Chương 14. Kí ức và tưởng tượng
Thầy thường xuyên khẩn nài chúng tôi từ bỏ kí ức, để sống trong ở đây bây giờ. Nhưng trong khi từ bỏ kí ức tôi cũng phải từ bỏ cả tưởng tượng sáng tạo của mình, vì tôi là nhà văn và mọi điều tôi viết ra đều có gốc rễ trong điều tôi ghi nhớ.
Tôi tự hỏi - thế giới sẽ ra sao nếu không có nghệ thuật và tưởng tượng sáng tạo, điều làm cho nghệ thuật thành có thể? Một Tolstoy không bao giờ có thể trở thành vị Phật được, nhưng thế thì vị Phật có thể viết ra Chiến tranh và Hoà bình không?
Bạn đã không hiểu tôi rồi, nhưng điều đó là tự nhiên. Không thể nào hiểu được tôi, bởi vì để hiểu tôi bạn sẽ phải vứt bỏ kí ức của bạn. Kí ức của bạn gây can nhiễu vào. Bạn nghe lời tôi, và thế rồi bạn cứ diễn giải những lời đó theo kí ức của bạn, theo quá khứ của bạn. Bạn không thể hiểu được tôi nếu bạn không ở đây bây giờ... chỉ thế thì mới có gặp gỡ. Chỉ trong khoảnh khắc đó bạn mới ở cùng tôi; bằng không, bạn có mặt vật lí ở đây, vắng mặt về tâm lí.
Tôi không bảo bạn vứt bỏ kí ức sự kiện của bạn. Điều đó sẽ là ngu ngốc! Kí ức sự kiện của bạn là cái cần phải có. Bạn phải biết tên mình, bố bạn là ai và mẹ bạn là ai và vợ bạn là ai và con bạn là ai và địa chỉ của bạn; bạn sẽ phải đi về khách sạn, bạn sẽ phải tìm ra căn phòng của mình. Kí ức sự kiện không được ngụ ý tới - kí ức tâm lí mới được ngụ ý tới. Kí ức sự kiện không phải là vấn đề, nó là việc hồi tưởng lại thuần tuý. Khi bạn trở nên bị ảnh hưởng về tâm lí, thế thì vấn đề nảy sinh. Cố hiểu khác biệt này.
Hôm qua ai đó xúc phạm bạn. Lần nữa người đó bắt gặp bạn hôm nay. Kí ức sự kiện là ở chỗ 'người này đã xúc phạm mình hôm qua.' Kí ức tâm lí là ở chỗ thấy người đó bạn trở nên giận dữ; thấy người đó, bạn bắt đầu sôi lên. Và người đó có thể tới chỉ để xin lỗi bạn; người đó có thể tới để tạ lỗi, để xin được tha thứ. Người đó có thể đã hiểu ra sai lầm của mình; người đó có thể đã hiểu ra hành vi vô ý thức của mình. Người đó có thể lại trở nên thân thiện với bạn, nhưng bạn lại trở nên sôi sùng sục. Bạn giận dữ, bạn bắt đầu mắng mỏ. Bạn không thấy khuôn mặt người đó ở đây bây giờ; bạn bị ảnh hưởng bởi khuôn mặt ngày hôm qua. Nhưng hôm qua là hôm qua! Bao nhiêu nước đã chảy xuôi qua sông Hằng rồi? Người này không phải là cùng người đó nữa. Hai mươi bốn giờ đã đem tới nhiều thay đổi - và bạn không là cùng con người trước nữa.
Kí ức sự kiện nói, 'Người này đã xúc phạm mình hôm qua,' nhưng mà 'mình' đã thay đổi rồi. Người này đã thay đổi rồi. Cho nên cứ dường như là sự vụ đã xảy ra giữa hai người mà với họ bạn chẳng có liên quan gì nữa - thế thì bạn được tự do về tâm lí. Bạn không nói, 'Tôi vẫn thấy giận.' Không có cơn giận đeo bám. Kí ức có đó, nhưng không có mầu sắc tâm lí. Bạn lại gặp người này như người đó bây giờ, và bạn gặp người đó như bạn bây giờ.
Một người tới và nhổ vào mặt Phật. Người đó rất giận dữ. Người đó là một Brahmin còn Phật lại đang nói những điều mà các tu sĩ rất giận điều đó. Phật chùi mặt và hỏi người này, 'Ông còn gì nữa để nói không?'
Đệ tử của ông ấy, Ananda, trở nên rất giận. Ông ấy giận tới mức ông ấy hỏi Phật, 'Xin hãy cho phép tôi làm cho người này biết lễ độ là gì. Thế này thì quá thể! Tôi không thể dung thứ điều đó được.'
Phật nói, 'Nhưng ông ta có nhổ vào mặt ông đâu. Đây là mặt ta. Thứ nữa, nhìn người đó mà xem! Ông ta đang trong rối loạn lớn thế nào - cứ nhìn ông ta mà xem! Thấy từ bi với ông ta đi. Ông ta muốn nói điều gì đó với ta, nhưng lời lại không thích hợp. Đó cũng là vấn đề của ta nữa, vấn đề dài cả đời ta - và ta thấy người này trong cùng tình huống đó! Ta muốn kể lại mọi sự cho các ông rằng ta đã đi tới biết, nhưng ta không thể kể được cho họ bởi vì lời là không thích hợp. Người này đang trên cùng con thuyền đó: người này giận dữ tới mức không lời nào có thể diễn đạt được cơn giận của mình - cũng như ta đang yêu nhiều tới mức không lời nào, không hành động nào, có thể diễn đạt được nó. Ta thấy khó khăn của người này - nhìn xem!'
Phật thấy, Ananda cũng thấy. Phật đơn giản thu thập kí ức sự kiện; Ananda đang tạo ra kí ức tâm lí.
Người này không thể nào tin được vào tai mình, điều Phật vừa nói. Người này rất choáng váng. Người này sẽ không choáng váng nếu Phật đánh người này, hay Ananda đã nhảy lên người này. Thế thì sẽ không có choáng váng; điều đó đã được trông đợi, điều đó đáng là tự nhiên. Đó là cách con người phản ứng. Nhưng Phật cảm được người này, thấy cái khó khăn của người này... Người này đi, không thể ngủ được cả đêm, suy nghĩ mãi về điều đó, thiền về điều đó. Bắt đầu cảm thấy tổn thương lớn, bắt đầu cảm thấy điều mình đã làm. Một vết thương hé ra trong tim người này.
