cách duy nhất để biết tôi là trở thành sannyasin, là một phần của trường năng lượng của tôi, rung động với tôi, đập rộn ràng cùng tôi, đồng bộ với tôi. Bây giờ đây là nghĩa vụ của bạn, bạn nợ điều này với người đó. Giúp người đó tới đây; người đó có thể ngại tự mình tới.
Mới hôm nọ tôi nhận được bức thư từ Hari Chetana ở Đức nói rằng trên radio một nhà tâm lí rất nổi tiếng đã được một người đàn bà hỏi, 'Đến giờ đã sáu năm rồi kể từ khi con trai tôi đi Pune và dường như không có khả năng nào nó sẽ quay về. Ông nói gì về điều đó?'
Và vị tiến sĩ nổi tiếng này nói, 'Tôi đã nghe nói nhiều về Pune, tôi cũng đã đọc nữa. Bà không phải lo - con bà đang ở đúng chỗ đấy.'
Nhưng nghe về tôi và đọc về tôi trong khi tôi đang sống ở đây sao... Và khoảnh cách giữa Berlin và Pune chẳng là gì cả. Trong vài giờ bạn có thể ở đây - ông ấy chưa bao giờ tới đây cả.
Những người này chỉ biết một cách trở nên quen với mọi thứ - và đó là đọc, nghiên cứu. Những người này là những người thông thái, nhưng không trí huệ.
Chúng ta bất lực. Chúng ta không thể làm gì được về Phật - chúng ta phải đọc ông ấy bởi vì ông ấy không còn hiện diện nữa. Nhưng bao nhiêu lần, đọc Phật và những lời kinh hay của ông ấy, ý niệm này vẫn không nảy sinh trong hàng triệu con tim, 'Sẽ thật là may mắn làm sao nếu chúng ta đã được sống vào thời của Phật.' Hay đọc những lời hay này của Jesus đã không làm xuất hiện nên ý niệm nào cho bạn rằng, 'Những người theo Jesus được ân huệ làm sao khi ông ấy còn sống, được bước đi cùng ông ấy, nói với ông ấy, ăn tối với ông ấy, uống rượu với ông ấy'? Đọc về Krishna bạn đã không nghe thấy tiếng gọi xa xăm của cây sáo của ông ấy sao? Bạn đã không cảm thấy chút ít buồn rầu rằng bây giờ không có khả năng nào đối diện với con người đẹp đẽ này sao?
Nhưng khi chư phật còn sống bạn không dùng cơ hội đó. Bạn có thể đã sống khi Jesus có đó - ông ấy có thể đi ngang qua làng bạn và bạn có thể đã không đi tới gặp ông ấy. Bạn có thể đã sống trong khi Phật bước đi trên đất và bạn có thể đã đương đầu với ông ấy. Bạn có thể đã sống khi Krishna còn đang thổi sáo và vài người dũng cảm nhảy múa quanh ông ấy; bạn có thể đã đi qua và bạn có thể đã nghĩ, 'Những người này lạ kì và con người này đã thôi miên họ bằng âm nhạc của ông ta' - và bạn đã nghĩ bản thân mình rất lành mạnh.
Nhưng bây giờ bạn khóc lóc và bạn than vãn và bạn cảm thấy buồn.
Sarjana, giúp các nhà tâm thần của bạn, các nhà phân tâm của bạn tới đây đi. Bảo họ vị phật đang sống đây, một christ đã quay lại trái đất rồi - bảo họ thế!
Và đây không chỉ là thông điệp cho Sarjana, đây là cho tất cả các bạn đấy. Jesus nói: Trèo lên mái nhà và kêu to để mọi người có thể nghe thấy. Tôi cũng nói với bạn: kêu to từ mái nhà; giúp thật nhiều người bạn có thể giúp tới đây đi, bởi vì ngay bây giờ nước đang sẵn có, nước đang tuôn chảy. Nó có thể làm dịu cơn khát của hàng triệu người, nhưng họ sẽ phải tới dòng song và họ sẽ phải cúi mình xuống dòng sông; chỉ thế thì họ mới nhận được món quà.
Đừng cảm thấy buồn, cảm thấy hạnh phúc là bạn đang ở đây. Và tôi sẽ đánh đi đánh lại, để cho bạn phải trở nên quen với cách thức của tôi. Tôi đánh mọi người chỉ khi tôi thấy tiềm năng lớn trong họ.
Câu hỏi thứ ba:
Thưa thầy kính yêu,
Tôi bị ám ảnh với thức ăn. Tôi ăn quá nhiều và đã tăng cân khủng khiếp. Thầy có thể giúp tôi giảm cân được không?
