Chương 11. Tội ác và trừng phạt
Chương 11. Tội ác và trừng phạt
Tử hình là bằng chứng hèn hạ về tính vô nhân đạo của con người với con người. Nó chỉ ra rằng con người vẫn còn sống trong thời đại man rợ. Văn minh vẫn còn là ý tưởng thôi - nó chưa trở thành thực tại.
Bạn sẽ phải nhìn từ mọi khía cạnh để hiểu tại sao điều ngu xuẩn như tử hình vẫn liên tục được dùng trong nhiều nền văn minh, văn hoá, quốc gia thế. Ngay cả ở một số nước mà nó đã bị loại bỏ, nó được chấp nhận lại. Ở các nước khác, nơi nó đã bị loại bỏ, nó đã được thay thế bằng tù chung thân - điều còn tồi tệ hơn bản thân tử hình. Tốt hơn cả là chết đi trong một khoảnh khắc còn hơn là cứ chết dần mòn trong năm mươi năm, sáu mươi năm. Việc đổi từ tử hình sang chung thân không phải là đi tới văn minh đâu, nó vẫn đi sâu hơn vào trong bóng tối man rợ, vô nhân đạo, vô ý thức.
Điều đầu tiên cần hiểu là ở chỗ tử hình không thực sự là trừng phạt. Nếu bạn không thể cho cuộc sống như ban thưởng, bạn không thể cho cái chết như trừng phạt được. Đây là logic đơn giản, không thể có hai ý kiến về nó được. Nếu bạn không thể cho mọi người cuộc sống, bạn có quyền gì mà lấy đi cuộc sống của họ?
Tôi nhớ tới một câu chuyện thực. Chuyện xảy ra là hai kẻ tội phạm tìm thấy một kho báu giấu trong một lâu đài. Nhiều lần mọi người đã cố gắng phá rào đột nhập vào trong lâu đài và đánh cắp nó, và đã bị bắt, nhưng bằng cách nào đó những kẻ tội phạm này thành công. Kho báu thật bao la, và một trong hai người quyết định rằng anh ta không muốn chia nó. Một cách là giết người kia đi, nhưng trong việc giết người kia anh này có thể bị bắt. Anh này không thể nhận rủi ro nào được, bởi vì bây giờ toàn thể kho báu là trong tay anh này.
Anh này xoay xở theo cách rất tinh ranh. Anh này biến mất và cho lan truyền tin đồn rằng mình đã bị sát hại, và anh này để lại bằng chứng để làm có vẻ như bạn mình là hung thủ. Người bạn này bị bắt với mọi bằng chứng: súng lục của anh ta thiếu mất hai viên đạn, và dấu ngón tay anh ta còn trên súng. Một chiếc khăn tay có thêu tên anh ta đã bị bỏ lại ở hiện trường... Anh ta không thể nào chứng minh được sự vô tội của mình; không có cách nào cả - mọi thứ đều chống lại anh ta và anh ta bị xử tử hình. Anh ta biết mình đã không giết bạn mình; anh ta biết rằng toàn thể điều này là âm mưu. Bạn anh ta đã không chết; đó chỉ là thủ đoạn để giữ cả kho báu cho người đó.
Nhưng anh ta đã trốn khỏi nhà tù trước khi bị hành hình. Và mười hai năm sau, khi anh ta nghe nói rằng người thứ nhất - người đã đổi căn cước và trở thành chính khách đáng kính - đã chết, anh ta tới nhà chức trách. Anh ta nói với toà án - vẫn là cùng quan toà đó - 'Tôi là người ông đã xử tử hình mười hai năm trước đây, nhưng tôi đã trốn thoát. Và tôi tuyệt đối vô tội, nhưng tôi không có bằng chứng.'
Thực tế vô tội chẳng bao giờ có bằng chứng nào. Bằng chứng là dành cho kẻ tội đồ hay để chống lại tội ác, nhưng vô tội không có bằng chứng. Người đó nói, 'Bây giờ người mà ông mười hai năm trước đã buộc tội tôi giết đó, nay đã chết rồi - đây là chính cùng con người đó. Cho nên tôi không thể đã giết ông ta được từ mười hai năm trước.' Anh ta nói, 'Tội duy nhất tôi đã phạm là trốn khỏi nhà giam, nhưng ông có thể gọi đó là tội được không? Khi ông trừng phạt một người vô tội bằng cái chết, ai là kẻ tội phạm - ông hay tôi?'
