Chương 7. Sống Pháp
Chương 7. Sống Pháp
Phật nói:
Người làm điều hại, người lên án người trí huệ rất giống người khạc nhổ lên trời. Nước bọt sẽ không bao giờ lên trời mà rơi lại vào bản thân người đó.
Người làm điều hại giống như người khuấy bụi ngược chiều gió. Bụi không bao giờ bay lên mà không làm người đó bị tổn thương. Do vậy người trí huệ sẽ không bao giờ bị tổn thương nhưng lời chửi rủa thì nhất định phá huỷ bản thân người làm điều hại.
Phật nói:
Nếu ông cố gắng nắm lấy đạo qua nhiều học hỏi, ông sẽ không hiểu đạo. Nếu ông quan sát đạo bằng sự đơn giản của trái tim thì thực sự đây là đạo.
Phật nói:
Những người hân hoan trong việc thấy người khác đi theo đạo sẽ được phúc lạc lớn lao.
Một dự lưu (shramana) hỏi Phật: Phúc lạc này có bao giờ bị phá huỷ đi không?'
Phật nói:
Điều đó cũng giống như một ngọn đuốc thắp sáng và lửa của nó được san sẻ sang nhiều ngọn đuốc khác mà mọi người có thể đem đi. Và với lửa đó họ sẽ nấu thức ăn và xua tan bóng tối, trong khi ngọn đuốc ban đầu bản thân nó vẫn còn cháy mãi như cũ. Điều đó thậm chí vẫn như vậy với phúc lạc của đạo.
Lời kinh thứ nhất.
Phật nói:
Người làm điều hại, người lên án người trí huệ rất giống người khạc nhổ lên trời. Nước bọt sẽ không bao giờ lên trời mà rơi lại vào bản thân người đó.
Điều thứ nhất cần được hiểu là tại sao trong người ác chính ham muốn lại nảy sinh để khạc nhổ lên trời, tại sao ngay chỗ đầu tiên người ác lại muốn kết án người trí huệ. Người ác không thể cho phép bản thân mình chấp nhận rằng ai đó là trí thuệ - chính ý tưởng này làm tổn thương người đó, tổn thương người đó rất sâu. Bởi vì tất cả mọi cái ác đều nảy sinh từ thái độ bản ngã. Và điều này làm tan nát bản ngã - 'Mình không trí huệ và ai đó khác lại trí huệ. Mình không tốt còn ai đó khác lại tốt. Mình vẫn trong bóng tối còn ai đó đã đạt tới ánh sáng.' Điều này là không thể chấp nhận được.
Hai cách thức mở ra: một là 'Mình phải cố gắng trở nên trí huệ' - điều đó là rất khó và gian nan. Cách đơn giản hơn và rẻ hơn là kết án người trí huệ, rằng người đó là không trí huệ. Bất kì khi nào bạn phải đối diện với thách thức thì bao giờ cũng có hai phương án trình ra trước bạn, và nếu bạn chọn cách rẻ hơn thì bạn sẽ vẫn còn trong cái ác.
Đừng bao giờ đi tìm cái rẻ, đừng bao giờ đi tìm lối tắt, bởi vì cuộc sống được học chỉ qua con đường gian nan. Vất vả là con đường của nó, đường dài, nhiệm vụ lên dốc, bởi vì việc học không thể tới một cách dễ dàng - bởi vì việc học không chỉ là việc thu thập tri thức, nó không chỉ là việc thu thập thông tin. Việc học phải thay đổi bạn. Nó là cuộc giải phẫu tâm linh, nhiều điều phải bị phá huỷ và vứt đi.
Nhiều thứ bị mục nát bên trong bạn và phải bị bỏ đi. Nhiều thứ giống như đá treo quanh cổ bạn; nó sẽ không cho phép bạn nổi lên, nó sẽ nhấn bạn chìm xuống. Bạn phải cắt đứt các quan hệ với nhiều thứ, với nhiều thái độ, với nhiều định kiến. Bạn phải làm nhẹ bớt bản thân mình.