Sáng sớm hôm sau, người này chạy xô tới chân Phật, khuỵu xuống chân Phật, hôn chân Phật. Và Phật nói với Ananda, 'Trông này, lại cùng vấn đề rồi! Bây giờ người này đang cảm thấy quá nhiều với ta, người này không thể nói được thành lời. Người này chạm chân ta. Con người bất lực thế. Bất kì cái gì quá nhiều cũng đều không thể diễn đạt được, không thể truyền đạt được, không thể trao đổi được. Phải tìm ra cử chỉ nào đó để tượng trưng cho nó. Trông xem!'
Và người này bắt đầu khóc và người này nói, 'Tôi xin lỗi, thưa thầy. Tôi cực kì xin lỗi. Nhổ vào thầy, một con người như thầy, là ngu xuẩn tuyệt đối về phần tôi.'
Phật nói, 'Quên điều đó đi! Người mà ông đã nhổ vào không còn nữa, và người đã nhổ cũng không còn nữa rồi. Ông mới, ta mới! Trông đấy - mặt trời này đang mọc lên là mới. Mọi thứ đều mới. Ngày hôm qua không còn nữa. Được kết thúc với nó đi! Và làm sao ta có thể tha thứ được? bởi vì ông chưa bao giờ nhổ vào ta. Ông nhổ vào ai đó đã đi rồi.'
Tâm thức là dòng sông liên tục.
Khi tôi nói vứt bỏ kí ức của bạn, tôi ngụ ý kí ức tâm lí; tôi không ngụ ý kí ức sự kiện. Phật nhớ hoàn hảo rằng hôm qua người này đã nhổ vào mình, nhưng ông ấy cũng nhớ rằng người này không là cùng con người cũ cũng như ông ấy không là cùng con người cũ. Chương đó đã khép lại rồi; chẳng đáng mang nó trong cả đời bạn. Nhưng bạn cứ mang. Ai đó đã nói điều gì đó với bạn từ mười năm trước và bạn vẫn còn mang nó. Mẹ bạn đã giận dữ khi bạn còn là đứa trẻ và bạn vẫn còn mang nó. Bố bạn đã tát bạn khi bạn chỉ là đứa bé và bạn vẫn còn mang nó, và bạn có thể bẩy mươi tuổi.
Những kí ức tâm lí này cứ đè nặng bạn. Chúng phá huỷ tự do của bạn, chúng phá huỷ sự sống động của bạn, chúng giam cầm bạn. Kí ức sự kiện là hoàn toàn tốt.
Và một điều nữa cần được hiểu: khi không có kí ức tâm lí, kí ức sự kiện là rất chính xác - bởi vì kí ức tâm lí là rối loạn. Khi bạn rất bị náo động về tâm lí, làm sao bạn có thể nhớ được chính xác? Điều đó là không thể được! Bạn đang run rẩy, bạn đang rung lên, bạn đang trong một loại động đất - làm sao bạn có thể nhớ được đích xác? Bạn sẽ cường điệu lên; bạn sẽ thêm cái gì đó, bạn sẽ xoá đi cái gì đó, bạn sẽ làm ra cái gì đó mới từ nó. Bạn không thể tin cậy được.
Người không có kí ức tâm lí thì có thể tin cậy được. Đó là lí do tại sao máy tính lại tin cậy hơn con người, bởi vì chúng không có kí ức tâm lí. Chỉ sự kiện - sự kiện trần trụi, sự kiện trần. Khi bạn nói về sự kiện, thì thế nữa nó cũng không phải là sự kiện: nhiều hư cấu đã đi vào nó rồi. Bạn đã tạo khuôn nó, bạn đã thay đổi nó, bạn đã tô vẽ nó, bạn đã cho nó mầu sắc của riêng mình, nó không còn là sự kiện nữa! Chỉ vị Phật, một Như Lai, người chứng ngộ, mới biết sự kiện là gì; bạn chưa bao giờ bắt gặp sự kiện cả, bởi vì bạn mang biết bao nhiêu hư cấu trong tâm trí mình. Bất kì khi nào bạn tìm thấy một sự kiện, bạn lập tức áp hư cấu của mình vào nó. Bạn chưa bao giờ thấy cái đang đó, bạn cứ bóp méo thực tại.
Phật nói Như Lai, người đã thức tỉnh, bao giờ cũng đúng bởi vì ông ấy nói tương ứng với thực tại. Như Lai nói ra chân lí, không bao giờ nói khác đi. Như Lai là đồng nghĩa với như vậy. Dù nó là bất kì cái gì, Như Lai đơn giản phản xạ; đó là tấm gương. Đó là điều tôi ngụ ý - vứt bỏ kí ức tâm lí và bạn sẽ trở thành tấm gương.
Bạn đã hỏi, ' Thầy thường xuyên khẩn nài chúng tôi từ bỏ kí ức, để sống trong ở đây bây giờ...' Điều đó không có nghĩa rằng quá khứ của bạn không thể được nhớ lại. Quá khứ là một phần của hiện tại; bất kì cái gì bạn đã là trong quá khứ, đều là một phần của hiện tại của bạn, nó là ở đây. Đứa trẻ của bạn là trong bạn, thanh niên của bạn là trong bạn... tất cả mọi điều bạn đã làm đều ở bên trong bạn. Thức ăn mà bạn đã ăn - nó là quá khứ, nhưng nó đã trở thành máu bạn; nó tuần hoàn ở đây bây giờ, nó đã trở thành xương bạn, nó đã trở thành tuỷ bạn. Tình yêu mà bạn đã trải qua có thể là quá khứ nhưng nó đã biến đổi bạn. Nó đã cho bạn một tầm nhìn mới về cuộc sống, nó đã mở mắt bạn. Hôm qua bạn đã ở cùng tôi - nó là quá khứ, nhưng nó có thực là quá khứ toàn bộ không? Làm sao nó có thể là quá khứ toàn bộ được? Bạn đã bị thay đổi bởi nó; bạn đã được cho tia lửa mới, ngọn lửa mới - cái đó đã trở thành một phần của bạn.
Khoảnh khắc hiện tại của bạn chứa đựng toàn thể quá khứ của bạn. Và nếu bạn có thể hiểu được tôi, thì khoảnh khắc hiện tại của bạn cũng chứa toàn thể tương lai của bạn - bởi vì quá khứ như nó đã xảy ra đã làm thay đổi bạn, nó đã chuẩn bị bạn. Và tương lai đang sắp xảy ra sẽ xảy ra từ cách bạn sống trong hiện tại. Cách bạn sống ở đây bây giờ sẽ có tác động lớn lao lên tương lai của bạn.