Sangito, điều này thực lạ đấy, từ California tới tôi chỉ để giảm cân của bạn. Ở California có tiện nghi sẵn có để giảm cân hơn nhiều. Tôi biết điều đó bởi vì tôi đã phái Mulla Nasruddin tới California. Vấn đề là như nhau.
Khi Mulla Nasruddin tới California, anh ta được các sannyasins của chúng tôi chỉ tới chương trình giảm cân tối thượng này. Phải mất bốn ngày và được đảm bảo giảm đi hai mươi nhăm cân nếu không thì tiền sẽ được hoàn trả lại cho bạn.
Anh ta đi vào một toà nhà và được bảo đi vào cánh cửa thứ nhất ở bên trái và cởi quần áo ra ở đó. Anh ta làm như vậy và thế rồi từ cánh cửa thứ hai trong phòng này một người đàn bà tóc vàng xinh đẹp bước vào, không gì che thân nhưng có biển hiệu quanh cổ cô ấy. Nó viết, 'Nếu anh bắt được em, anh có thể làm tình với em!'
Nasruddin cảm thấy ham muốn dục nổi lên bên trong mình. Căn phòng khá nhỏ, như cô này lại linh lợi, và phải mất hai mươi phút anh ta mới tóm được cô ta. Sau khi làm tình, Nasruddin đi tắm và bỏ về, sốt sắng chờ đợi ngày hôm sau.
Vào ngày thứ hai, anh ta được chỉ tới một căn phòng khác, lớn hơn chút ít so với phòng đầu. Có cô gái đầu tóc đỏ hoe xinh đẹp, không gì che thân ngoại trừ biển hiệu, đón chào anh ta. Cuộc săn đuổi kéo dài gần bốn mươi phút.
Vào ngày thứ ba, đó là một căn phòng khác, căn phòng rộng hơn, và một cô ngăm ngăm đen xinh đẹp! Sau gần một giờ, anh ta cũng bắt được cô ta.
Suốt ba ngày, Nasruddin đã giữ bản ghi chép về việc giảm cân - mười bốn cân cho tới ngày đó.
Vào ngày thứ tư, anh ta mường tượng có lẽ là một nhóm các cô đẹp lắm. Anh ta được chỉ tới tầng nóc. Anh ta trèo lên cầu thang, bỏ quần áo ra và chờ đợi. Có tiếng lách cách đằng sau anh ta khi cửa bị khoá lại, và liếc bên khoé mắt trái anh ta thấy cảnh một con gorilla khổng lồ đang đi tới với dấu hiệu quanh cổ nó, viết, 'nếu em bắt được anh em sẽ làm tình với anh!'
Sangito, bạn không cần từ California tới Pune đâu! Nhưng một điều là chắc chắn: mọi người trở nên bị ám ảnh bởi thức ăn chỉ khi người ta mất năng lực yêu. Đó là một chỉ dẫn rằng bạn đã quên mất ngôn ngữ của tình yêu. Nếu bạn đang yêu bạn không bao giờ bị ám ảnh bởi thức ăn. Ám ảnh với thức ăn là triệu chứng rằng bạn không biết cách yêu. Cách nó xảy ra phải được hiểu.
Quen biết đầu tiên của đứa trẻ với thế giới là vú mẹ. Đó là việc giới thiệu đầu tiên của nó với thế giới, việc đi vào thế giới của nó - quan hệ đầu tiên của nó với bầu vú của người mẹ. Và vú trở thành biểu tượng cho nó về hai điều: thức ăn và tình yêu.
Bất kì khi nào người mẹ yêu thương, bầu vú đều có sẵn; và bất kì khi nào người mẹ không yêu, bầu vú không có sẵn. Thức ăn và tình yêu trở nên được liên hệ; một phản xạ có điều kiện sâu sắc xảy ra. Nó trở nên được bắt rễ vô ý thức đến mức bạn lặp lại nó cả đời mình. Nếu đứa trẻ biết rằng người mẹ yêu nó thì nó sẽ không bú quá nhiều, bởi vì nó biết, nó được an toàn; bất kì khi nào nó cần người mẹ bầu vú đều sẽ có sẵn.
Nếu đứa trẻ bất an và cảm thấy rằng lần tới người mẹ có thể không sẵn có, nó sẽ bắt đầu bú quá nhiều, ăn quá nhiều.
Bây giờ, bạn có thể thấy ra vấn đề: bất kì khi nào tình yêu có đó, đều có an ninh và một loại thoả mãn, và đứa trẻ chưa bao giờ trở nên bị ám ảnh bởi thức ăn. Nếu tình yêu không có đó, có bất an, sợ hãi, và một loại trống rỗng, và đứa trẻ tọng vào cái trống rỗng đó bằng thức ăn.