Việc học, việc học thực, chỉ tới khi bạn được biến đổi. Nó không phải là quá trình phụ thêm vào - bạn không thể chỉ có thêm vào, cứ thêm mãi tri thức vào mình. Bạn sẽ phải trải qua chuyển hoá - điều đó là gian nan. Cách dễ hơn là lên án. Bất kì khi nào bạn đối diện với thách thức - ai đó đã trở nên trí huệ - ngay lập tức lối tắt là nói, 'Không, điều đó là không thể được. Ngay điều đầu tiên trí huệ không bao giờ tồn tại, điều thứ hai, cho dù trí huệ tồn tại, nó không thể tồn tại trong con người này được. Tôi biết anh ta rõ lắm, tôi biết khuyết điểm của anh ta.' Và thế rồi bạn bắt đầu khuếch đại khuyết điểm của anh ta, và bạn bắt đầu kết án anh ta.
Không phải ngẫu nhiên mà Socrates bị đầu độc, Jesus bị đóng đinh, Mansoor bị sát hại. Không phải ngẫu nhiên mà tất cả chư phật đều bị kết án, tất cả người Jaina bị kết án. Khi họ bước đi trên đất họ liên tục bước đi trong nguy hiểm, bởi vì có nhiều người cảm thấy bản ngã bị tổn thương.
Nghĩ rằng ai đó đã trở nên chứng ngộ là khó rồi. Dễ dàng kết án và nói, 'Không, ngay chỗ đầu tiên chứng ngộ là không thể được - nó chưa bao giờ xảy ra cả, nó chỉ là ảo tưởng, thượng đế không tồn tại. Samadhi sao? - chẳng là gì ngoài việc tự thôi miên. Người này bị lừa rồi, người đó đã không trở nên chứng ngộ. Chúng tôi biết rõ anh ta mà, chúng tôi đã biết anh ta từ ngay thời thơ ấu. Làm sao anh ta có thể bỗng nhiên trở thành người chứng ngộ được? Anh ta cũng giống chúng tôi thôi, giả vờ cả đấy thôi. Anh ta là kẻ giả vờ, kẻ lừa dối.'
Đây là bản ngã chúng ta đang chọn cách thức rẻ hơn. Nhận biết về điều đó đi. Ham muốn nảy sinh trong mọi người để kết án, để phủ nhận. Cho nên bất kì khi nào một người như Phật còn sống, chúng ta lên án người đó, và khi người đó chết, chúng ta tôn thờ trong mặc cảm. Tất cả mọi tôn thờ nảy sinh bởi vì mặc cảm. Trước hết bạn kết án một người, vẫn biết rõ rằng cái gì đó đã xảy ra, nhưng bạn không thể chấp nhận được nó. Sâu bên dưới trong cái ta riêng của mình bạn có thể thấy rằng người đó đã được siêu việt lên, người đó có chói sáng. Bạn không thể thực sự phủ nhận được điều đó; trong cốt lõi sâu nhất của bản thể mình bạn cảm thấy rằng một tia sáng đã đi vào. Nhưng một cách có ý thức, có chủ ý, bạn không thể chấp nhận được điều đó. Nó sẽ là việc chấp nhận thất bại của bạn. Nghi ngờ, bạn chắc chắn nghi ngờ sâu bên trong; bất kì cái gì bạn đang làm - kết án của bạn - bạn nghi ngờ nó, nhưng dầu vậy bạn cứ nghi ngờ.
Thế rồi một hôm người này qua đời. Thế rồi chỉ hương thơm còn lại, kí ức. Và khi một người chết và bạn đã không chấp nhận thực tại của người đó, thì mặc cảm nảy sinh. Bạn cảm thấy, 'Mình có tội. Mình đã không tốt. Mình đã bỏ lỡ cơ hội rồi.' Thế rồi bạn bắt đầu cảm thấy hối hận. Bây giờ phải làm gì? Để cân bằng lại mặc cảm, bạn tôn thờ.
Đó là lí do tại sao các bậc thầy chết lại được tôn thờ. Rất hiếm người tôn thờ thầy còn sống. Bởi vì khi bạn tôn thờ thầy sống thì điều đó không bắt nguồn từ mặc cảm, nó bắt nguồn từ hiểu biết. Khi bạn tôn thờ một thầy chết thì nó bắt nguồn từ mặc cảm.
Chẳng hạn bố bạn đang sống và bạn đã không kính trọng ông ấy, bạn đã không yêu ông ấy. Theo nhiều cách bạn đã chống lại ông ấy. Theo nhiều cách bạn đã hạ nhục ông ấy, theo nhiều cách bạn đã bác bỏ ông ấy. Và thế rồi một ngày nào đó ông ấy chết, và bạn bắt đầu kêu khóc. Và thế rồi hàng năm bạn sẽ làm lễ shraddh. Một ngày trong mọi năm bạn sẽ làm cỗ cúng cho bạn bè và brahmins. Điều này bắt nguồn từ mặc cảm. Và thế rồi bạn sẽ đặt ảnh bố mình vào trong nhà, và bạn sẽ đặt hoa lên.