Trong khoảnh khắc hiện tại tất cả quá khứ đều được hàm chứa, và trong khoảnh khắc hiện tại tất cả tương lai đều là tiềm năng - nhưng bạn cần không lo nghĩ tới nó về mặt tâm lí. Nó đã ở đó rồi! Bạn không cần mang nó về mặt tâm lí, bạn không cần bị nặng gánh bởi nó. Nếu bạn hiểu tôi, rằng nó đã được hàm chứa trong hiện tại rồi... cây không nghĩ về nước mà nó hút ngày hôm qua, nhưng nước vẫn có đấy! suy nghĩ hay không suy nghĩ. Và tia nắng mặt trời chiếu lên nó hôm qua - nó không nghĩ về chúng. Cây không ngu thế, không ngu như người.
Sao lại bận tâm tới tia nắng của hôm qua? Chúng đã được hấp thu, được tiêu hoá rồi; chúng đã trở thành một phần của mầu lục, mầu đỏ và thành vàng. Cây đang tận hưởng mặt trời buổi sáng này, không có kí ức tâm lí về hôm qua. Mặc dầu hôm qua được chứa đựng trong lá, trong hoa, trong cành, trong rễ, trong nhựa. Nó có đó! Và tương lai cũng đang tới; nụ mới, cái sẽ trở thành hoa ngày mai, có đó. Và những chiếc lá mới nhỏ bé sẽ trở thành tán lá ngày mai cũng có đó, đang trên đường.
Khoảnh khắc hiện tại chứa đựng hết thảy. Bây giờ là vĩnh hằng.
Cho nên tôi không nói quên quá khứ sự kiện; tôi đơn giản nói đừng bị xáo động bởi nó thêm nữa. Nó không nên là sự đầu tư tâm lí. Nó là sự kiện vật lí - cứ để nó như vậy. Và tôi không nói hãy trở nên không có khả năng nhớ nó - nó có thể được cần đấy! Khi nó được cần tới, nhu cầu là trong hiện tại, nhớ lấy, và bạn phải đáp ứng với nhu cầu này. Ai đó hỏi bạn số điện thoại của bạn - nhu cầu này là hiện tại bởi vì ai đó đang hỏi bây giờ, và bạn nói, 'Làm sao tôi có thể nói cho bạn số điện thoại của tôi được? bởi vì tôi đã vứt bỏ quá khứ của mình.' Thế thì bạn sẽ lâm vào rắc rối không cần thiết. Cuộc sống của bạn, thay vì trở nên tự do, thay vì trở thành niềm vui và lễ hội lớn lao, sẽ bị cản trở tại mọi bước; bạn sẽ thấy cả nghìn lẻ một vấn đề không cần thiết đang do chính bạn tạo ra.
Không có nhu cầu.
Cố hiểu tôi đi.
Và bạn nói, 'Nhưng trong khi từ bỏ kí ức tôi cũng phải từ bỏ cả tưởng tượng sáng tạo của mình...' Kí ức có liên quan gì tới tưởng tượng sáng tạo? Thực tế, bạn càng có nhiều kí ức bạn sẽ càng ít tính sáng tạo - bởi vì bạn sẽ cứ lặp lại kí ức, và tính sáng tạo có nghĩa là cho phép cái mới xảy ra. Cho phép cái mới xảy ra nghĩa là gạt sang bên kí ức để cho quá khứ không can thiệp vào.
Để cái mới thấm nhuần vào bạn. Để cái mới tới và làm xúc động trái tim bạn. Quá khứ sẽ được cần tới, nhưng không phải bây giờ; quá khứ sẽ được cần tới khi bạn bắt đầu diễn đạt kinh nghiệm mới này. Thế thì quá khứ sẽ được cần tới bởi vì ngôn ngữ sẽ được cần tới - ngôn ngữ tới từ quá khứ. Bạn không thể phát minh ra được ngôn ngữ ngay bây giờ - hay bạn phát minh nó, nó sẽ thành trò nói lảm nhảm; nó sẽ không có nghĩa gì cả. Và nó sẽ không phải là trao đổi, nó sẽ là chuyện nói líu lưỡi, nó sẽ là việc nói của đứa trẻ nít. Chẳng mấy tính sáng tạo sẽ bắt nguồn từ nó. Bạn sẽ nói điều vô nghĩa.
Nói ra ngôn ngữ có nghĩa là cần thiết; ngôn ngữ tới từ quá khứ. Nhưng ngôn ngữ chỉ nên tới khi kinh nghiệm đã xảy ra! Thế thì hãy dùng nó như công cụ. Nó không nên cản trở bạn.
Khi bạn thấy hoa hồng nở trong mặt trời buổi sang sớm, thấy nó thôi. Để nó có tác động, cho phép nó đi sâu vào trong bạn. Để cho mầu hồng của nó làm mê mẩn bạn, tràn ngập bạn. Đừng nói điều gì, đợi đấy. Kiên nhẫn, cởi mở. Hấp thu. Để hoa hồng đạt tới bạn, và bạn đạt tới hoa hồng. Để có gặp gỡ, giao cảm của hai sinh linh - hoa hồng và bạn. Để có xuyên thấu, xuyên thấu lẫn nhau.
Và nhớ: hoa hồng càng đi sâu hơn vào trong bạn, bạn càng có thể đi sâu hơn vào hoa hồng; nó bao giờ cũng cùng tỉ lệ. Một khoảnh khắc tới khi bạn không biết ai là hoa hồng và ai là khán giả. Một khoảnh khắc tới khi bạn trở thành hoa hồng và hoa hồng trở thành bạn, khi người quan sát là vật được quan sát, khi tất cả mọi nhị nguyên biến mất. Trong khoảnh khắc đó bạn sẽ biết thực tại, tính như vậy của hoa hồng. Thế rồi nắm lấy ngôn ngữ của bạn, nắm lấy nghệ thuật của bạn. Nếu bạn là hoạ sĩ, thế thì lấy chổi vẽ và mầu sắc và vải vẽ của bạn ra, và vẽ nó. Nếu bạn là nhà thơ, xô vào trong kí ức sự kiện của mình để tìm từ đúng sao cho bạn có thể diễn tả được kinh nghiệm này.
Nhưng trong khi kinh nghiệm đang xảy ra, đừng nói bên trong mình. Việc nói bên trong sẽ là can nhiễu. Bạn sẽ không bao giờ biết được hoa hồng trong sự mãnh liệt và chiều sâu của nó. Bạn sẽ chỉ biết vẻ bề ngoài, cái nông cạn. Và nếu bạn biết cái nông cạn, cái nông cạn sẽ là cách diễn đạt của bạn; nghệ thuật của bạn sẽ không mấy giá trị đâu.
Bạn nói, 'Nhưng trong khi từ bỏ kí ức tôi cũng phải từ bỏ cả tưởng tượng sáng tạo của mình...' Bạn không hiểu ý nghĩa của 'sáng tạo'. Sáng tạo nghĩa là cái mới, cái mới lạ, cái nguyên bản. Sáng tạo nghĩa là cái tươi tắn, cái không biết. Bạn phải cởi mở vì nó, mong manh vì nó.