Câu chuyện này có nhiều ngụ ý. Người này đã hỏi, 'Nếu tôi bị xử tội chết và tôi đã không trốn đi và bị hành hình, bây giờ vụ xử này sẽ là gì? Nếu như người ta đi tới biết rằng người bị coi là đã bị giết chết vẫn còn sống, liệu ông có khả năng trả lại cuộc sống cho tôi không? Nếu ông không thể trả lại cuộc sống cho tôi, ông có quyền gì mà lấy nó đi?'
Người ta nói rằng ông quan toà đó đã từ chức, xin lỗi người này và nói, 'Có lẽ tôi đã phạm phải nhiều tội trong cuộc đời tôi.'
Trên khắp thế giới, thực tế là chừng nào bạn còn chưa chứng minh được vô tôi, bạn là có tội. Điều này đi ngược lại tất cả các ý tưởng nhân đạo, dân chủ, tự do, tôn trọng tính cá nhân; nó đi ngược lại tất cả những điều đó. Qui tắc nói rằng chừng nào bạn còn chưa bị chứng minh là có tội thì bạn là vô tội - đây là điều được nói bằng lời - nhưng trong thực tế hoàn cảnh lại chính là điều đối lập lại.
Con người cứ nói một điều và cứ làm chính cái đối lập nó. Người đó nói về việc là văn minh, là văn hoá - trong khi người đó không có văn minh, không có văn hoá. Tử hình đủ là bằng chứng.
Đây là qui tắc của xã hội man rợ: mắt đền mắt, và đầu trả đầu. Nếu ai đó chặt một tay bạn, thế thì trong xã hội man rợ, luật đơn giản là một tay của người đó phải bị chặt đi. Cùng điều đó đã được tiến hành qua nhiều thời đại, và tử hình đích xác là cùng luật đó: 'Mắt đền mắt. Nếu một người bị coi là đã giết ai đó, thế thì người đó phải bị giết.' Nhưng đó là điều kì lạ: nếu giết ai đó là tội ác, thế thì làm sao bạn có thể loại bỏ tội ác khỏi xã hội bằng việc phạm cùng tội ác đó lần nữa? Đã có một người bị giết rồi; bây giờ có hai người bị giết. Và cũng chẳng tuyệt đối chắc chắn rằng người này đã giết người kia, bởi vì chứng minh kẻ giết người không phải là điều dễ dàng.
Nếu giết người là sai, thế thì dù điều đó do cá nhân hay do xã hội phạm phải, chuyện ra toà cũng chẳng khác biệt gì.
Giết người chắc chắn là tội ác. Tử hình là tội ác do xã hội phạm phải chống lại một cá nhân, người bất lực. Tôi không thể gọi nó là trừng phạt được, nó là tội ác.
Và bạn có thể hiểu tại sao nó bị phạm phải: đó là cách trả thù. Xã hội trả thù bởi vì người này đã không tuân theo qui tắc. Xã hội sẵn sàng giết người đó - nhưng không ai bận tâm rằng khi ai đó phạm tội giết người, điều đó chỉ ra rằng người đó là ốm yếu về tâm lí. Thay vì cho người đó vào tù hay bị hành hình, người đó nên được đưa vào chỗ có tiện nghi nơi người đó có thể được chăm sóc - vật lí, tâm lí, tâm linh. Người đó ốm; người đó cần mọi từ bi của xã hội, không có vấn đề trừng phạt.
Vâng, điều đó đúng - một người đã bị giết. Nhưng chúng ta không thể làm được gì về điều đó. Bằng việc giết người đã giết người này, bạn có cho rằng người kia sẽ trở lại cuộc sống không? Nếu điều đó là có thể, tôi sẽ ủng hộ tất cả cho kẻ giết người này bị loại bỏ - người đó không xứng đáng là một phần của xã hội - và người kia nên được sống lại. Nhưng điều đó không xảy ra. Người kia đã đi vĩnh viễn; không có cách nào làm người kia sống lại được. Vâng, bạn có thể làm một điều, bạn có thể giết người này nữa. Bạn đang cố gắng lau sạch máu bằng máu, lau bùn bằng bùn.
Bạn không nhận biết về điều đã xảy ra trong lịch sử trong nhiều trường hợp. Ba trăm năm trước đây, trong nhiều nền văn hoá người điên đã bị coi là giả vờ. Trong nhiều nền văn hoá khác người đó đã bị coi là bị ma ám. Trong các nền văn hoá khác người đó bị coi là điên, nhưng được đối xử bằng trừng phạt. Đây đã là ba cách người điên được chăm nom tới.
