Chương 12. Vấn đề sống và chết
Chương 12. Vấn đề sống và chết
Em gái tôi bị tai nạn, và từ đó nó không cử động được, nó không nhìn được, nó không nghe được, nó không nói được. Để nó chết đi có tốt hơn không?
Đó là một trong những câu hỏi nền tảng nhất, đã được đưa ra trên khắp trái đất ở các dạng khác nhau. Bởi vì trong hàng thế kỉ chúng ta đã chấp nhận ý tưởng rằng cái chết nên được né tránh, rằng nó là cái gì đó độc ác - rằng cuộc sống được Thượng đế trao cho, còn cái chết tới qua quỉ.
Ngay cả trong nghề y, mọi người tốt nghiệp ngành y trên thế giới đều phải lấy lời thề Hippocrates nói rằng người đó sẽ không giúp cho bất kì ai theo bất kì cách nào chết đi; người đó sẽ giúp theo mọi cách có thể để bảo vệ cuộc sống.
Điều đó là đúng vào những ngày của Hippocrates, bởi vì cứ mười đứa trẻ được sinh ra chỉ một đứa sống sót trở thành người lớn. Chín đứa sẽ chết, đó là tình huống. Dân số toàn thế giới vào thời của Phật Gautam nhỏ tới mức bạn không thể hình dung nổi. Nó chỉ hai trăm triệu người. Bây giờ một mình Ấn Độ có gần một tỉ người. Toàn thế giới có hơn năm tỉ người. Từ hai trăm triệu người, trong hai mươi nhăm thế kỉ, chúng ta đã đạt tới hơn năm tỉ người, trên cùng Trái đất này. Và y học đã phát triển vượt bực.
Điều thường được nói là bẩy mươi năm là thời gian dài nhất người ta có thể hi vọng sống. Trong gần năm nghìn năm, các nhà khoa học đã nghiên cứu về xương, các bộ xương, để tìm ra đích xác con người thường sống được bao lâu. Và họ đã đi tới kết luận rằng mọi người không sống quá bốn mươi tuổi - cho nên cũng phải khi mọi người nói rằng trong quá khứ, thời đó đẹp tới mức không người cha nào đã thấy cái chết của con trai mình. Điều đó là tự nhiên. Nếu mọi người cha sẽ chết vào tuổi bốn mươi, làm sao người đó sẽ thấy cái chết của con riêng của mình được?
Nhưng trong điều này, chín đứa trẻ nhỏ kia đã không được tính tới, bởi vì chúng không sống quá hai năm. Cho nên trong thực tế, mọi người cha đều thấy hàng tá con trai và con gái chết. Một khi đứa trẻ đã sống hơn hai năm, thế thì có khả năng cho nó sống ít nhất bốn mươi năm. Một cách tự nhiên, đồng thời cha nó sẽ chết.
Bây giờ có nhiều người đã qua một trăm tuổi và ở một số nơi trên thế giới bạn có thể tìm thấy người trên trăm tuổi vẫn có thể làm việc trên cánh đồng như bất kì thanh niên nào. Một số nhà khoa học nói rằng có khả năng, nếu được nuôi dưỡng đúng, luyện tập đúng và bầu không khí đúng, thì thân thể con người có khả năng sống ít nhất ba trăm năm. Đó là viễn cảnh rất nguy hiểm, bởi vì ngay cả trong thời gian chín mươi hay một trăm năm, bạn cũng phát chán thế với cuộc sống - bạn sẽ làm gì trong ba trăm năm? Các thành viên của gia đình riêng của bạn sẽ không nhận ra bạn. Trong ba trăm năm, bao nhiêu thế hệ của con cháu riêng của bạn - họ sẽ không có quan hệ nào với bạn cả. Lỗ hổng sẽ quá lớn.
Và bạn sẽ định làm gì? Bạn đã sống, bạn đã yêu. Bạn đã thấy tất cả mọi điều cuộc sống chứa đựng - thất bại, thành công; đau đớn và vui thú, ngày và đêm. Bạn đã thấy tất cả các mùa; bây giờ chẳng có gì hơn. nó bây giờ chỉ là lặp lại, cùng bánh xe đó đang chuyển động.