Gạt kí ức sang bên. Tính hữu dụng của nó là về sau. Ngay bây giờ nó sẽ là can nhiễu.
Ngay bây giờ, chẳng hạn, bạn đang nghe tôi - gạt kí ức bạn sang bên. Khi bạn nghe tôi, bạn có lặp lại bên trong mình tất cả những toán học mà bạn biết không? Bạn có đếm các hình bên trong không? Bạn có lặp lại bài địa bạn biết không? Bạn có lặp lại bài sử bạn biết không? Gạt chúng sang bên đi. Làm cùng điều đó với ngôn ngữ nữa, như bạn làm với sử và toán và địa. Làm cùng điều đó với ngôn ngữ - làm cùng điều đó với kí ức của bạn, gạt nó sang bên! Nó sẽ được cần tới - nhưng khi nó được cần tới, chỉ thế thì dùng nó. Gạt toàn thể tâm trí sang bên!
Bạn không phá huỷ tâm trí đâu, bạn đơn giản cho nó nghỉ thôi. Nó không được cần tới, bạn có thể cho nó ngày nghỉ. Bạn có thể nói với tâm trí, 'Nghỉ một giờ đi và để tôi nghe. Và khi tôi đã nghe, khi tôi đã hấp thu rồi, khi tôi đã ăn và uống rồi thì tôi sẽ gọi lại bạn, thế thì giúp đỡ của bạn sẽ được cần tới - ngôn ngữ của bạn, tri thức của bạn, thông tin của bạn sẽ được cần tới. Thế rồi tôi sẽ vẽ bức tranh hay viết bài thơ, hay viết sách, nhưng ngay bây giờ bạn có thể nghỉ.' Và tâm trí sẽ tươi mới hơn sau khi nghỉ. Bạn không cho phép tâm trí nghỉ; đó là lí do tại sao tâm trí bạn vẫn còn xoàng xĩnh.
Nghĩ về người muốn tham gia cuộc đua Olympic và người đó liên tục chạy, hai mươi bốn tiếng một ngày, chuẩn bị cho cuộc đua Olympic. Vào lúc cuộc đua xảy ra người đó sẽ không thể nào chuyển động được, người đó sẽ mệt đến chết. Trước cuộc đua bạn sẽ phải nghỉ, bạn sẽ phải lấy việc nghỉ sâu nhất có thể được để cho thân thể được khoẻ lại.
Đích xác cùng điều này phải được thực hiện với tâm trí. Tưởng tượng sáng tạo chẳng liên quan gì tới kí ức cả - chỉ thế thì nó mới là tính sáng tạo. Nếu bạn hiểu tôi, và bạn vứt bỏ kí ức tâm lí, bạn sẽ trở nên có tính sáng tạo. Bằng không, điều bạn gọi là sáng tạo, không thực là sáng tạo đâu - nó chỉ là soạn ra. Có khác biệt lớn lao giữa sáng tạo và soạn ra. Bạn cứ soạn các thứ đã biết cũ của mình theo những cách khác nhau, nhưng chúng là cũ; chẳng cái gì mới ở đó cả. Bạn đơn giản xoay xở để thay đổi cấu trúc.
Điều đó cũng giống như xếp dọn phòng khách của bạn - đồ đạc vẫn là cái cũ, tranh ảnh trên tường vẫn là cái cũ, bức rèm vẫn là cái cũ, nhưng bạn có thể xếp đặt lại chúng. Bạn có thể đặt ghế ở kia và bàn ở đây, và bạn có thể thay đổi bức tranh từ tường này sang tường khác. Nó có thể trông mới đấy, nhưng nó lại không mới. Nó là việc soạn ra; bạn đã không tạo ra cái gì cả. Đó là điều chín mươi chín phần trăm các tác giả, nhà thơ, hoạ sĩ, cứ làm mãi. Họ xoàng xĩnh; họ không sáng tạo.
Người sáng tạo là người đem cái gì đó từ cái không biết vào thế giới của cái đã biết, người đem cái gì đó từ Thượng đế vào thế giới, người giúp Thượng đế thốt ra điều gì đó - người trở thành cây tre hổng và cho phép Thượng đế thổi qua mình. Làm sao bạn có thể trở thành cây tre hổng được? Nếu bạn quá đầy tâm trí bạn không thể trở thành cây tre hổng được. Và tính sáng tạo là từ người sáng tạo, tính sáng tạo không phải là của bạn hay từ bạn. Bạn biến mất, thế thì tính sáng tạo hiện hữu - khi đó người sáng tạo chiếm lĩnh bạn.
Người sáng tạo thực biết hoàn toàn rõ, rằng họ không phải là người sáng tạo - họ chỉ là công cụ, chỉ là trung gian. Cái gì đó xảy ra qua họ, đúng, nhưng họ không là người làm ra điều đó.
Nhớ khác biệt giữa nhà kĩ thuật và người sáng tạo. Nhà kĩ thuật chỉ biết cách làm một việc. Có thể người đó biết hoàn hảo cách làm một việc, nhưng người đó không có sáng suốt. Người sáng tạo là người có sáng suốt, người có thể thấy mọi điều mà không ai đã từng thấy trước đây - người có thể thấy những điều mà không con mắt nào đã từng có khả năng thấy - người nghe thấy những điều mà không ai đã từng nghe thấy trước đây. Thế thì có sáng tạo.
Hãy xem... Phát biểu của Jesus là sáng tạo - không ai đã nói giống như thế trước đây. Ông ấy không phải là người có giáo dục. Ông ấy không biết gì về kĩ năng nói, ông ấy không biết gì về tài hùng biện - nhưng ông ấy lại là người hùng biện xưa nay hiếm, rất ít người đã từng như vậy. Bí mật của ông ấy là gì? Ông ấy có sáng suốt. Ông ấy đã nhìn vào Thượng đế, ông ấy đã nhìn vào cái không biết. Ông ấy đã gặp cái không biết và cái không thể biết. Ông ấy đã từng ở trong không gian đó và từ không gian đó ông ấy đem tới hương thơm mới. Chỉ hương thơm mới có thể được mang đi, nhưng khi bạn đem hương thơm nào đó từ cái không thể biết, bạn biến đổi toàn bộ phẩm chất của tâm thức con người trên trái đất.
Ông ấy có tính sáng tạo. Tôi sẽ gọi ông ấy là nghệ sĩ. Hay Phật, Krishna, hay Lão Tử - đây là những nghệ sĩ thực thụ! Họ làm cho điều không thể được xảy ra. Điều không thể được là sự gặp gỡ của cái đã biết với cái không biết, sự gặp gỡ của tâm trí với vô trí - đó là điều không thể được. Họ làm cho điều đó xảy ra.