Họ đã bị trị liệu bằng đánh đập - chữa trị kì lạ! - và bằng việc lấy máu của họ ra. Bây giờ bạn cho truyền máu; họ thường làm điều đối lập lại - họ thường lấy máu ra khỏi người này bởi vì người ta cho rằng người đó có quá nhiều năng lượng. Một cách tự nhiên, khi máu bị lấy ra, người này trở nên yếu, bắt đầu biểu lộ dấu hiệu của yếu bởi vì nhiều máu thế đã bị lấy ra, và người ta nghĩ là họ đã chữa cho người đó khỏi điên.
Bằng việc đánh người, một cách tự nhiên thỉnh thoảng điều xảy ra là họ trở về với tri giác của mình. Cũng gần như là một người đang ngủ và bạn bắt đầu đánh người đó và người đó thức dậy. Người điên đã tuột ra khỏi tâm trí có ý thức của mình; nếu bạn đánh người đó mạnh, thỉnh thoảng có thể xảy ra là người đó tỉnh dậy trở về ý thức của mình lần nữa. Điều đó trở thành bằng chứng rằng đánh là cách chữa trị đúng. Điều đó thỉnh thoảng mới xảy ra thôi; chín mươi chín phần trăm các trường hợp là bị hành hạ không cần thiết. Nhưng đó là một ngoại lệ trở thành qui tắc.
Người ta cho rằng người điên bị ma ám, quỉ ám; thế nữa ý tưởng lại là đánh họ, bởi vì nếu họ bị ma ám, việc đánh sẽ chỉ tác động vào ma, không vào người đó. Bạn không đánh thân thể người đó, bạn thực sự đánh con ma đang ám người này, và bởi vì việc đánh mà con ma sẽ phải chạy ra.
Và thỉnh thoảng người này sẽ trở về tri giác của mình - nhưng chỉ thỉnh thoảng thôi, còn ít hơn một phần trăm, không nhiều hơn thế.
Tôi đã từng ở một chỗ nổi tiếng về trị liệu cho người điên. Hàng trăm người điên được đem tới chỗ đó. Đó là một ngôi đền trên bờ sông, và tu sĩ của ngôi đền đó phải đã là một đồ tể trong ít nhất vài trăm kiếp. Ông ta trông như đồ tể và ông ta cho mọi người trận đòn nên thân. Những người điên đó bị xiềng lại, bị đánh ra trò, không được ăn, và phải uống thuốc nhuận tràng rất mạnh. Và tôi đã thấy rằng thỉnh thoảng một người trở về tri giác. Dùng thuốc nhuận tràng mạnh trong vài ngày, lại không có thức ăn, sẽ dọn sạch hệ thống bên trong của người đó. Đánh đập đem người đó trở về ý thức một chút. Không thức ăn, đói - người đói không thể đảm đương được việc điên bởi vì thân thể người đó bị hành hạ thế. Để điên bạn cần chút ít thuận tiện trong tình huống cuộc sống của mình.
Bạn có thể thấy điều đó - xã hội càng thuận tiện, càng xa hoa, văn hoá càng giàu có, càng nhiều người phát điên. Xã hội càng nghèo - chết đói, đói - càng ít người phát điên. Ngay chỗ đầu tiên điên cần tâm trí. Nhưng người đói không có chất nuôi dưỡng cho tâm trí. Người đó thiếu dinh dưỡng, cho nên tâm trí người đó không ở tình huống gàn dở. Để có điều đó tâm trí cần nhiều năng lượng hơn là bình thường có được để sống sót. Điên khùng là bệnh của người giầu. Người nghèo không thể đảm đương được điều đó.
Cho nên khi bạn để cho một người đói và cho người đó thuốc nhuận tràng, điều đó dọn sạch hệ thống bên trong của người đó, làm cho người đó đói tới mức người đó trở nên hướng vào thân thể. Người đó quên mất tâm trí, mối quan tâm chính là vào thân thể. Người đó không còn quan tâm tới tâm trí và trò chơi tâm trí của nó.
Điên khùng là trò chơi tâm trí.
Cho nên thỉnh thoảng tôi thấy người được chữa trong ngôi đền đó, nhưng một phần trăm số người được chữa cũng đã gây ra tin đồn lan rộng khắp, và hàng trăm người đã được đưa tới đó. Ngôi đền này trở nên rất giầu. Tôi đã đi tới đó nhiều lần để xem nó, nhưng chỉ một lần tôi gặp một người đã được chữa; những người khác quay trở về nhà họ chỉ bị đánh, bị bỏ đói, chết đói - thậm chí còn ốm hơn, yếu hơn. Nhiều người chết bởi vì việc điều trị của tu sĩ đó.