Bạn chưa bao giờ làm điều đó khi bố còn sống. Bạn chưa bao giờ đem hoa tới chân bố. Bây giờ khi bố qua đời bạn cảm thấy mặc cảm - bạn đã không tốt với ông già này. Bạn đã không làm điều cần được làm. Bạn đã không hoàn thành tình yêu và nghĩa vụ của mình. Bây giờ cơ hội này qua mất rồi, người này không còn đó nữa mà tha thứ cho bạn. Người này không còn đó để cho bạn có thể kêu khóc và sụp xuống dưới chân người đó và nói, 'Con đã không tốt với bố, xin tha thứ cho con.' Bây giờ bạn cảm thấy, theo cách nào đó, mặc cảm sâu sắc. Hối hận nảy sinh - bạn cắm hoa. Bạn kính trọng kí ức. Bạn chưa bao giờ kính trọng người này - bây giờ bạn kính trọng kí ức.
Nhớ lấy, nếu bạn đã thực sự yêu con người này, nếu bạn đã thực sự kính trọng con người này, thế thì đã không có hối hận, thế thì đã không có mặc cảm. Thế thì bạn đã không có khả năng nhớ tới người đó mà không mặc cảm, và việc hồi tưởng đó có cái đẹp. Việc hồi tưởng đó là hoàn toàn khác, nó có phẩm chất hoàn toàn khác. Khác biệt là mênh mông. Thực tế bạn sẽ cảm thấy được hoàn thành.
Không phải là vì cái chết mà bạn khóc đâu; đấy bao giờ cũng là vì mặc cảm. Nếu bạn yêu người đàn bà, nếu bạn thực sự yêu người đàn bà và bạn không bao giờ phản bội cô ấy, và bạn không bao giờ lừa dối cô ấy, khi cô ấy chết thì tất nhiên bạn cảm thấy buồn, nhưng trong nỗi buồn đó có cái đẹp. Bạn thiếu cô ấy, nhưng không có mặc cảm. Bạn nhớ cô ấy, bạn bao giờ cũng sẽ nhớ, điều đó bao giờ cũng vẫn còn là một kí ức được ấp ủ, nhưng bạn không đi khỏi con đường của mình để mà kêu khóc và làm nhiều điều bày tỏ nó. Bạn không trưng nó ra, không có thói phô trương trong nó. Bạn sẽ ấp ủ kí ức này sâu trong trái tim mình. Bạn sẽ không mang bức tranh trong cuốn sổ tay của mình, và bạn sẽ không nói về người đàn bà này.
Tôi quen biết một đôi - người chồng đã rất tệ với vợ mình. Đó là hôn nhân vì tình, một gia đình rất giầu, nhưng người chồng lại là một loại Don Juan, và anh ta đã phản bội vợ mình theo mọi cách có thể được. Thế rồi cô ấy tự tử - cô ấy tự tử bởi vì anh ấy.
Tôi đi qua thị trấn của họ cho nên tôi tới gặp, bởi vì ai đó nói rằng người chồng rất bất hạnh. Vì người vợ đã chết nên cuộc sống của anh ta đã thay đổi. Tôi không thể tin được điều đó. Tôi cứ tưởng anh ấy đáng phải sung sướng. Nó bao giờ cũng là mối quan hệ khổ, xung độ liên tục có đó.
Tôi tới gặp anh ấy. Anh ta đang ngồi trong phòng làm việc được bao quanh bởi nhiều bức ảnh vợ mình - tứ phía - cứ dường như người vợ đã thành nữ thần. Và anh ta bắt đầu khóc lóc. Tôi nói, 'Thôi cái trò vô nghĩa này đi! - bởi vì bạn chưa bao giờ hạnh phúc với người đàn bà này, cô ấy chưa bao giờ hạnh phúc với bạn, đó là lí do tại sao cô ấy đã tự tử. Đó là điều bạn bao giờ cũng muốn. Thực tế bạn đã kể cho tôi nhiều lần rằng nếu người đàn bà này chết thì bạn sẽ tự do. Bây giờ cô ấy đã làm điều đó rồi.'
Anh ta nói, 'Nhưng bây giờ tôi thấy mặc cảm quá, cứ dường như tôi đã là nguyên nhân cho cái chết của cô ấy, cứ dường như tôi đã giết chết cô ấy. Bây giờ tôi không định lấy vợ nữa.'