Bạn nói, 'Nhưng trong khi từ bỏ kí ức tôi cũng phải từ bỏ cả tưởng tượng sáng tạo của mình...' Không. Điều đó chẳng liên quan gì tới tưởng tượng sáng tạo cả. Thực tế, nếu bạn gạt kí ức của mình sang bên, bạn sẽ có tưởng tượng sáng tạo. Bạn không thể có tưởng tượng sáng tạo nếu bạn bị quá nặng gánh với kí ức.
Bạn nói, '...vì tôi là nhà văn và mọi điều tôi viết ra đều có gốc rễ trong điều tôi ghi nhớ.' Thế thì bạn chẳng phải là nhà văn gì mấy đâu. Thế thì bạn cứ viết về quá khứ, thế thì bạn cứ viết về luận văn. Bạn không đem tương lai vào, bạn cứ viết các biên bản. Bạn là người giữ hồ sơ! Bạn có thể trở thành nhà văn, nhưng thế rồi bạn sẽ phải tạo ra tiếp xúc với cái không biết - không phải là cái bạn nhớ. Cái được ghi nhớ đã chết rồi. Bạn sẽ phải tạo ra tiếp xúc với cái đang hiện hữu, không phải là cái bạn ghi nhớ. Bạn sẽ phải tạo ra tiếp xúc với cái như vậy vẫn đang bao quanh bạn. Bạn sẽ phải đi sâu vào trong hiện tại để cho cái gì đó của quá khứ cũng có thể được mắc vào trong lưới của bạn.
Tính sáng tạo thực sự không phải bắt nguồn từ hồi tưởng mà từ tâm thức. Bạn sẽ phải trở nên ý thức hơn. Bạn càng ý thức, bạn càng có cái lưới lớn hơn, và tất nhiên sẽ bắt được nhiều cá hơn.
Bạn nói, 'Tôi tự hỏi - thế giới sẽ ra sao nếu không có nghệ thuật và tưởng tượng sáng tạo, điều làm cho nghệ thuật thành có thể?' Chín mươi chín phần trăm nghệ thuật không phải là nghệ thuật chút nào, nó là rác rưởi. Hiếm khi có một công trình nghệ thuật, rất hiếm. Những người khác chỉ là kẻ bắt chước, nhà kĩ thuật - người có kĩ năng, người tinh ranh, nhưng không phải là nghệ sĩ. Và chín mươi chín phần trăm nghệ thuật biến mất khỏi trái đất sẽ là phúc lành - bởi vì nó giống như việc mửa ra hơn là bất kì cái gì sáng tạo.
Bây giờ có cái gì đó rất có nghĩa quanh đây - trị liệu nghệ thuật. Nó là có nghĩa, nó đạt tới vấn đề. Khi mọi người ốm, ốm tinh thần, nghệ thuật có thể có ích. Một người ốm tinh thần có thể được đưa cho vải vẽ và mầu vẽ và chổi vẽ và được bảo hãy vẽ bất kì cái gì người đó muốn vẽ. Tất nhiên bất kì điều gì người đó vẽ cũng sẽ điên, mang tính điên. Nhưng sau khi vẽ vài thứ điên khùng, bạn sẽ ngạc nhiên rằng người đó đang trở lại lành mạnh. Việc vẽ đó đã giống như việc thanh tâm; nó là việc nôn mửa ra. Hệ thống của người đó đã tống nó ra. Điều đó đã giúp ích cho người đó, điều đó là tốt cho người đó, nhưng nó không tốt cho người khác.
Nhìn Michelangelo và bạn có thể thiền hàng giờ. Và bạn càng thiền nhiều thì bạn sẽ càng trở nên im lặng và an bình hơn. Đó không phải là nôn mửa. Ông ấy đã đem tới cái gì đó từ cái không biết. Nó không phải là điên loạn của ông ấy mà ông ấy đã tống ra ngoài hệ thống của mình qua việc vẽ hay qua điêu khắc hay qua thơ ca hay qua âm nhạc. Không phải ông ấy bị ốm và ông ấy muốn gạt bỏ cái ốm bệnh của mình, không. Chính là điều đối lập lại: ông ấy mang thai, không ốm yếu. Ông ấy mang thai - mang thai với Thượng đế. Cái gì đó đã bắt rễ vào trong bản thể ông ấy và ông ấy muốn chia sẻ nó. Đó là việc đơm hoa kết trái, sự hoàn thành. Ông ấy đã sống theo cách sáng tạo, ông ấy đã yêu cuộc sống theo cách sáng tạo. Ông ấy đã cho phép cuộc sống đi vào trong bệ thờ sâu nhất của mình, và ở đó ông ấy đã trở nên mang thai với cuộc sống, hay mang thai với Thượng đế. Và khi bạn mang thai bạn phải cho sinh thành.
Michelangelo cho sinh thành. Phật cho sinh thành. Beethoven cho sinh thành, cái gì đó có giá trị mênh mông đã choàng xuống qua ông ấy. Lắng nghe nhạc của ông ấy bạn sẽ được biến đổi, bạn sẽ được đưa sang thế giới khác. Ông ấy sẽ cho bạn vài thoáng nhìn về bờ bên kia.
Chín mươi chín phần trăm nghệ thuật hiện đại là bệnh hoạn. Nếu nó biến mất khỏi thế giới này thì điều đó sẽ là rất lành mạnh, điều đó sẽ có ích. Điều đó sẽ không hại gì. Tâm trí hiện đại là tâm trí giận dữ - giận bởi vì bạn không thể tiếp xúc được với bản thể mình, giận vì bạn đã đánh mất mọi ý nghĩa, giận vì bạn không biết ý nghĩa là gì.
Một trong những cuốn sách nổi tiếng của Jean Paul Sartre là Sự kinh tởm. Đó là trạng thái của tâm trí hiện đại; tâm trí hiện đại đang bị nôn mửa, trong sự hành hạ lớn lao. Và hành hạ là sáng tạo riêng của nó.
Friedrich Nietzsche đã tuyên bố Thượng đế chết rồi. Ngày ông ấy tuyên bố Thượng đế chết, ông ấy bắt đầu trở thành mất trí - bởi việc tuyên bố của bạn rằng Thượng đế chết... Thượng đế không thể chết chỉ bởi tuyên bố của bạn. Tuyên bố của bạn chẳng làm ra khác biệt nào. Nhưng khoảnh khắc Nietzsche bắt đầu tin vào điều này, rằng Thượng đế chết, ông ấy bắt đầu chết, ông ấy bắt đầu mất đi sự lành mạnh của mình. Một thế giới mà không có Thượng đế thì nhất định là một thế giới mất trí - bởi vì một thế giới không Thượng đế sẽ không có hoàn cảnh nào để trở thành có ý nghĩa.