Nhưng ở Ấn Độ, nếu trị liệu được tu sĩ thực hiện trong một ngôi đền, ở chỗ linh thiêng, thì bạn chết lại không phải là tội ác; thực tế bạn được coi là may mắn vì bạn đã chết ở nơi linh thiêng. Bạn sẽ được tái sinh ở mức tâm thức cao hơn. Cho nên điều đó không bị coi là tội ác. Và các tu sĩ đã chữa trị người điên trong hàng thế kỉ rồi, theo cùng cách, trên khắp thế giới.
Bây giờ chúng ta biết rằng người điên không thể được chữa trị theo cách này. Người điên bị cho vào nhà tù, và phòng giam biệt lập. Điều đó vẫn đang xảy ra trên khắp thế giới bởi vì chúng ta không biết phải làm gì khác. Chỉ để che giấu dốt nát của mình chúng ta tống người điên vào nhà giam, để cho chúng ta có thể quên về họ; ít nhất chúng ta có thể cứ bỏ qua sự kiện là họ tồn tại.
Trong thị trấn của tôi, ông bác của một trong các bạn tôi bị điên. Họ là những người giầu. Tôi thường tới nhà họ, nhưng ngay cả tôi mãi vài năm sau mới trở nên nhận biết rằng ông bác của một trong những người bạn này đã bị giam giữ trong tầng ngầm, bị xích lại.
Tôi hỏi, 'Sao thế?'
Họ nói, 'Ông ấy điên. Chỉ có hai cách thôi: hoặc là chúng tôi giữ ông ấy ở trong nhà riêng của mình, bị xích lại... Và tất nhiên chúng tôi không thể để ông ấy bị xích trên gác trong nhà được; bằng không mọi người sẽ tới thăm, và mọi người sẽ cảm thấy lo lắng và quan tâm. Và con ông ấy, vợ ông ấy, nhìn bố họ, chồng họ trong cảnh này... điều đó thật khủng khiếp. Nếu cho ông ấy vào nhà tù thì làm hỏng danh tiếng của gia đình chúng tôi, cho nên chúng tôi đã tìm ra cách. Chúng tôi đã giam ông ấy ở tầng hầm. Thức ăn được người hầu đưa tới cho ông ấy; ngoài ra không ai tới thăm ông ấy cả, không ai tới gặp ông ấy.'
Tôi thuyết phục bạn tôi, 'Tớ muốn gặp bác cậu.'
Cậu ta nói, 'Nhưng tớ không thể đi cùng cậu được - ông ấy là con người nguy hiểm, ông ấy điên! Ngay cả bị xích rồi, ông ấy vẫn có thể làm bất kì cái gì.'
Tôi nói, 'Ông ấy nhiều nhất có thể giết tớ. Cậu cứ ở đằng sau tớ đi để nếu tớ bị giết thì cậu có thể chạy thoát - nhưng tớ muốn đi tới đó.'
Bởi vì tôi cứ nài nỉ, cậu ta xoay xở kiếm chìa khoá từ người hầu, người chăm nom thức ăn cho ông bác. Trong ba mươi năm này tôi là người đầu tiên từ thế giới bên ngoài, không phải là người hầu, đã tới gặp ông ấy. Và người đó đã có thời điên - tôi không thể nói được - nhưng bây giờ ông ấy không điên. Nhưng chẳng ai thực sự nghe ông ấy bởi vì tất cả mọi người điên đều nói, 'Chúng tôi không điên.' Cho nên khi ông ấy nói điều này với người hầu, 'Bảo gia đình tôi là tôi không điên,' người hầu chỉ cười. Cuối cùng người hầu cũng bảo với gia đình, nhưng chẳng ai để ý tới điều đó.
Khi tôi thấy người này, tôi đã ngồi cùng ông ấy, tôi đã nói với ông ấy. Ông ấy lành mạnh như bất kì ai khác trên thế giới - có lẽ còn hơn chút ít, bởi vì ông ấy nói một điều với tôi: 'Ở đây trong ba mươi năm đã là một kinh nghiệm vô cùng. Thực tế bác cảm thấy may mắn là bác đã ở ngoài thế giới điên của cháu. Họ nghĩ bác điên - cứ để họ nghĩ điều đó đi, chẳng hại gì - nhưng thực tế bác may mắn là bác ở ngoài thế giới điên của cháu. Cháu nghĩ sao?' ông ấy hỏi tôi.