Chúng ta phải nghĩ lại về toàn thể vấn đề chết. Ý kiến riêng của tôi là ở chỗ nếu một người đi tới giai đoạn mà người đó thấy rằng việc mình sống là tuyệt đối vô dụng, người đó đã sống đủ rồi, thế thì điều đó không nên là bất hợp pháp. Điều đó nên là tuyệt đối được chấp nhận; thực tế mọi bệnh viện nên có một khoa đặc biệt dành cho những người đi tới chết ở đó - để cho họ có thể chết trong an bình, trong im lặng, với tất cả chăm sóc y tế thích hợp. Chăm sóc y tế này không phải là để giữ cho họ sống, chăm sóc y tế này là để giúp cho họ chết đẹp đẽ, an bình nhất có thể được.
Gợi ý riêng của tôi là ở chỗ mọi khoa chết trong bệnh viện nên có một thiền nhân, người có thể giúp cho mọi người học thiền trước khi họ chết, để cho họ có thể chết mang tính thiền. Cái chết của họ có thể trở thành một kinh nghiệm có giá trị vô cùng, có lẽ còn có giá trị hơn cả toàn thể cuộc sống của họ đã từng là. Và họ đã không phạm phải tội lỗi nào.
Bạn có thể có thời gian để nghĩ về nó. Có lẽ con người này xúc động nổi giận vào khoảnh khắc đó. Có lẽ cái gì đó xảy ra mà đã cho họ ý tưởng, 'Tốt hơn cả là kết thúc cuộc đời mình.' Họ nên được cho thời gian, nên được bảo, 'Bạn vào bệnh viện này, nghỉ ngơi trong một tháng, chuẩn bị cho cái chết của bạn. Chúng tôi sẽ giúp đỡ. Nhưng nếu trong một tháng này bạn thay đổi ý kiến, điều đó là tuỳ bạn. Bạn có thể đứng dậy và đi ra! Không ai ép buộc bạn.'
Và nhớ, không xúc động nào còn lại quá vài phút. Bất kì ai tự tử, nếu người đó đợi thêm một phút nữa thôi, có thể đã không làm điều đó. Đó là vấn đề nhất thời. Nhưng nếu ai đó trong cả một tháng liên tục tận hưởng, hạnh phúc, sẵn sàng nhìn tới cái chết như cuộc phiêu lưu, thế thì nghĩa vụ của chúng ta là cho phép những người này được vứt bỏ thân thể một cách duyên dáng nhất có thể được.
Khi đáp lại câu hỏi này, tôi phải cho bạn ngần ấy giới thiệu để cho bạn có thể hiểu rằng cái chết không phải là cái gì đó ác độc, rằng nó là cái gì đó tự nhiên. Nhưng câu hỏi này không phải về người già. Câu hỏi này là về người em trẻ hơn, người không thể đi được, người không thể nhìn được, người không thể nghe được, người không thể nói được. Tất cả các giác quan của cô ấy đều thiếu vắng. Bây giờ, bạn gọi điều đó là sống sao? Đây đơn giản là sống thực vật. Và cô ấy phải trong khổ cực không thể tả được. Điều đó chúng ta không thể thấy được, bởi vì cô ấy không thể nói được gì cả. Cô ấy không có cánh cửa nào để trao đổi. Cô ấy tuyệt đối một mình, bị cắt khỏi mọi cuộc sống. Phỏng có ích gì cho việc sống thực vật của cô ấy trong bẩy mươi, tám mươi hay chín mươi năm - hay có thể còn hơn nữa? Cô ấy sẽ là gánh nặng lên gia đình. Cô ấy sẽ là nguồn buồn khổ cho gia đình và bản thân cô ấy sẽ tuyệt đối trong địa ngục, bởi vì cô ấy hoàn toàn bị cầm tù.