Quan sát mà xem... Bạn đọc thơ; những lời trong thơ chỉ có ý nghĩa trong ngữ cảnh của bài thơ này. Nếu bạn lấy từ ra khỏi ngữ cảnh, nó không có nghĩa. Nó hay thế trong ngữ cảnh đó! Bạn cắt ra một mẩu từ bức tranh - và nó không có nghĩa nào, bởi vì nó đã mất gốc rễ của nó trong ngữ cảnh. Trong bức tranh nó đẹp thế; nó hoàn thành mục đích nào đó, nó có nghĩa nào đó. Bây giờ nó không có nghĩa.
Bạn có thể lấy đi một con mắt của tôi ra khỏi hốc mắt, và nó sẽ là con mắt chết, và sẽ không có nghĩa gì trong nó cả. Ngay bây giờ nếu bạn nhìn vào mắt tôi, có ý nghĩa lớn lao - bởi vì chúng tồn tại trong toàn bộ ngữ cảnh của tôi; chúng là một phần của bài thơ, chúng là một phần của bức tranh lớn hơn. Nghĩa bao giờ cũng tham chiếu tới cái gì đó lớn hơn bạn.
Ngày Nietzsche tuyên bố không có Thượng đế và Thượng đế chết rồi, ông ấy trượt ra ngoài ngữ cảnh. Không có Thượng đế con người không thể có ý nghĩa nào, bởi vì con người là thế giới nhỏ trong thiên sử thi vĩ đại của Thượng đế, con người là nốt nhạc nhỏ trong dàn nhạc vĩ đại của Thượng đế. Nốt nhạc nhỏ đó sẽ đơn điệu; nó sẽ làm chói tai, nó sẽ làm phát điên.
Đó là điều đã xảy ra cho Nietzsche. Ông ấy đã tin tưởng thực vào phát biểu của riêng mình. Ông ấy là người tin tưởng - người tin tưởng vào bản thân mình. Ông ấy tin rằng Thượng đế chết rồi và con người được tự do - nhưng ông ấy đơn giản trở thành điên, không tự do. Và thế kỉ này đã đi theo Friedrich Nietzsche theo cả nghìn lẻ một cách, và toàn thể thế kỉ này đã phát điên. Chưa bao giờ có thế kỉ nào khác trong lịch sử thế giới lại điên như thế kỉ này. Các nhà lịch sử tương lai sẽ viết về nó như thời đại của điên loạn. Nó điên loạn - điên bởi vì nó đã đánh mất ngữ cảnh.
Tại sao bạn lại sống? Để làm gì? Bạn nhún vai. Điều đó chẳng giúp gì nhiều. Bạn có vẻ ngẫu nhiên. Nếu như bạn không có đó, sẽ chẳng có gì khác cả. Nếu bạn có đó, đâu có gì khác biệt. Bạn chẳng tạo ra khác biệt gì! Bạn là không cần thiết. Bạn chẳng hoàn thành cái gì ở đây cả. Hiện hữu hay không hiện hữu của bạn tất cả đều như nhau thôi. Làm sao bạn có thể cảm thấy hạnh phúc được, và làm sao bạn có thể vẫn còn lành mạnh được? Ngẫu nhiên sao? chỉ ngẫu nhiên thôi à? Thế thì bất kì cái gì cũng đúng, thế thì giết người cũng đúng! Bởi vì nếu mọi thứ đều ngẫu nhiên thì điều bạn làm phỏng có thành vấn đề gì? Không hành động nào mang giá trị nào - thế thì tự tử là tốt, thế thì giết người là tốt, thế thì mọi thứ đều tốt cả!
Nhưng mọi thứ lại không tốt - bởi vì có vài điều cho bạn vui và vài điều làm cho bạn khổ, vài điều tạo ra cực lạc và vài điều chỉ tạo ra phiền não, vài điều chỉ tạo ra địa ngục và vài điều đưa bạn tới thế giới của cõi trời. Không, tất cả mọi thứ đều không như nhau. Nhưng một khi Thượng đế bị coi là đã chết, một khi bạn mất tiếp xúc với cái toàn bộ - và Thượng đế thì không là gì ngoài tính toàn bộ... Sóng là gì khi nó đã quên mất về đại dương? Thế thì nó không là gì cả. Nó là con sóng triều vĩ đại khi nó là một phần của đại dương.
Nhớ lấy: nghệ thuật thực sự nảy sinh ra từ tính tôn giáo thực, bởi vì tính tôn giáo đang tìm ra đồng cảm với thực tại. Một khi bạn đang trong đồng cảm với thực tại, thế thì nghệ thuật thực nảy sinh.
Bạn nói, 'Tôi tự hỏi - thế giới sẽ ra sao nếu không có nghệ thuật và tưởng tượng sáng tạo, điều làm cho nghệ thuật thành có thể?'
Nếu chín mươi phần trăm cái gọi là nghệ thuật biến mất, thế giới sẽ giàu có hơn nhiều - bởi vì thế thì sẽ có nghệ thuật thực. Nếu những kẻ giả điên này ra đi... và tôi không nói rằng họ không nên vẽ - họ nên vẽ, nhưng như việc trị liệu thôi. Đó là việc trị liệu. Picasso cần trị liệu; ông ấy nên vẽ, nhưng những bức vẽ đó không nên đem trưng bày - hay nếu chúng có đem ra trưng bày, thì chỉ trong nhà thương điên. Chúng có thể giúp cho vài người điên có sự giảm nhẹ; chúng là việc thanh tâm.
Nghệ thuật thực ngụ ý cái gì đó giúp cho bạn mang tính thiền. Gurdjieff hay gọi nghệ thuật thực là nghệ thuật mục tiêu - điều đó giúp cho bạn thiền. Taj Mahal là nghệ thuật thực. Bạn đã tới Taj Mahal chưa? Đó là chỗ đáng đi. Vào đêm trăng tròn, chỉ ngồi đó và nhìn vào kiệt tác tuyệt vời đó bạn sẽ được rót đầy với cái không biết. Bạn sẽ bắt đầu cảm thấy cái gì đó từ cõi bên kia.
Tôi muốn kể cho bạn câu chuyện về làm sao Taj Mahal lại đi vào sự tồn tại.