Tôi nói, 'Bác tuyệt đối đúng. Thế giới bên ngoài còn điên hơn nhiều khi bác rời bỏ nó từ ba mươi năm trước. Trong ba mươi năm qua đã có tiến hoá lớn lao trong mọi thứ - trong cả tính điên khùng nữa. Bác nên thôi bảo mọi người là bác không điên đi; bằng không họ có thể đưa bác ra đấy! Bác đang sống cuộc sống hoàn toàn đẹp. Bác có đủ không gian để đi dạo...'
Ông ấy nói, 'Đó là luyện tập duy nhất bác có thể làm ở đây - đi dạo.'
Tôi bắt đầu dậy cho ông ấy vipassana. Tôi nói, 'Bác đang trong tình huống hoàn hảo để trở thành vị phật: không lo nghĩ, không bận tâm, không quấy rối. Bác thực sự được phúc lành.' Và lần cuối tôi gặp ông ấy, trước khi ông ấy chết, tôi có thể thấy từ khuôn mặt của ông ấy, từ đôi mắt ông ấy, rằng ông ấy không phải là cùng con người cũ - sự biến đổi toàn bộ, sự chuyển hoá đã xảy ra cho ông ấy.
Người điên cần những phương pháp thiền để cho họ có thể ra khỏi tính điên của mình. Kẻ tội phạm cần giúp đỡ tâm lí, hỗ trợ tâm linh. Họ thực sự ốm yếu sâu bên dưới, còn bạn lại trừng phạt người ốm. Đó không phải là lỗi của họ. Nếu ai đó giết người, điều đó nghĩa là người đó đã mang xu hướng giết người trong mình trong một thời gian dài. Không phải là ở đâu đó, từ không đâu cả, bất thần bạn giết ai đó đâu.
Nếu giết người xảy ra thế thì xã hội cần phải nhìn lại, thế thì toàn thể xã hội đáng phải bị phạt chứ. Sao điều như vậy đã xảy ra trong xã hội này? Bạn đã làm gì với người này đến nỗi người đó phải giết người? Sao người này đã trở nên mang tính huỷ hoại thế? - bởi vì tự nhiên cho mọi người năng lượng mang tính sáng tạo. Nó trở thành mang tính huỷ hoại chỉ khi nó bị cản trở, khi không luồng chảy tự nhiên nào được phép. Bất kì khi nào năng lượng đi tới tự nhiên nó đều bị xã hội ngăn lại, nó bị què quặt; nó bị chuyển sang hướng khác nào đó. Chẳng mấy chốc người đó lâm vào lẫn lộn. Người đó không biết cái gì là cái gì. Người đó không biết điều mình đang làm, tại sao mình làm nó. Lí do nguyên thuỷ bị bỏ lại xa đằng sau; người đó đã lấy nhiều ngã rẽ tới mức người đó đã trở thành trò chơi sắp hình.
Chẳng ai cần tử hình, chẳng ai xứng đáng với nó cả. Thực tế, không chỉ tử hình, mà không loại trừng phạt nào là đúng cả, bởi vì trừng phạt không bao giờ chữa lành con người. Mọi ngày số tội phạm cứ tăng lên; mọi ngày bạn đều xây thêm nhà tù. Điều này là kì lạ. Nó đáng phải không thế chứ. Chính điều đối lập mới đáng là hoàn cảnh, bởi vì với bao nhiêu toà án và bao nhiêu trừng phạt và bao nhiêu nhà tù, tội ác đáng phải ít đi, tội phạm đáng phải ít đi chứ. Qua thời gian, nhà tù đáng phải ít đi, toà án đáng phải ít đi. Và điều đó không xảy ra.
Chính là vì toàn thể lập luận của bạn là sai. Bạn không thể dạy bằng việc trừng phạt người khác được. Đó là điều các quan toà, chuyên gia luật pháp, chính khách đã từng nói trong nhiều thế kỉ: 'Nếu chúng ta không trừng phạt mọi người, thế thì làm sao chúng ta dạy được họ? Thế thì mọi người sẽ bắt đầu phạm tội. Chúng ta phải trừng phạt mọi người để cho họ vẫn còn sợ hãi.' Họ nghĩ sợ là cách dạy duy nhất - và sợ không phải là cách dạy mọi người chút nào! Điều trừng phạt làm là dạy cho mọi người quen với sợ, để cho cú sốc nguyên thuỷ không còn đó nữa. Họ biết điều có thể xảy ra: 'Nhiều nhất các ông có thể đánh tôi. Và nếu một người có thể nhận điều đó, thì tôi cũng có thể nhận nó. Bên cạnh đó, trong hàng trăm kẻ trộm các ông chỉ có thể bắt được một hay hai người thôi. Bây giờ, nếu các ông thậm chí không sẵn sàng nhận rủi ro đó - chín mươi tám người thành công, hai phần trăm thất bại - các ông là cái loại người gì vậy?'