Nghĩ về bản thân bạn đi. Không thể nào có trại tập trung nào lớn hơn: mắt bạn bị lấy đi, tai bạn bịt bít lại, bạn không thể nói được. Bạn sẽ trong cơn mê. Có nhiều người trong tình huống như vậy. Bản thân tôi đã thấy một người đàn bà, người trong cơn mê trong chín tháng. Và các bác sĩ đều nói rằng cô ấy không bao giờ có thể trở lại ý thức được bởi vì cô ấy đã vô ý thức quá lâu tới mức hệ thống thần kinh tinh tế vẫn giữ cho người ta có ý thức đã gần như chết. Họ chỉ cho tôi xem việc chụp quét não cô ấy, và họ nói rằng tất cả các điểm làm cho người ta tự ý thức đều đã chết. Cô ấy sẽ vẫn còn vô ý thức. Và có lẽ trong năm mươi năm, bởi vì cô ấy chưa tới ba mươi khi tôi thấy cô ấy. Bây giờ cô ấy là điều nặng nề thường xuyên cho cả gia đình, cho chồng, cho con. Họ không thể làm gì được cả, họ đơn giản bất lực. Các bác sĩ không thể làm gì được, họ bất lực. Nhưng luật pháp ngăn cản giúp cho bất kì ai chết, bằng không các bác sĩ sẽ là tội phạm. Họ sẽ bị coi là kẻ giết người.
Luật pháp mang tính nguyên thuỷ. Luật pháp không hiểu từ bi. Người đàn bà đó cần cái chết nhân từ. Cô ấy thậm chí không thể yêu cầu được cái chết cho mình.
Em gái của người hỏi này không thể đòi hỏi ngay cả cái chết. Nhưng những người yêu cô ấy nên đòi hỏi chính phủ của bất kì nước nào họ thuộc vào. Bạn nên đưa trường hợp của cô ấy ra toà và nhấn mạnh rằng giữ cô ấy sống là không từ bi. Đó không phải là tình yêu; đó là ý tưởng tuyệt đối nguyên thuỷ, không có sự hỗ trợ đương đại nào.
Để họ biết rằng toàn thể gia đình đều sẵn sàng, rằng cô ấy nên được kết thúc khỏi nhà tù này để cho cô ấy có thể lấy việc sinh thành mới, thân thể mới - có mắt, có tai, cô ấy có thể nói và cô ấy có thể bước. Cái chết của cô ấy sẽ không phải là thảm hoạ. Cái chết của cô ấy sẽ là ân huệ cho cô ấy.
Tôi đơn giản bảo bạn cách tiếp cận của tôi. Tôi không bảo bạn hành động tương ứng, bởi vì điều đó có thể là bất hợp pháp ở nước bạn. Bạn phải tiếp cận qua luật pháp tới chính phủ, và làm cho điều đó thành vấn đề thảo luận quốc gia, bởi vì điều đó có thể không phải chỉ là cho em bạn. Có thể có nhiều đứa trẻ khác và thanh niên khác cũng đang chịu đựng cùng cách đó - chẳng bởi lí do nào ngoại trừ rằng luật pháp không cho phép bất kì người làm nghề y nào giúp cho ai đó vứt bỏ thân thể mình.
Đây là lúc chúng ta nên hiểu, và nghề y nên hiểu - lời thề Hippoctates không nên là lời thề cho sinh viên y nữa. Họ nên được cho lời thề giúp cho người sống nếu người đó có thể sống dư dật, đẹp hơn - nhưng nếu người này không thể sống được và bạn đơn giản cứ giúp người đó chỉ thở... Thở không phải là sống. Thế thì tốt hơn cả là giúp cho người đó chết. Trong cả hai trường hợp, bạn đều từ bi. Hoặc bạn phục vụ cuộc sống hoặc bạn phục vụ cái chết - không thành vấn đề. Từ bi của bạn nên thấy rằng người này được vào không gian tốt hơn, vào cuộc sống tốt hơn.
Và mọi nước đều phải đi tới thông qua một luật, cũng như luật của nhiều nước bây giờ chấp nhận kiểm soát sinh đẻ. Đó là một đầu của cuộc sống; bạn đang ngăn cản trẻ con không được sinh ra. Nếu bạn đã chấp nhận điều đó, thế thì ở đầu kia bạn cũng nên cho phép người già, người muốn rời bỏ thế giới này, để họ rời bỏ một cách trịnh trọng. Họ có thể mời tất cả bạn bè mình, toàn thể gia đình mình. Họ có thể sống cùng cả gia đình trong một tháng, bởi vì bây giờ họ sẽ ở đây chỉ một tháng nữa.