Đây là mặc cảm, điều đó là xấu.
Khi vị phật chết nhiều người tôn thờ ông ấy. Họ có đó khi ông ấy còn sống, nhưng họ chưa bao giờ đi tới ông ấy cả. Khi Mahavira chết, trong hàng thế kỉ và hàng thế kỉ mọi người cứ tôn thờ mãi. Những người này có đó khi Mahavira còn sống, nhưng bây giờ họ cảm thấy mặc cảm.
Trông đấy, Jesus bị đóng đinh. Vào khoảnh khắc cuối cùng ngay cả các đệ tử của ông ấy cũng bỏ trốn khỏi ông ấy; chẳng có ai nói, 'Tôi là tín đồ của ông ấy.' Ngay cả đệ tử cuối cùng... khi Jesus bị bắt, Jesus bảo người đó, 'Đừng theo ta bởi vì bây giờ ông sẽ không có khả năng theo ta thêm nữa đâu.' Anh ta nói, 'Tôi sẽ tới, thưa thầy. Tôi sẽ đi tới bất kì chỗ nào họ đem thầy đi.' Jesus nói, 'Trước khi mặt trời mọc ông sẽ phủ nhận ta ít nhất ba lần. Đừng làm điều đó, bỏ ta đi.' Nhưng người này cứ khăng khăng.
Jesus bị bắt, kẻ thù bắt lấy ông ấy, còn đệ tử này đi theo trong đám đông. Đám đông trở nên nhận biết rằng ai đó trông như người lạ, và họ hỏi anh ta, 'Anh là ai? Anh có phải là đệ tử của Jesus không?' Anh ta nói, 'Jesus này là ai vậy? Tôi chưa bao giờ nghe nói tới cái tên này.' Và ba lần, thực tế ba lần trước khi mặt trời mọc, anh ta đã phủ nhận. Và khi anh ta phủ nhận lần thứ ba, Jesus nhìn lại và ông ấy nói, 'Vậy mà mặt trời còn chưa lên tới đường chân trời.'
Không ai khác hiểu được nhưng đệ tử này phải đã khóc sâu bên dưới rằng mình đã phủ nhận Christ - rằng anh ta không biết con người này, anh ta là người lạ trong thị trấn, anh ta đơn giản tới vì tò mò. Vào khoảnh khắc cuối cùng ngay cả các đệ tử cũng biến mất. Thế rồi Jesus bị đóng đinh, thế rồi các đệ tử tụ tập lại, thế rồi nhiều đệ tử hơn tụ tập lại, thế rồi ngày một nhiều hơn. Bây giờ gần một phần ba nhân loại là người Ki tô giáo.
Điều này dường như là mặc cảm vô cùng. Nghĩ mà xem, nếu Jesus mà không bị đóng đinh - không bị đóng đinh - thì đã không có Ki tô giáo chút nào. Không phải là Jesus đã tạo ra Ki tô giáo đâu, chính cây thập tự đấy. Đó là lí do tại sao cây thập tự trở thành biểu tượng của Ki tô giáo. Tôi gọi Ki tô giáo này là 'Thập tự - giáo', không phải là Ki tô giáo. Thực tế chính cây thập tự, chính cái chết mới tạo ra mặc cảm. Và nó tạo ra nhiều mặc cảm tới mức... phải làm gì khi mặc cảm nảy sinh? Bạn có thể bù lại chỉ bằng tôn thờ.
Khi thầy còn sống bạn yêu thầy: tôn thờ của bạn có tình yêu trong nó, và tôn thờ của bạn không có phô bầy trong nó. Nó là luồng chảy tự nhiên của trái tim bạn. Nhưng khi thầy chết và bạn bao giờ cũng phủ nhận thầy, thế rồi bạn tôn thờ thầy: tôn thờ của bạn có cuồng tín trong nó, phô trương trong nó. Bạn muốn chứng minh cái gì đó. Chống lại ai? Chống lại thái độ riêng của bạn.
Tôi đã nghe:
'Anh chắc chắn trông chán nản quá,' một anh bạn nói với Mulla Nasruddin. 'Chuyện rắc rối gì vậy?'