Chẳng ai học được từ trừng phạt cả. Ngay cả người đang bị trừng phạt cũng không học được điều bạn muốn người đó học. Vâng, người đó học cái gì đó khác; người đó học có bộ da dầy.
Và một khi một người vào tù, nhà tù trở thành nhà của người đó bởi vì ở đó người đó tìm thấy những người có tâm trí giống mình. Ở đó người đó tìm thấy xã hội thực của mình. Bên ngoài người đó là người xa lạ; trong tù người đó ở trong thế giới riêng của mình. Họ tất cả đều hiểu cùng ngôn ngữ, và họ là chuyên gia. Bạn có thể chỉ là người nghiệp dư, kẻ học nghề; đó có thể là học kì đầu tiên của bạn.
Tôi đã nghe một câu chuyện về một người vào tù, và trong xà lim tối tăm anh ta thấy một ông già, đang nghỉ ngơi. Ông già hỏi anh ta, 'Anh định ở đây bao lâu?'
Người mới tới nói, 'Mười năm.'
Ông già nói, 'Thế thì anh có thể ở gần cửa ra vào. Chỉ mỗi mười năm thôi! Anh dường như là kẻ nghiệp dư rồi. Ta định ở đây năm mươi năm, cho nên anh ở gần cửa ra vào. Chẳng bao lâu anh sẽ ra.'
Nhưng khi bạn ở cùng với chuyên gia trong mười năm, tất nhiên bạn học tất cả các kĩ thuật, chiến lược, phương pháp của họ. Bạn học từ kinh nghiệm của họ. Bạn sẽ thấy việc giam cầm của mình là một loại đại học nơi tội ác được dạy bằng chi phí của chính phủ. Bạn sẽ thấy các giáo sư tội ác, trưởng khoa tội ác, phó giám đốc, giám đốc - đủ mọi loại người đã phạm đủ mọi loại tội ác mà bạn có thể hình dung. Chắc chắn người mới tới bắt đầu học.
Tôi đã từng ở nhiều nhà tù, và trong tất cả chúng, bầu khí hậu về bản chất là như nhau. Ý tưởng chung trong tất cả những nhà giam và nhà tù mà tôi đã tới thăm là không phải tội ác đem bạn vào tù, nó chỉ là việc bị bắt. Cho nên bạn phải học cách đúng để làm điều sai. Đấy không phải là vấn đề làm đúng; vấn đề là làm sai theo cách đúng. Và mọi tù nhân đều học cách đúng để làm điều sai trong tù. Thực tế tôi đã nói với các tù nhân, người đã nói, 'Chúng tôi hăm hở hơn để ra tù sớm nhất có thể được bởi vì chúng tôi đã học nhiều thế, chúng tôi muốn thực hành. Chỉ mỗi khía cạnh thực hành bị thiếu thôi, trước khi chúng tôi bị bắt nó toàn là tri thức lí thuyết. Với việc dạy thực hành ông cần xã hội của nhà tù để dạy ông.'
Một khi một người trở thành người vào tù nhiều lần, thì chẳng ở đâu khác người đó tìm thấy bản thân mình dễ dàng thế; chẳng chóng thì chầy người đó sẽ trở lại nhà giam. Qua thời gian, nhà giam trở thành xã hội thay thế của người đó. Nó thuận tiện hơn, người đó cảm thấy như ở nhà nhiều hơn; không ai ra vẻ ta đây với người đó. Mọi người đều là tội phạm. Không ai là tu sĩ và không ai là hiền nhân và không ai là người linh thiêng. Tất cả đều là người đáng thương với tất cả những yếu đuối và nhu nhược.
Bên ngoài người đó thấy rằng mình bị bác bỏ, bị bỏ rơi.
Trong thị trấn của tôi có một người vào tù nhiều lần thường xuyên. Người đó là người rất đẹp; tên người đó là Barkat Mian và người đó dành hầu hết chín tháng trong tù, thế rồi ba tháng ở ngoài. Trong ba tháng đó người đó phải tới trình diện cảnh sát hàng tuần để chứng tỏ rằng mọi thứ là ổn thoả và người đó vẫn ở đó. Nhưng tôi có tình bạn lớn với người này. Gia đình tôi giận lắm; họ nói, 'Sao con cứ bạn bè với Barkat thế?' Họ thường nói với tôi, 'Con người được biết qua bạn bè của người đó.'