Việc sinh không trong tay bạn, nhưng ít nhất bạn có thể tự do chọn cái chết của mình. Vài chính phủ nữa trên thế giới cũng đang sắp chấp nhận rằng ở đầu kia của cuộc sống chúng ta nên cho phép mọi người được đi nhanh hơn. Thế giới này quá đông đúc rồi. Một mặt chúng ta ngăn cản mọi người tới, và mặt khác chúng ta nên để cho họ đi tiếp, để cho thế giới trở nên ít đông hơn và ít nghèo nàn hơn.
Và vấn đề không chỉ là thế giới đang trở nên ít nghèo nàn và ít đông đúc, nó cũng là vấn đề của những người đó. Trong hầu hết tất cả các nước phương tây, đặc biệt ở Mĩ, hàng trăm nghìn người đang đơn giản sống trong bệnh viện. Họ đều chín mươi hay một trăm tuổi. Họ không thể sống trong nhà mình được, bởi vì họ thậm chí không thể thở được theo cách riêng của mình. Và dầu vậy chúng ta vẫn giữ họ sống - để làm gì? Thở nhân tạo đang được làm cho họ. Tôi không nghĩ đó sẽ là vui thú cho những người đó. Họ sẽ chẳng bao giờ quay về nhà. Họ sẽ chết trong bệnh viện. Và tôi không thấy có logic nào trong việc giữ cho họ thở nhân tạo. Khi thân thể họ không sẵn sàng thở, xin cho phép họ không thở! Đó là chuyện cá nhân của họ.
Bạn đang can thiệp quá nhiều. Bạn không để họ chết. Họ đã chết và bạn đang buộc họ tiếp tục sống cho dù bạn không nhận biết về bất kì mục đích nào cho nó. Và khi bạn đang giữ cho hàng nghìn người sống, những người đáng ra đang nghỉ ngơi trong nấm mồ của họ - chiếm chỗ không cần thiết trong các bệnh viện, chiếm thời gian của các bác sĩ, của nhiều máy móc thế và nhiều sự chăm sóc thế - mục đích là gì? Sau hai hay ba năm họ thậm chí dừng thở nhân tạo. Họ sẽ từ chối và bác bỏ điều đó. Chẳng cái gì khác sẽ xảy ra. Nhưng với những người đó ba năm bạn sẽ giữ họ sống một cách không cần thiết trong sự hành hạ. Và điều này được coi là phục vụ, điều này được coi là từ bi. Điều này được coi là mang tính Ki tô giáo. Điều này đơn giản là độc ác!
Để những người đáng thương đó được chết. Và có hàng nghìn người trên khắp thế giới sẵn sàng rời khỏi thân thể bởi vì thân thể chỉ là đau đớn cho họ. Với nhiều bệnh tật thế, với nhiều ốm yếu thế, họ không còn có khả năng làm gì cả. Họ không còn có khả năng tận hưởng cái gì.
Nhưng đó là thế giới rất kì lạ. Nó cứ đi theo các luật cũ của nó, cái đã mất mọi thực tại, cái đã trở thành chỉ là cái bóng của quá khứ và bây giờ chúng đang hành hạ nhân loại một cách không cần thiết.
Gợi ý của tôi là ở chỗ em của bạn nên được giải thoát khỏi thân thể này, bởi vì thân thể này không là gì ngoài nhà tù cho cô ấy. Nếu bạn yêu cô ấy, bạn phải nói lời tạm biệt cô ấy. Với nước mắt, với nỗi buồn, nhưng dầu vậy bạn phải nói lời tạm biệt cô ấy và bạn phải thiền và cầu nguyện rằng cô ấy sẽ đi vào một thân thể tốt hơn. Nhưng yêu cầu chính phủ, tạo ra phong trào quanh nó, để cho không chỉ em bạn được giúp. Có thể có nhiều người khác trong tình cảnh của cô ấy. Và làm thật nhiều náo động nhất có thể được về điều đó, chỉ thế thì bạn mới được phép, để cho em của bạn có thể có cái chết an bình. Và đừng lo nghĩ - bởi vì bản thể bên trong nhất của bạn không bao giờ chết.