'Thế này,' Mulla nói, 'anh có nhớ bà cô tôi vừa mới chết không? Tôi là người đã giam giữ bà ấy trong bệnh viện tâm thần trong năm năm cuối đời bà ấy. Khi bà ấy chết, bà ấy để lại cho tôi tất cả số tiền của bà ấy. Bây giờ tôi phải chứng tỏ rằng bà ấy có tâm trí lành mạnh khi bà ấy làm di chúc sáu tuần trước.'
Đó là điều xảy ra. Trước hết bạn phủ nhận người trí huệ - điều người đó là trí huệ. Bạn phủ nhận rằng người đó chứng ngộ, bạn phủ nhận rằng người đó tốt. Thế rồi khi người đó chết người đó để lại toàn thể di sản cho bạn, người đó để lại tất cả tiền bạc của người đó theo tên bạn. Người đó trở thành tài sản kế thừa của bạn. Bây giờ bỗng nhiên mọi sự thay đổi, mọi sự lấy bước ngoặt một trăm tám mươi độ. Bạn đã phủ nhận người này bởi vì người đó đã làm tổn thương bản ngã bạn, bây giờ bỗng nhiên bạn bắt đầu tôn thờ người đó bởi vì bây giờ người đó trở thành việc đáp ứng cho bản ngã. Nguyên nhân vẫn là một, dù bạn kết án hay tôn thờ.
Người Hindu đã phá huỷ Phật giáo hoàn toàn ở Ấn Độ, nhưng họ đã chấp nhận Phật làm hoá thân thứ mười của họ. Tại sao? Bởi vì bây giờ phủ nhận Phật giáo thì được, nhưng làm sao bạn có thể phủ nhận di sản của Phật? Ông ấy đã là người Ấn Độ vĩ đại nhất. Nếu bạn phủ nhận ông ấy thì bản ngã của bạn sẽ thất bại. Bây giờ với Phật bản ngã của bạn sáng lên như vì sao, sao bắc đẩu. Bạn không thể phủ nhận Phật được.
Bây giờ bạn cứ nói mãi về ông ấy - rằng ông ấy là con người trí huệ nhất, con người vĩ đại nhất đã từng có. Bây giờ bản ngã riêng của bạn được nuôi dưỡng với cái tên của Phật. Bây giờ bạn muốn rằng đó là Phật của bạn - bây giờ bạn nói đó là Phật của bạn - người đã làm biến đổi toàn thể khuôn mặt của châu Á. Ông ấy là ánh sáng của thế giới. Tất nhiên bạn giết Phật tử, bạn phá huỷ kinh sách Phật giáo, bạn phủ nhận mọi thứ - nhưng bạn mang cái tên của Phật.
Thử nghĩ mà xem, khi Ấn Độ trở nên tự do và họ phải chọn một biểu tượng cho lá cờ, họ đã chọn một biểu tượng Phật giáo. Hindu giáo có thiếu biểu tượng theo bất kì cách nào không? Có hàng triệu biểu tượng đẹp trong Hindu giáo. Nhưng sao họ đã chọn bánh xe Phật giáo cho lá cờ? Bây giờ Phật là di sản kế thừa của họ. Bây giờ họ muốn công bố rằng Phật đã được sinh ra ở đây trên đất nước này, trong đất nước tôn giáo này, rằng ông ấy là của chúng ta. Khi ông ấy còn sống bạn đã ném đá vào ông ấy, bây giờ bạn lại nói ông ấy là của bạn.
Khi Phật còn sống, trong mọi thị trấn ông ấy đều bị kết án, bất kì chỗ nào ông ấy đi qua ông ấy cũng đều bị kết án. Bây giờ mọi thị trấn đều nói rằng ông ấy đã từng ở đây, rằng ông ấy đã được sinh ra ở đây, rằng ông ấy đã chết ở đây, rằng ông ấy đã tạm trú ở đây trong ngôi nhà này, rằng trong bốn mươi năm liên tục ông ấy đã tới đây, ông ấy đã tới hai mươi lần. Mọi thị trấn ở Bihar đều nói thế.
Toàn thể Bihar đã kết án ông ấy. Bây giờ cái tên 'Bihar' là bởi vì ông ấy, bởi vì ông ấy đã bước ở đó. Bihar nghĩa là 'nơi Phật đã bước đi'. Bây giờ toàn thể chỗ này được gọi là Bihar. Bây giờ chúng ta cứ nói mãi. Nehru đã đem xương của ông ấy về, đã đem xương của ông ấy trở lại Ấn Độ. Nehru không phải là người tôn giáo chút nào, không một chút nào. Tại sao? Bây giờ bản ngã Ấn Độ có thể cảm thấy rất được thoả mãn. Phật phải được đem về nhà. Cùng bản ngã đó đã kết án ông ấy, bây giờ cùng bản ngã đó tôn thờ ông ấy. Nhớ lấy lấy điều đó. Bản ngã của bạn bao giờ cũng phủ nhận - quan sát nó đi.