Tôi nói, 'Con hiểu bố mẹ. Điều đó nghĩa là Barkat sẽ được biết tới bởi con, và cho một người chút ít sự kính trọng thì chẳng phải là cái gì xấu cả.'
Họ nói, 'Khi nào con sẽ thấy mọi điều theo cách đúng đây?'
Tôi nói, 'Con nhìn điều đó đích xác theo cách đúng đấy. Thay vì Barkat làm giảm giá trị của con, con đang nâng giá trị cho Barkat. Bố mẹ nghĩ cái ác của anh ấy còn mạnh hơn cái thiện của con sao? Bố mẹ không tin cậy vào tính toàn vẹn của con; bố mẹ tin cậy vào tính toàn vẹn của Barkat.' Tôi nói, 'Dù ý kiến bố mẹ ra sao, con vẫn tin cậy vào bản thân mình. Barkat không thể làm hại gì con được. Nếu điều hại nào sẽ được làm, điều đó sẽ được con làm cho Barkat.'
Anh ấy thực sự là người đẹp, tốt, và anh ấy hay bảo tôi, 'Em không nên ở quanh anh. Nếu em muốn gặp anh và nói chuyện, chúng ta có thể xoay xở để gặp ở đâu đó bên ngoài thị trấn, bên bờ sông.' Bản thân anh ấy sống gần nghĩa địa của người Mô ha mét giáo nơi không ai tới cả trừ phi người ta chết; người ta chỉ tới một lần. Anh ấy không được phép sống ở trong thị trấn. Trong thị trấn không ai sẵn sàng cho anh ấy thuê nhà. Dù anh ấy có sẵn sàng trả tiền thuê nhà bao nhiêu, chẳng ai muốn nhận. Không ai sẵn sàng cho anh ấy vào.
Tôi hỏi Barkat, 'Anh đã thành kẻ cắp thế nào?'
Anh ấy nói, 'Lần đầu tiên anh bị tù anh tuyệt đối vô tội, nhưng anh nghèo và anh đã không thể thuê được luật sư và những người muốn anh vào tù lại mong kiếm lợi nào đó. Bố và mẹ anh đều chết khi anh còn rất trẻ, mới mười bốn hay mười lăm. Còn những người họ hàng khác của anh muốn lấy tài sản của cả gia đình, nhà cửa, ruộng đất - nhưng để làm điều đó họ phải tống anh ra khỏi đường. Họ đơn giản xoay xở làm điều đó. Họ để cái gì đó vào túi anh trong nhà anh, và không có cách nào để bỏ nó ra. Vật đó đã được tìm thấy trong túi anh, và anh bị tống vào tù. Khi anh trở về, đất đã mất, nhà đã bị bán, họ hàng anh đã xoay xở phân tán và phân phối mọi thứ. Anh chỉ còn ở trên phố.
'Thế là đầu tiên, anh vô tội khi anh bước vào tù, nhưng khi anh bước ra anh không còn hồn nhiên nữa, bởi vì anh đã tốt nghiệp. Anh kể cho mọi người trong tù về điều đã xảy ra cho anh - anh mới chỉ mười bẩy - và họ nói 'Đừng lo nghĩ, chín tháng này sẽ chóng kết thúc thôi, nhưng trong chín tháng chúng ta sẽ cho cháu kĩ năng cuối cùng và cháu sẽ có khả năng trả thù mọi người.'
'Đầu tiên anh bắt đầu trả thù mọi người họ hàng - điều này đơn giản để trả đũa. Họ đã buộc anh thành kẻ cắp, và anh đã chứng minh rằng bây giờ anh là kẻ cắp đấy. Anh bám theo cả nhóm họ hàng nhà anh và đánh cắp mọi thứ họ có. Nhưng dần dần anh trở nên ngày một dính líu hơn. Em có thể can dự vào mười vụ và đều được cứu thoát, nhưng đến vụ thứ mười một thì em bị bắt. Khi em càng lớn hơn và hiệu quả hơn, em bị bắt ít hơn. Nhưng bây giờ không có vấn đề gì; thực tế nhà tù là chỗ thảnh thơi, ngày nghỉ làm việc và nghỉ lo lắng và đủ mọi thứ. Vài tháng trong tù là tốt cho sức khoẻ - nó là cuộc sống có kỉ luật với thời gian đích xác để thức dậy, đi làm, đi ngủ. Và đủ thức ăn để giữ cho em sống.'