Điều mạnh mẽ nhất trong quyền tập ấn Ki tô giáo của tôi là không ích kỉ, không nghĩ tới bản thân mình. Bây giờ, bằng việc nhớ tới bản thân mình và đi theo thôi thúc quay vào trong, tôi dường như phải đẩy qua một tầng không thoải mái, mặc cảm và lẫn lộn. Xin thầy nói về điều đó?
Tất cả các tôn giáo đều là làm hại nhiều lắm cho sự trưởng thành của con người, nhưng Ki tô giáo là trên chóp khi có liên quan tới việc làm hại nhân loại. Họ đã dùng những lời mĩ miều để che giấu hành động xấu xa chống lại bạn. Chẳng hạn, không ích kỉ - bảo một người không biết tới bản thân mình là không ích kỉ chính là ngu xuẩn kì quặc tới mức người ta không thể tin được Ki tô giáo đã từng làm điều đó trong hai nghìn năm.
Socrates nói, 'Biết bản thân ông; mọi thứ khác đều là phụ.' Biết tới bản thân mình, bạn có thể không ích kỉ. Thực tế bạn sẽ không ích kỉ; nó sẽ không phải là nỗ lực về phần bạn. Biết tới bản thân mình, bạn sẽ biết không chỉ bản thân mình mà còn biết cái ta của mọi người. Nó là một; nó là một tâm thức, một lục địa. Mọi người không phải là những hòn đảo. Nhưng không dạy mọi người cách biết tới bản thể riêng của mình, Ki tô giáo đã chơi trò chơi nguy hiểm, và trò chơi đó đã hấp dẫn mọi người bởi vì họ đã dùng một từ mĩ miều, 'không ích kỉ.' Nó có vẻ tôn giáo, nó có vẻ tâm linh. Khi tôi nói, 'Trước hết hãy ích kỉ,' điều đó không có vẻ tâm linh.
Ích kỉ sao?
Tâm trí bạn bị ước định rằng không ích kỉ là tâm linh. Tôi biết nó là vậy, nhưng chừng nào bạn còn chưa đủ ích kỉ để biết tới bản thân mình, không ích kỉ là không thể được. Không ích kỉ sẽ tới như hệ quả của việc biết tới bản thân mình, của việc là bản thân mình. Thế thì không ích kỉ sẽ không là hành động của đức hạnh, không được làm để thu được phần thưởng trên cõi trời. Thế thì không ích kỉ sẽ đơn giản là bản tính của bạn, và từng hành động của không ích kỉ sẽ là phần thưởng lên bản thân nó.
Nhưng Ki tô giáo đã đặt con ngựa đằng sau chiếc xe - chẳng cái gì chuyển động, mọi thứ mắc kẹt. Ngựa bị mắc kẹt bởi vì chiếc xe ở trước nó, và chiếc xe không thể chuyển động được bởi vì không xe nào có thể chuyển động chừng nào ngựa còn chưa ở trước nó, kéo nó.
Chuyện xảy ra với hầu hết người Ki tô giáo là khi người đó bắt đầu thiền, nó đem tới cảm giác phạm tội - khi toàn thể thế giới đang rối loạn thế, khi mọi người đang nghèo thế, khi mọi người đang chết đói, khi mọi người đang bị AIDS, bạn thiền sao? Bạn phải hoàn toàn ích kỉ! Trước hết giúp người nghèo, trước hết giúp những người đang bị AIDS, trước hết giúp mọi người khác.
Nhưng cuộc sống của bạn rất ngắn ngủi. Trong bẩy mươi hay tám mươi năm, bạn có thể xoay xở được bao nhiêu hành động không ích kỉ? Và khi nào bạn sẽ tìm ra thời gian cho thiền - bởi vì bất kì khi nào bạn bắt đầu đi tới thiền, những người nghèo kia lại có đó, bệnh tật mới lại bùng phát, trẻ em mồ côi có đó, người ăn xin có đó.
Một bà mẹ bảo đứa con trai nhỏ của mình, 'Không ích kỉ là nền tảng của tôn giáo chúng ta. Đừng bao giờ ích kỉ, hãy giúp người khác.'