Những lời kinh này là dành cho bạn. Nhớ lấy. Chúng không phải là những thứ vô hình - hư cấu, chúng không phải là lí thuyết đâu. Chúng mang tính rất kinh nghiệm, thực chứng: Phật là người rất thực chứng.
Mới hôm nọ chuyện xảy ra, Mulla Nasruddin tới gặp tôi - sau bài nói chuyện buổi sáng hôm qua. Anh ta bắt tay tôi và nói, 'Tuyệt diệu, buổi giảng tuyệt vời. Mọi điều thầy nói đều áp dụng cho ai đó hay cho người khác mà tôi biết.'
Những lời kinh này áp dụng cho bạn, không cho ai đó hay người khác mà bạn biết. Nếu ai đó nói rằng 'X' đã trở nên chứng ngộ, phản ứng đầu tiên của bạn là gì? Quan sát nó. Bạn nói, 'X sao? Thằng ngu đó. Nó mà trở nên chứng ngộ sao? Không thể được!' Quan sát ấn tượng đầu tiên của bạn. Tỉnh táo về điều xảy ra trong tâm trí bạn. Và ngay lập tức bạn sẽ bắt đầu nói về tất cả những khiếm khuyết và nhược điểm mà bạn biết. Và quan sát điều bạn nói quá lên.
Đôi khi chuyện xảy ra là nếu ai đó nói với bạn rằng người nào đó đã trở nên chứng ngộ, người đó đã trở nên rất trí huệ, bạn sẽ nói, 'Người đó sao? Tôi biết anh ta rõ lắm từ thời còn trẻ con. Tôi đã thấy anh ta, tôi đã quan sát anh ta. Chứng ngộ không xảy ra trong một ngày đâu. Nó là một quá trình. Điều đó là không thể được.' Hay bạn tìm thấy cái gì đó không liên quan.
Phật thường nói rằng có lần một người đã nói với bạn mình, 'Anh đã nghe nói về người láng giềng của chúng ta chưa? Anh ta là người đức hạnh thế.' Người kia nói, 'Làm sao thế được? Điều đó là không thể được, không thể thế được. Tôi sống ngay bên cạnh anh ta, chúng tôi đã sống cùng nhau - làm sao điều đó có thể xảy ra được mà tôi không biết về điều đó trước khi anh biết nó? Chúng tôi là hàng xóm và tôi biết mọi sự, biết tỏng đi rồi. Đấy chỉ là giả vờ thôi. Anh ta giả vờ đấy, nhưng anh ta cho rằng anh ta có thể lừa được ai?'
Rất khó chấp nhận rằng ai đó là trí huệ bởi vì trong việc chấp nhận rằng ai đó trí huệ, bạn chấp nhận rằng bạn là người dốt nát - đó mới là vấn đề. Người khác trí huệ đâu có là vấn đề gì, vấn đề là ở mối quan hệ với bạn. Khi bạn chấp nhận ai đó đẹp, bạn chấp rất miễn cưỡng.
Nói với một người đàn bà về người đàn bà khác là đẹp và cô ấy trở nên miễn cưỡng và cô ấy bắt đầu lập tức kết án. Bởi vì chấp nhận rằng người đàn bà khác đẹp là chấp nhận rằng bạn không đẹp như vậy. So sánh lập tức nảy sinh - bản ngã tồn tại qua so sánh.
Trong Thiền họ nói rằng một người là nghệ sĩ thổi sáo hay. Ai đó ca ngợi anh ta trong quán cà phê, rằng anh ta là nghệ sĩ thổi sáo hay. Lập tức người khác bắt đầu kết án. Người đó nói, 'Anh ta là kẻ dối trá, anh ta là kẻ trộm - làm sao anh ta có thể là nghệ sĩ thổi sáo hay được?'