Một người tới từ Shiraz, Iran. Ông ấy có tên là Shirazi bởi vì ông ấy đã tới từ Shiraz. Ông ấy là nghệ sĩ lớn, nổi tiếng nhất từ Shiraz. Và ông ấy là con người kì diệu; cả nghìn lẻ một câu chuyện đã truyền tới trước khi ông ấy tới Ấn Độ. Shah Jehan là hoàng đế; ông ấy biết về những câu chuyện này. Ông ấy đã mời nhà điêu khắc này tới triều đình. Và Shirazi là nhà huyền môn, nhà huyền môn Sufi.
Shah Jehan hỏi ông ấy, 'Ta đã nghe nói rằng ông có thể tạc tượng toàn bộ thân thể đàn ông hay đàn bà chỉ bằng việc chạm vào tay người đó và không nhìn vào mặt người đó chút nào. Điều đó đúng không?'
Shirazi nói, 'Cho tôi một cơ hội đi - nhưng với một điều kiện. Đưa hai mươi nhăm phụ nữ đẹp trong cung điện của bệ hạ ra sau bức màn, sau tấm rèm. Để tay của họ đơn giản sẵn có đấy cho tôi ở ngoài bức màn. Tôi sẽ chạm vào tay họ và tôi sẽ chọn ra một người - nhưng với một điều kiện. Bất kì ai được chọn ra tôi sẽ làm ra một hình ảnh: nếu hình ảnh này trở thành tuyệt đối đúng và bệ hạ thoả mãn, toàn thể triều đình bệ hạ thoả mãn, thì người đàn bà đó sẽ là người đàn bà của tôi, tôi muốn lấy cô ấy, tôi muốn một người đàn bà trong cung điện bệ hạ.'
Shah Jehan đã sẵn sàng. Ông ấy nói, 'Điều đó là hoàn toàn được.'
Hai mươi nhăm cô gái nô lệ, những cô gái nô lệ đẹp, được đặt ở đằng sau tấm rèm. Ông ấy đi từ người thứ nhất tới người thứ hai tới người thứ hai mươi nhăm, bác bỏ tất cả. Chỉ đùa thôi, con gái của Shah Jehan, chỉ để đùa nghịch, cũng đứng đằng sau tấm màn - khi hai mươi nhăm người đã bị bác bỏ, cô ấy thò tay mình ra. Ông ấy chạm vào tay cô ta, nhắm mắt lại, cảm thấy cái gì đó, và nói, 'Đây là bàn tay của tôi.' Và ông ấy đeo cái vòng vào tay cô con gái để biểu lộ rằng 'Nếu tôi thành công, thế thì cô ấy sẽ là vợ tôi.'
Hoàng đế đi tới sau tấm màn và ông ta khiếp hãi: 'Con bé này đã làm gì thế?' Nhưng ông ấy cũng không lo nghĩ mấy bởi vì gần như không thể nào làm được ra bức tượng về toàn thể người phụ nữ chỉ bởi việc chạm vào tay cô ấy.
Trong ba tháng, Shirazi biến mất trong một căn phòng; ông ấy làm việc ngày đêm. Và sau ba tháng ông ấy mời hoàng đế và cả triều đình tới - và hoàng đế không thể nào tin được vào mắt mình. Nó đích xác hệt như người thật! Ông này quả có khả năng. Hoàng đế không thể nào tìm ra lỗi nào - ông ấy muốn tìm ra một lỗi, bởi vì ông ấy không sẵn lòng cho con gái mình lấy một người nghèo, nhưng bây giờ không còn cách nào. Ông ấy đã trót nói lời của mình rồi.
Ông ấy bối rối thế, và vợ ông ấy cũng bối rối tới mức bà vợ ngã bệnh. Bà ấy đang mang thai, và trong khi sinh con, bà ấy chết - do phiền não. Tên bà ấy là Mumtaj Mahal.
Và nhà vua trở nên thất vọng thế - làm sao cứu được con gái mình? Ông ấy mời nhà điêu khắc tới và ông ấy kể cho nhà điêu khắc toàn thể câu chuyện, 'Đó đã là một sai lầm. Và đứa con gái này chịu trách nhiệm, nhưng xem tình huống của ta đi: vợ ta đã chết và lí do là ở chỗ bà ấy không thể đồng ý được với ý tưởng con gái mình sẽ đi với một người nghèo. Mà ta cũng không thể đồng ý được - mặc dầu ta đã nói ra lời hứa của mình.'
Nhà điêu khắc, nhà nghệ sĩ này nói, 'Không cần phải lo nghĩ thế. Bệ hạ đáng phải nói với tôi, tôi sẽ trở về. Không cần lo nghĩ. Tôi sẽ không yêu cầu đâu; tôi sẽ quay lại Shiraz. Quên điều đó đi!'
Nhưng nhà vua nói, 'Điều đó là không thể được; ta không thể quên được. Ta đã nói lời hứa của mình, lời của ta. Ông hãy đợi. Để ta nghĩ đã.'
Tể tướng đề xuất, 'Bệ hạ làm điều này: hoàng hậu đã chết và đây là nghệ sĩ lớn và ông ấy đã tự chứng tỏ mình - bảo ông ấy làm một mô hình để kỉ niệm hoàng hậu. Ông ấy tạo ra một nấm mồ đẹp, đẹp nhất trên thế giới. Và ra điều kiện là nếu bệ hạ chấp nhận mô hình của ông ấy, thế thì bệ hạ sẽ phải gả con gái cho ông ấy. Nếu bệ hạ không chấp nhận, câu chuyện kết thúc.'
Vấn đề này được nói lại với nhà nghệ sĩ và ông ấy sẵn lòng; ông ấy nói, 'Hoàn toàn tốt.'
'Bây giờ,' nhà vua nghĩ, 'mình sẽ không bao giờ chấp thuận.'
Và Shirazi đã làm nhiều mô hình, và chúng đẹp thế, nhưng dầu vậy nhà vua vẫn cứ nhất quyết và ông ấy nói, 'Không, không, không.'
Tể tướng trở nên thất vọng, bởi vì những mô hình đó là hiếm hoi. Từng mô hình đều hiếm hoi, và nói không với nó là không công bằng. Ông ấy cho lan truyền tin đồn khắp nơi, đặc biệt cho nhà điêu khắc, 'Cô gái mà ông đã chọn, con gái của vua, đang ốm.' Trong một tuần cô ấy đã ốm, thế rồi tuần tiếp cô ấy trở nên rất ốm, và tuần thứ ba cô ấy chết - đấy là tin đồn.
Khi tin đồn lan tới nhà điêu khắc rằng cô gái đã chết, ông ấy làm ra mô hình cuối cùng. Cô gái đã chết, trái tim ông ấy tan vỡ. Và đây là sẽ là mô hình cuối cùng. Ông ấy đem nó tới cho nhà vua và nhà vua đã chấp nhận nó. Mưu mẹo là cô gái đã chết cho nên không có vấn đề cưới xin.