Cậu bé này - và mọi cậu bé đều nhạy cảm và rõ ràng hơn cái gọi là cậu già của bạn - cậu bé này nói, 'Điều này dường như là điều rất kì lạ, rằng con phải giúp người khác và họ phải giúp con. Sao không làm điều đó đơn giản đi? Con giúp con, họ giúp họ.' Nền tảng này của tôn giáo dường như rất phức tạp - và phức tạp không cần thiết.
Thực tế, Ki tô giáo đã kết án các tôn giáo phương Đông vì lẽ đơn giản là chúng có vẻ ích kỉ. Mahavira, nhà huyền môn Jaina, thiền trong mười hai năm... ông ấy đáng phải dạy trong trường học, hay làm việc trong bệnh viện chứ. Ông ấy đáng phải chăm sóc trẻ mồ côi, là Mẹ Teresa và được giải thưởng Nobel.
Điều rõ ràng là không thiền nhân nào đã từng nhận giải thưởng Nobel. Để làm gì? - bạn đã không làm cái gì không ích kỉ cả. Bạn là người ích kỉ nhất trên thế giới, chỉ thiền và tận hưởng im lặng và an bình và phúc lạc của bạn, tìm thấy chân lí, tìm thấy tính thượng đế, trở nên hoàn toàn tự do với mọi nhà tù. Đây toàn là ích kỉ. Cho nên tâm trí Ki tô giáo thấy hơi khó chấp nhận ý tưởng về thiền. Trong Ki tô giáo không có thiền, chỉ có lời cầu nguyện.
Họ không thể gọi Phật Gautam là người tôn giáo thực sự được, bởi vì ông ấy đã làm gì cho người nghèo? Ông ấy đã làm gì cho người ốm? Ông ấy đã làm gì cho người già? Ông ấy đã trở nên chứng ngộ - đó là điều tối thượng trong tính ích kỉ! Nhưng phương Đông có cái nhìn hoàn toàn khác - và còn logic hơn, hợp lí hơn, hiểu được hơn nhiều lắm. Phương Đông bao giờ cũng nghĩ chừng nào bạn còn chưa có an bình, im lặng trong tim bạn, bài ca trong bản thể bạn, ánh sáng toả ra chứng ngộ của bạn, bạn không thể phục vụ gì được cho bất kì ai. Bản thân bạn ốm yếu; bản thân bạn là con côi bởi vì bạn chưa tìm thấy an ninh tối thượng của sự tồn tại, an toàn vĩnh hằng của cuộc sống. Bản thân bạn nghèo tới mức bên trong không có gì ngoài bóng tối. Làm sao bạn có thể giúp được cho người khác? Bản thân bạn đang chìm, sẽ là nguy hiểm để giúp người khác; nhiều nhất bạn sẽ làm người khác chìm theo. Trước hết bạn phải học bơi đã. Chỉ thế thì bạn mới có thể có ích để giúp đỡ người đang chìm.
Cách tiếp cận của tôi là tuyệt đối rõ ràng. Trước hết hãy ích kỉ, và khám phá ra tất cả những điều được chứa trong bản thân bạn - tất cả mọi niềm vui và mọi phúc lạc và mọi cực lạc. Và thế thì không ích kỉ sẽ tới như cái bóng của bạn đi theo bạn - bởi vì có trái tim nhảy múa, có tính thượng đế trong bản thể bạn, bạn phải chia sẻ nó. Bạn không thể cứ giữ nó như kẻ keo kiệt, bởi vì tính keo kiệt trong sự trưởng thành bên trong của bạn là cái chết.
Kinh tế của trưởng thành bên trong là khác với kinh tế bên ngoài. Kinh tế thông thường là ở chỗ nếu bạn cứ cho đi, bạn sẽ có ngày một ít dần và ít dần. Nhưng kinh tế tâm linh là ở chỗ nếu bạn không cho, bạn sẽ có ngày một ít dần và ít dần; nếu bạn cho, bạn sẽ có ngày một nhiều hơn và nhiều hơn. Luật của thế giới bên ngoài và thế giới bên trong là đối lập hẳn nhau.