Bây giờ không có gì mâu thuẫn cả. Bạn có thể nói dối mà vẫn thổi sáo hay, bạn có thể vẫn là người thổi sáo hay. Bạn có thể là kẻ ăn trộm, dầu vậy bạn có thể thổi sáo hay được chứ. Không có mâu thuẫn. Nhưng người kia đơn giản nói, 'Anh ta không thể thế được. Anh ta là kẻ trộm, anh ta là kẻ dối trá...' và thế này thế nọ. 'Tôi biết anh ta - anh ta không thể thổi sáo được.' Và khi mọi người trở nên kết án, la hét quá nhiều, chính việc la hét của họ mang trọng lượng. Người đã nói về người thổi sáo bị làm cho im bặt.
Hôm sau anh ta nói chuyện với ai đó khác và anh ta nói 'Người đó là kẻ trộm.' Người kia nói, 'Làm sao anh ấy có thể là kẻ trộm được? Anh ấy thổi sáo hay thế.' Bây giờ lần nữa lại không có mâu thuẫn, nhưng người thứ hai có cách nhìn hoàn toàn khác. Người thứ hai này đang mở ra cho sự phát triển, người nói, 'Làm sao anh ấy có thể là kẻ trộm được? Tôi biết anh ấy thổi sáo hay thế. Một người thẩm mĩ như vậy không thể là kẻ trộm được. Không thể được! Tôi không thể tin được vào điều đó.' Người kia là kẻ trộm hay không, không phải là vấn đề, nhưng hai phản ứng này sẽ quyết định nhiều điều cho hai người này.
Khi ai đó nói, 'Có người tốt,' hãy quan sát, đừng bắt đầu kết án - bởi vì khi bạn kết án cái tốt bạn kết án luôn tương lai riêng của mình. Nếu bạn cứ kết án cái tốt và trí huệ thì bạn sẽ không bao giờ trở thành cái tốt và không bao giờ trở thành trí huệ, bởi vì bất kì cái gì bạn kết án thì cũng không thể xảy ra được cho bạn. Bạn sẽ trở nên bị đóng kín.
Cho dù người đó không tốt, cho dù người đó không trí huệ, việc phủ nhận vẫn là không tốt. Chấp nhận điều đó đi. Bạn mất gì trong nó nào? Chính việc chấp nhận điều người đó có thể là tốt và trí huệ sẽ giúp cho bạn trở nên tốt và trí huệ. Cánh cửa của bạn mở ra, bạn không còn đóng nữa. Và nếu người đó có thể trở thành tốt và trí huệ, sao bạn lại không thế được? Nếu bạn nghĩ rằng người đó là người bình thường, đừng kết án người đó. Đơn giản cứ hạnh phúc, chấp nhận điều đó như một tin tốt lành - 'Người bình thường đó đã trở nên trí huệ, cho nên mình cũng có thể trở nên trí huệ bởi vì mình cũng là người bình thường.' Sao lại làm nó thành điểm tiêu cực? Đó là lí do tại sao Phật nói:
Người làm điều hại, người lên án người trí huệ rất giống người khạc nhổ lên trời.
Bạn đang khạc nhổ lên mặt riêng của mình đấy. Khi bạn khạc nhổ lên trời, trời sẽ không bị biến chất bởi bạn đâu. Bạn sẽ bị biến chất bởi việc khạc nhổ riêng của mình. Nước bọt sẽ rơi vào bạn. Toàn thể nỗ lực của bạn là ngớ ngẩn. Bầu trời sẽ vẫn còn là bầu trời.
Người trí huệ giống như bầu trời. Điều đó nữa cũng rất tượng trưng. Bầu trời nghĩa là không gian thuần khiết.
Sao lại có câu ngạn ngữ này rằng nhổ lên trời là ngu xuẩn? Tại sao? - bởi vì trời không có đó. Nếu trời có đó thì việc bạn nhổ có thể làm biến chất nó. Bạn nhổ lên tường - nó sẽ không quay lại với bạn. Bạn nhổ lên mái - nếu bạn là chuyên gia thì nó có thể không quay lại. Bạn có thể thực hành điều đó. Không có nhu cầu là nó sẽ quay lại, bởi vì mái có đó; nó có thể bị biến chất. Cái có đó thì có thể bị biến chất, cái mà không có đó thì không thể bị biến chất.
Người trí huệ không có đó, bản ngã của người đó đã biến mất. Người đó không phải là thực thể, người đó chỉ là không gian thuần khiết. Bạn có thể đi qua người đó, bạn có thể nhổ qua người đó, và không có cản trở. Nước bọt sẽ đi qua người đó, người đó sẽ không bắt giữ nó.