Anh ấy nói, 'Anh chưa bao giờ ốm trong tù, trừ phi anh giả vờ để cho anh có thể vào bệnh viện để có ngày nghỉ chút ít. Bên ngoài anh ốm, nhưng chưa bao giờ ốm bên trong. Và bên ngoài là thế giới ngoại; mọi người đều cao siêu còn anh kém cỏi. Chỉ trong tù anh mới cảm thấy tự do.'
Thật kì lạ! Khi anh ấy nói điều đó, tôi nói, 'Anh nói trong tù anh cảm thấy tự do sao?'
Anh ấy nói, 'Đúng, chỉ trong tù anh mới cảm thấy tự do.'
Đây là cái loại xã hội gì vậy, nơi mọi người trong tù cảm thấy tự do, và bên ngoài họ cảm thấy bị cầm tù?
Và đây gần như là câu chuyện của mọi tội phạm. Một điều nhỏ trong lúc bắt đầu - có thể người đó đói, có thể người đó lạnh, cần chiếc chăn và chỉ đánh cắp chiếc chăn thôi - những nhu cầu nhỏ bé đáng được đáp ứng; bằng không thì xã hội không nên tạo ra những người này. Không ai đòi hỏi xã hội tạo ra họ. Một mặt bạn cứ sinh ra ngày một nhiều người, và không có đủ thứ cho họ, không cái ăn không cái mặc không chỗ trú ngụ. Thế thì bạn mong đợi cái gì? Bạn đang đặt mọi người vào tình huống họ nhất định trở thành tội phạm.
Dân số thế giới phải được cắt giảm đi một phần ba nếu bạn muốn tội ác biến mất.
Nhưng không ai muốn tội ác biến mất bởi vì sự biến mất của tội ác nghĩa là việc biến mất của chánh án, luật sư, chuyên gia pháp luật, của nghị viện, của cảnh sát, của cai tù. Nó sẽ tạo ra vấn đề thất nghiệp lớn; không ai muốn cái gì thay đổi cho tốt hơn.
Mọi người đều nói mọi sự nên thay đổi cho tốt hơn, nhưng mọi người đều cứ làm cho mọi sự tồi hơn, bởi vì mọi sự càng tồi đi thì mọi người càng có việc. Mọi sự càng tồi đi thì càng nhiều cơ may cho bạn cảm thấy thoải mái. Tội phạm được cần tới để bạn cảm thấy rằng bạn là người đạo đức, đáng kính thế. Tội đồ được cần tới để thánh nhân cảm thấy rằng họ là thánh nhân. Không có tội đồ, ai sẽ là thánh nhân? Nếu toàn xã hội chỉ gồm những người tốt, bạn có cho rằng bạn sẽ nhớ tới Jesus Christ từ hai nghìn năm không? Để làm gì? Chính xã hội tội phạm mới nhớ tới Jesus Christ trong hai nghìn năm.
Đó là điều đơn giản để hiểu. Sao bạn nhớ tới Phật Gautam? Nếu như có hàng triệu chư phật, những người thức tỉnh, trong thế giới này thì bạn sẽ chẳng để ý gì. Phật Gautam đã có cái đặc biệt gì? Ông ấy chắc sẽ bị mất hút trong đám đông. Nhưng hai mươi nhăm thế kỉ đã trôi qua và ông ấy đứng như cột trụ, đỉnh núi xa trên đầu bạn.
Thực tế Phật, Jesus, Mohammmed, Mahavira, không phải là những người khổng lồ - bạn mới là người rất nhỏ bé. Và mọi người khổng lồ đều có đầu tư vào việc vẫn còn là người nhỏ bé của bạn; bằng không ông ấy sẽ không là người khổng lồ. Đây là mưu đồ lớn lao.
Tôi chống lại toàn thể mưu đồ này. Tôi không là người khổng lồ cũng chẳng là người nhỏ bé; tôi không có quyền lợi được đầu tư chút nào. Tôi chỉ là bản thân mình. Tôi không so sánh bản thân mình với bất kì ai, cho nên không ai là thấp hơn tôi và không ai là cao hơn tôi. Bởi vì sự kiện đơn giản này tôi có thể thấy trực tiếp; không có quyền lợi được đầu tư làm lệch tầm nhìn của tôi. Và đây là đáp ứng tức khắc của tôi cho câu hỏi về tử hình - nó là bằng chứng đơn giản rằng con người vẫn cần được văn minh, cần được văn hoá, cần biết giá trị nhân bản.
Trong thế giới này không ai là tội phạm, chưa bao giờ đã từng có. Vâng, có những người cần từ bi - không tù đầy, không trừng phạt. Tất cả mọi nhà tù nên được biến thành nhà nuôi dưỡng tâm lí.
Nhận xét
Đăng nhận xét