Trước hết trở nên giầu có bên trong, trước hết trở thành hoàng đế. Thế thì bạn có nhiều thế để chia sẻ, bạn thậm chí sẽ không gọi nó là không ích kỉ. Và bạn sẽ không có ham muốn rằng phần thưởng nào đó phải trao cho bạn, ở đây hay ở sau đây. Bạn thậm chí sẽ không yêu cầu sự biết ơn từ người bạn đã cho cái gì đó; ngược lại, bạn sẽ biết ơn rằng người đó đã không bác bỏ tình yêu của bạn, phúc lạc của bạn, cực lạc của bạn. Người đó đã tiếp nhận, đã cho phép bạn trút từ trái tim mình bài ca của mình và âm nhạc của mình vào bản thể người đó.
Ý tưởng Ki tô giáo về không ích kỉ là cực kì ngu xuẩn. Phương Đông chưa bao giờ nghĩ theo cùng cách đó. Toàn thể lịch sử của phương Đông và việc tìm kiếm của nó về chân lí là rất dài và nó đã tìm thấy một sự kiện đơn giản - rằng trước hết bạn phải chăm sóc bản thân mình, và chỉ thế bạn mới có thể chăm sóc người khác.
Người hỏi cảm thấy mặc cảm nào đó. Cô ấy nói, 'Tôi dường như phải đẩy qua một tầng không thoải mái, mặc cảm và lẫn lộn. Xin thầy nói về điều đó.'
Đó là hiện tượng đơn giản. Ki tô giáo đã lừa hàng triệu người qua con đường sai. Và người Ki tô giáo chính thống là người cuồng tín nhất, người tin mù quáng nhất mà bạn có thể tìm thấy. Thời buổi này phương Đông đã quên mất những đỉnh cao vinh quang của nó rồi - những ngày của Phật Gautam và Mahavira. Bây giờ ngay cả những người không phải là Ki tô giáo cũng bị ảnh hưởng bởi ý thức hệ Ki tô giáo. Thời buổi này hiến pháp Ấn Độ nói rằng từ thiện bao gồm việc giúp người nghèo, mở rộng giáo dục cho người nghèo, và làm bệnh viện cho người nghèo. Không điều nào trong ba điều này được tìm thấy trong giáo huấn của Phật Gautam. Không phải là ông ấy chống lại việc giúp người nghèo, nhưng bởi vì ông ấy biết rằng nếu bạn là thiền nhân, bạn sẽ giúp đỡ, nhưng bạn sẽ không ba hoa về điều đó. Nó sẽ là điều đơn giản, tự nhiên.
Nhưng dạy thiền không phải là việc từ thiện, mở bệnh viện mới là từ thiện. Mở trường học và dạy địa lí và lịch sử là từ thiện. Và bạn định dạy gì trong địa lí? - Timbuktu ở đâu, Constantinople ở đâu. Trong lịch sử, bạn định dạy gì? - về Genghis Khan, Tamerlane, Nadirshah, Alexander Đại đế, Ivan Khủng khiếp. Đây là từ thiện sao? Nhưng dạy mọi người im lặng, an bình, đằm thắm, vui vẻ, mãn nguyện, hoàn thành thì không phải là từ thiện. Ngay cả những người không phải là người Ki tô giáo cũng đã trở nên bị tiêm nhiễm bởi bệnh này.
Mahatma Gandhi, ít nhất ba lần trong đời mình, đã suýt trở thành người Ki tô giáo. Thực tế, ông ấy là người Ki tô giáo, chín mươi phần trăm. Ts. Ambedkar, người đã viết ra hiến pháp Ấn Độ, đã từng nghĩ trong nhiều năm rằng ông ấy và tín đồ của ông ấy, những tiện dân, phải là người Ki tô giáo. Cuối cùng ông ấy đã quyết định rằng họ phải trở thành Phật tử. Nhưng trong toàn thể hiến pháp Ấn Độ bạn có thể thấy ảnh hưởng của Ki tô giáo. Trong toàn thể hiến pháp Ấn Độ thậm chí không nhắc gì tới từ 'thiền' - điều đã từng là đóng góp của phương Đông cho thế giới, và là đóng góp quí giá nhất của nó. Thay vì thế, hiến pháp này phản ánh nhiều về điều các nhà truyền giáo Ki tô giáo cứ thuyết giảng. Nó không phản ánh Phật Gautam, nó không phản ánh Kabir, nó không phản ánh Nanak.