Ở phương Tây, trọng lượng đang ngày một trở thành vấn đề bởi một lẽ đơn giản là người mẹ không sẵn sàng dành vú mình cho con họ. Tất nhiên vú bị mất hình dáng của nó; và nỗi sợ rằng vú sẽ mất hình dáng của nó làm cho đàn bà trông già đi đã bám vào tâm trí đàn bà ở phương Tây sâu sắc tới mức họ sợ cho con mình bầu vú. Và họ đang tạo ra ám ảnh về thức ăn trong đứa trẻ một cách không chủ ý, vô ý thức. Đứa trẻ sẽ trở nên bị ám ảnh bởi thức ăn, nó sẽ ăn quá nhiều. Việc ăn sẽ trở thành cái thay thế của nó cho tình yêu.
Sangito, bạn sẽ phải học yêu. Không có cách nào khác để làm giảm cân của bạn đâu. Tất cả các chương trình khác có thể giúp bạn một chút ít, nhưng sớm hay muộn bạn sẽ lấy lại trọng lượng bởi vì nguyên nhân gốc rễ căn bản vẫn còn là như cũ. Bạn có thể ăn kiêng, bạn có thể chạy, bơi, luyện tập, nhưng bạn có thể ăn kiêng được bao lâu? Sớm hay muộn bạn sẽ chán với ăn kiêng và tâm trí bạn sẽ trở nên ngày một bị ám ảnh với việc ăn. Bây giờ bạn sẽ ăn trong tưởng tượng của mình, trong giấc mơ của mình, và tâm trí bạn sẽ thuyết phục bạn rằng đây không phải là cách sống đúng. Bạn không thể ăn cái này, bạn không thể ăn cái nọ, và bằng cách nào đó nếu bạn hỏi các bác sĩ, tất cả những cái tốt đều phải tránh.
Một đứa trẻ nói với mẹ nó, 'Mẹ nói Thượng đế rất khôn ngoan. Con không tin vào điều đó.'
Người mẹ nói, 'Nhưng tại sao con không tin điều đó?'
Nó nói, 'Nếu ông ấy khôn ngoan, ông ấy đã cho nhiều vitamin vào kem rồi. Ông ấy cho nhiều vitamin trong những thứ không thể ăn nổi, còn những thứ thực sự đáng ăn thì lại nguy hiểm.'
Bạn sẽ tránh kem được bao lâu? Sự cám dỗ sẽ tới mức nó sẽ là điều không tránh nổi. Cho nên bạn có thể giảm cân trong vài ngày và thế rồi bạn sẽ ăn quá nhiều, bạn sẽ báo thù. Và bạn có thể thu được trọng lượng còn nhiều hơn số bạn đã làm mất đi bởi việc ăn kiêng. Đây là hình mẫu của hàng triệu người, đặc biệt ở phương Tây.
Ở phương Đông mọi người đang đói. Bạn có thể thấy vài người béo ở Bombay, ở Delhi, ở Calcutta, nhưng có vậy thôi. Nếu bạn đi tới Ấn Độ thực, tám mươi phần trăm người ở Ấn Độ đang đói. Không có vấn đề tăng thêm cân, họ không đủ cân. Họ đang phải chịu kém dinh dưỡng. Vâng, thỉnh thoảng bạn sẽ thấy các dân làng có bụng to và thân thể gầy còm, bởi vì họ ăn thức ăn không đủ dinh dưỡng, không cân bằng, và họ ăn chỉ khi nó có sẵn. Cho nên khi nó có sẵn thì họ ăn quá nhiều.
Có hàng triệu người ở Ấn Độ ăn chỉ một lần một ngày bởi vì họ không thể đảm đương được việc ăn hai lần. Cho nên để giữ cho thân thể họ kết lại trong hai mươi tư giờ họ ăn bất kì cái gì, bất kì cái gì có sẵn đấy; thỉnh thoảng họ phải ăn cả rễ cây.
Cho nên vấn đề không phải là ở phương Đông, vấn đề là ở phương Tây nơi có đủ thức ăn và mọi người đã hoàn toàn quên mất rằng thức ăn phát triển từ cây cối. Trẻ con biết rằng thức ăn phát triển trong tủ lạnh. Bạn tới tủ lạnh vào bất kì lúc nào và thức ăn sẵn có đấy.
Tôi đã nghe nói về một người đàn bà phải đã khổ như Sangito. Cô ta đi tới nhà tâm thần và hỏi lời khuyên của ông ta - phải làm gì? Ông ấy đắn đo về vấn đề này và cho cô ấy bức hình, bức hình người đàn bàn khoả thân, người đàn bà béo hú xấu xí, kinh tởm, buồn nôn, ghê tởm - chỉ nhìn thấy nó cũng đủ để sợ thức ăn rồi. Và ông ta bảo người đàn bà này, 'Dán nó vào bên trong tủ lạnh của cô để cho bất kì khi nào cô mở nó ra cô sẽ thấy bức hình này - đây sẽ là việc nhắc nhở cô về điều đang xảy ra cho cô.'