Mô hình đó trở thành Taj Mahal. Mô hình đó đã được nhà huyền môn Sufi tạo ra. Làm sao ông ấy có thể tạo ra hình ảnh của người đàn bà chỉ bằng việc chạm vào tay cô ấy một lần? Ông ấy phải đã trong loại không gian khác. Ông ấy phải đã trong khoảnh không có tâm trí. Khoảnh khắc đó phải đã là khoảnh khắc của thiền lớn lao. Trong khoảnh khắc đó ông ấy đã chạm tới năng lượng, và chỉ bằng việc cảm thấy năng lượng này ông ấy đã tạo ra toàn thể hình dáng.
Bây giờ điều này có thể được hiểu logic hơn nhiều bởi vì có kĩ thuật chụp ảnh Kirlian, bởi vì từng năng lượng đều có hình mẫu riêng của nó. Khuôn mặt bạn không phải là ngẫu nhiên; khuôn mặt bạn có đó bởi vì bạn có một hình mẫu năng lượng đặc biệt. Mắt bạn, tóc bạn, mầu da bạn, tất cả đều có đó bởi vì bạn có hình mẫu năng lượng đặc biệt.
Thiền nhân đã làm việc trên các hình mẫu năng lượng qua nhiều thời đại. Một khi bạn biết hình mẫu năng lượng này, bạn biết toàn thể tính cá nhân. Bạn biết những chi tiết, tất cả - bởi vì chính hình mẫu năng lượng tạo ra mọi thứ. Bạn biết quá khứ, bạn biết hiện tại, bạn biết tương lai. Một khi hình mẫu năng lượng này đã được hiểu, thì có chìa khoá, hạt nhân, của tất cả mọi cái đã xảy ra cho bạn và mọi cái đang sắp xảy ra.
Đây là nghệ thuật mục tiêu. Người này đã tạo ra Taj Mahal.
Vào đêm trăng tròn, thiền trên Taj Mahal, trái tim bạn sẽ thổn thức với tình yêu mới. Taj Mahal mang năng lượng của tĩnh lặng tình yêu. Mumtaj Mahal đã chết bởi vì tình yêu của bà ấy với con gái; Shah Jehan đau khổ bởi vì tình yêu; và Shirazi này đã tạo ra mô hình này bởi vì ông ấy đau khổ sâu sắc, ông ấy đã bị thương nặng, bởi vì tương lai của ông ấy đen tối. Người đàn bà ông ấy đã chọn không còn nữa. Từ tình yêu lớn lao và tính thiền, Taj Mahal đã đi vào sự tồn tại. Nó vẫn còn mang rung động. Nó không phải là đài kỉ niệm bình thường, nó là đặc biệt. Các kim tự tháp ở Ai Cập cũng vậy, và có nhiều, nhiều thứ trên thế giới đã được tạo ra như nghệ thuật mục tiêu - được tạo ra bởi những người biết điều họ đang làm, được tạo ra bởi các thiền nhân lớn. Upanishad cũng như vậy, các kinh Phật cũng như vậy, các phát biểu của Jesus cũng như vậy.
Nhớ lấy, với tôi, tính sáng tạo nghĩa là tính thiền, tính sáng tạo nghĩa là trạng thái của vô trí - thế thì Thượng đế giáng xuống bạn, thế thì tình yêu tuôn chảy ra từ bạn. Thế thì cái gì đó xảy ra từ sự hiện diện tốt lành của bạn, tràn ngập sự hiện diện tốt lành. Đó là phúc lành. Bằng không nó là nôn mửa.
Bạn có thể vẽ, bạn có thể viết như cách trị liệu, nhưng đốt bức vẽ của bạn đi và bài thơ của bạn đi. Bạn không cần trưng bày thứ nôn mửa của bạn cho mọi người. Và những người trở nên quan tâm tới bãi mửa của bạn, bản thân họ cũng phải ốm yếu; họ cũng cần trị liệu - bởi vì nếu bạn trở nên quan tâm vào cái gì đó, bạn đang bầy tỏ bạn là ai, bạn ở đâu.
Tôi hoàn toàn ủng hộ cho nghệ thuật mục tiêu, tôi hoàn toàn ủng hộ cho nghệ thuật mang tính thiền, tôi hoàn toàn ủng hộ cho cái gì đó từ Thượng đế giáng xuống. Bạn trở thành phương tiện.
Và bạn nói, 'Một Tolstoy không bao giờ có thể trở thành vị phật.' Ai đã bảo bạn điều này? Một Tolstoy có thể trở thành vị Phật chứ, sẽ trở thành vị Phật sớm hoặc muộn.
Và bạn nói, 'Nhưng thế thì vị Phật có thể viết Chiến tranh và Hoà bình không'? Và vị Phật đang làm gì? Tôi đang làm gì ở đây? Bạn đã bao giờ đọc Gita của Krishna chưa? - nó là Chiến tranh và Hoà bình đấy! Tolstoy có thể viết Chiến tranh và Hoà bình, Anna Karenina và nhiều sách hay khác, không phải bởi vì ông ấy là Tolstoy mà bất chấp việc là một Tolstoy. Dostoyevsky đã viết Thằng Ngốc, Tội ác và Trừng phạt, và, một trong những cuốn sách hay nhất, Anh em nhà Karamazov - không phải bởi vì ông ấy là Dostoyevsky mà vì bất chấp việc là điều đó. Cái gì đó của ông ấy là cái của vị Phật; cái gì đó của ông ấy mang tính tôn giáo mênh mông. Dostoyevsky là người tôn giáo - không toàn bộ, nhưng một phần, một mảnh của ông ấy, mang tính tôn giáo mênh mông. Đó là lí do tại sao Anh em nhà Karamazov lại có chất hay như vậy trong nó. Điều đó không phải bắt nguồn từ người bình thường đâu; điều gì đó đã tới từ điều thiêng liêng đấy. Dostoyevsky đã từng bị Thượng đế chiếm hữu, ông ấy đã trở thành phương tiện. Tất nhiên, ông ấy không phải là phương tiện hoàn chỉnh, biết bao nhiêu điều diễn ra từ tâm trí ông ấy. Dầu vậy, Anh em nhà Karamazov vẫn hay. Nếu như không có Dostoyevsky, không kí ức, không bản ngã, không bệnh hoạn, thế thì Anh em nhà Karamazov đã là một kinh Tân Ước mới; nó đã là cùng kiểu như các phát biểu của Jesus hay như Kinh Kim Cương hay Upanishad. Ông ấy có phẩm chất này!
Mục lục chính
Mục lục chính
Nhận xét
Đăng nhận xét