Tôi thấy rằng không thể có từ thiện mà không có thiền.
Cho nên mặc cảm của bạn chỉ là ước định sai. Vứt nó đi, thậm chí không cho nó một giây suy nghĩ. Bạn sẽ trở thành không ích kỉ bởi việc tuyệt đối ích kỉ. Trước hết bạn phải trở nên giầu có bên trong - giầu có, giầu tràn ngập tới mức bạn phải chia sẻ, cũng như đám mây mưa phải chia sẻ nước mưa của nó với đất khát. Nhưng trước hết mây phải đầy nước mưa. Việc nói với đám mây trống rỗng, 'Bạn phải không ích kỉ,' chỉ là phi lí.
Mọi người tới gặp tôi, những người có ước muốn tốt, với ý định tốt, và họ nói, 'Đây là chỗ kì lạ thầy có quanh thầy. Thầy phải mở bệnh viện cho người nghèo; thầy phải thu nhận con côi; thầy phải phân phát quần áo cho người ăn xin; thầy phải giúp những người cần sự giúp đỡ chứ.' Cách tiếp cận của tôi là hoàn toàn khác. Tôi có thể phân phát phương pháp kiểm soát sinh đẻ cho người nghèo để cho không có con côi. Tôi có thể phân phát thuốc cho người nghèo để cho không có bùng nổ dân số bởi vì tôi thấy chẳng có vấn đề gì - trước hết cứ tạo ra con côi rồi tạo ra trại mồ côi và rồi phục vụ chúng và phí hoài cuộc sống của bạn sao?
Khi tôi bắt đầu nói vào những năm 1960, Ấn Độ có dân số bốn trăm triệu người. Tôi đã nói kể từ đó rằng kiểm soát sinh đẻ là tuyệt đối cần thiết. Nhưng người Ki tô giáo chống lại kiểm soát sinh đẻ, và chỉ trong vòng ba mươi nhăm năm, Ấn Độ đã hơn gấp đôi dân số của mình. Từ bốn trăm triệu nó lên tới chín trăm triệu. Năm trăm triệu người có thể đã được ngăn cản, và đáng ra đã không cần tới Mẹ Teresa, không cần giáo hoàng tới Ấn Độ và dạy về không ích kỉ.
Nhưng mọi người đều kì lạ - trước hết để họ trở nên ốm yếu, thế rồi cho thuốc. Và họ đã tìm ra cách thức hay. Trong mọi câu lạc bộ Lions và Rotary, họ để các cái hộp cho các thành viên của mình - nếu bạn mua một chai thuốc nào đó và bạn được chữa khỏi, và nửa chai thuốc vẫn còn, bạn cúng dường nó cho câu lạc bộ Lions. Theo cách này họ thu thập thuốc men, và rồi họ là những người cao thượng, người không ích kỉ nên họ phân phát thuốc này. Phục vụ là khẩu hiệu của họ. Nhưng đấy là phục vụ rất tinh ranh. Những thuốc đó sẽ bị đem vứt đi - nếu bạn được chữa khỏi, bạn sẽ làm gì với số thuốc còn lại? Chính ý tưởng lớn là thu thập tất cả những thuốc đó và phân phối chúng cho người nghèo - và có cảm giác lớn lao của việc là người phục vụ công chúng.
Theo tầm nhìn của tôi, điều con người cần trước hết và cao nhất là tâm thức thiền. Và sau khi bạn có tâm thức thiền, bất kì điều gì bạn làm đều sẽ có ích cho mọi người; bạn không thể làm hại gì được, bạn có thể làm chỉ hành động từ bi và đáng yêu.
Cho nên tôi nhắc lại: trước hết hãy ích kỉ. Biết tới bản thân mình, là bản thân mình và thế rồi chính cuộc sống của bạn sẽ không là gì ngoài việc chia sẻ, việc chia sẻ không ích kỉ, và không đòi hỏi bất kì ban thưởng nào trong thế giới này hay trong thế giới kia.
Nhận xét
Đăng nhận xét