Thế là cô ấy dán bức hình của người đàn bà khoả thân vào. Nhà tâm thần cũng đã cho cô ấy bức tranh khác về một người đàn bà trẻ đẹp với thân thể cân đối, cái đẹp trần gian, và bảo cô ấy, 'dán cả tấm hình này nữa vào, để cô có thể so sánh. Nếu cô không ăn quá nhiều cô sẽ giống người đàn bà này, nếu cô ăn quá nhiều cô sẽ giống người đàn bà kia.'
Ngay lập tức, từ ngày hôm sau, người đàn bà này bắt đầu giảm cân. Nhưng phép màu đã xảy ra: chồng cô ấy bắt đầu tăng cân. Người đàn bà này đâm ra phân vân. Cô ấy nói, 'Có chuyện gì vậy?'
Anh ta nói, 'Từ lúc em dán tấm hình người đàn bà đẹp khoả thân vào bên trong tủ lạnh, anh cứ tới mãi để xem bức hình đó. Và khi anh thấy bức hình anh cũng thấy cả thức ăn nữa, và hương vị và mùi vị ngon làm sao... và anh nói, 'Sao mình không ăn cái bánh hay ít kem hay cái gì đó?' Anh ăn quá nhiều bởi vì bức hình của em.'
Ở phương Tây trẻ con lớn lên với ý niệm rằng thức ăn được tủ lạnh tạo ra bằng cách huyền bí nào đó và nó bao giờ cũng có sẵn, hai mươi bốn giờ một ngày; bất kì lúc nào nó cũng có thể tới và ăn. Và các bà mẹ đã thôi không cho bú vú và các bà mẹ không sẵn có nhiều nữa. Chồng đi làm và mẹ đi tới nhiều uỷ ban thế - họ thuộc vào phong trào giải phóng phụ nữ, các uỷ ban nâng cao ý thức - và họ có nhiều buổi trình diễn từ thiện và họ phải bán vé và thu quĩ từ thiện... họ không sẵn có. Người bố đi vắng, người mẹ đi vắng; đứa con bị bỏ lại với cái tủ lạnh và không có tình yêu.
Sangito, hiểu căn nguyên gốc rễ của nó: tình yêu bị thiếu ở đâu đó trong cuộc sống của bạn. Tôi sẽ không coi nỗi ám ảnh của bạn với thức ăn là vấn đề thực, nó là triệu chứng thôi. Yêu là vấn đề thực - yêu nhiều hơn đi. Và nếu bạn yêu nhiều hơn, bạn sẽ được yêu nhiều hơn. Và điều đó vẫn chưa quá muộn đâu; bạn có thể tìm thấy một người đàn bà. Và mọi đàn bà đều là mẹ, và tất cả đàn ông bao giờ cũng giống như trẻ con. Cho nên bất kì đàn bà nào cũng được, bởi vì cô ấy sẽ hành động như người mẹ. Và từng đàn ông đều cần người mẹ cho cả đời mình, anh ta cần có việc làm mẹ, và từng đàn bà đều cần con cái. Ngay cả chồng cũng chỉ là đứa con lớn nhất, có thế thôi. Và nếu bạn không thể tìm thấy một người, bạn có thể tới tôi - tôi bao giờ cũng có nhiều đơn xin ở cùng tôi; đàn bà tìm đàn ông, đàn ông tìm đàn bà. Và tôi bố trí bất kì ai với bất kì ai! Tôi không tin vào chiêm tinh, tôi tin vào ngẫu nhiên.
Mulla Nasruddin một sáng thức dậy và nhìn đồng hồ. Lúc đó là năm giờ kém năm. Không thể nào ngủ lại được, anh ta đi ra cửa trước để lấy báo. Ở trang trước anh ta thấy đề ngày: mồng 5 tháng năm.
'Ồ, ngày thứ năm, tháng thứ năm, năm giờ kém năm,' anh ta nghĩ. 'Hôm nay sẽ là ngày may mắn của mình đây!'
Anh ta quyết định đi xem cuộc đua ngựa, thế là anh ta mặc quần áo và đi tới góc đợi xe bus. Chẳng mấy chốc nó tới - nó mang số năm, và Nasruddin để ý khi anh ta lên xe rằng đã có ba hành khách khác, người lái xe và mình - năm người tất cả.
Anh ta tới đường đua và chờ đợi cuộc đua thứ năm. Anh ta cá năm trăm ru pi để thắng - ngựa của anh ta về đích thứ năm!
Nhận xét
Đăng nhận xét