Nếu bạn xúc phạm người trí huệ, việc xúc phạm của bạn không được người đó tiếp nhận. Cứ dường như, trong căn phòng trống rỗng, bạn đang xúc phạm. Vâng, bạn sẽ tạo ra âm thanh, có vậy thôi. Khi âm thanh đã biến mất căn phòng lại như cũ. Căn phòng sẽ không mang sự xúc phạm của bạn, căn phòng là trống rỗng.
Người trí huệ trống rỗng như bầu trời. Câu ngạn ngữ này phải là của Phật giáo bởi vì Phật nói rằng người trí huệ nghĩa là không cái ta, không bản ngã. Người trí huệ nghĩa là không tồn tại. Người đó không có đó, người đó là sự hiện diện thuần khiết, không vật chất nào trong người đó. Bạn có thể đi qua người đó. Sẽ không có chướng ngại nào được thấy trong người đó đâu, không cản trở nào được thấy trong người đó đâu.
Người làm điều hại, người lên án người trí huệ rất giống người khạc nhổ lên trời. Nước bọt sẽ không bao giờ lên trời...
Không phải là trời ở quá xa đâu. Không, trời rất gần đấy, bạn đang trong trời. Nhưng không thể đạt tới trời được bởi vì trời là sự tồn tại thuần khiết thế. Nó đơn giản là không gian chứ không gì khác. Mọi thứ tới rồi đi trời vẫn còn hồn nhiên.
Bao nhiêu cuộc chiến tranh đã xảy ra trên trái đất này? - nhưng bạn không thể tìm ra bất kì vết máu nào trên trời. Bao nhiêu người đã sống trên trái đất này? Bao nhiêu hành động xấu đã từng bị phạm phải, giết người, tự tử? - nhưng trời không ghi dấu gì, thậm chí không một dấu vết. Quá khứ đơn giản không tồn tại. Mây tới rồi đi và trời vẫn còn như cũ. Chẳng cái gì làm biến chất nó.
Người trí huệ trở thành rộng tới mức không cái gì làm biến chất được người đó.
Bạn chỉ có thể tin rằng mình đang xúc phạm người đó; việc xúc phạm của bạn sẽ quay trở lại bạn. Người trí huệ giống như thung lũng; việc xúc phạm của bạn sẽ bị vọng lại. Nó sẽ rơi vào bạn.
Nước bọt sẽ không bao giờ lên trời mà rơi lại vào bản thân người đó.
Điều đó nữa cũng phải được hiểu. Người trí huệ là cao hơn bạn, người trí huệ giống như đỉnh, đỉnh Himalaya. Bạn đang đứng trong bóng tối, trong thung lũng, trong dốt nát.
Nếu bạn nhổ vào cái cao hơn, nước bọt sẽ rơi trở lại vào bạn. Điều đó ngược lại tự nhiên, điều đó ngược lại lực hấp dẫn. Cho nên nếu ai đó bị xúc phạm bởi việc xúc phạm của bạn thì bạn có thể chắc chắn rằng người đó thấp hơn bạn. Nếu ai đó không bị xúc phạm bởi việc xúc phạm của bạn thì bạn có thể chắc chắn rằng người đó cao hơn bạn, rằng việc xúc phạm của bạn không thể đạt tới người đó được. Bởi vì xúc phạm tuân theo lực hấp dẫn. Chúng đi tới chiều sâu thấp hơn.
Cho nên nếu bạn giận dữ bạn chỉ có thể làm tức điên người kém hơn. Người cao hơn đơn giản vẫn còn bên ngoài bạn. Bạn có thể làm tức điên người yếu hơn, người mạnh hơn vẫn còn không bị ảnh hưởng bởi bạn. Bạn có thể thao túng qua việc xúc phạm chỉ người thấp hơn, người cao hơn ở xa bên ngoài.
Người làm điều hại giống như người khuấy bụi ngược chiều gió. Bụi không bao giờ bay lên mà không làm người đó bị tổn thương. Do vậy người trí huệ sẽ không bao giờ bị tổn thương nhưng lời chửi rủa thì nhất định phá huỷ bản thân người làm điều hại.
Nhớ lấy điều đó. Chúng ta cứ làm những điều chống lại mình. Chúng ta cứ làm những điều mang tính tự tử. Chúng ta cứ làm những điều sẽ phá huỷ đi tương lai của mình. Từng hành động bạn đang làm đều theo cách nào đó xác định ra tương lai của bạn.
Nhận biết đi - đừng làm điều gì sẽ gây hại cho bạn. Và bất kì khi nào bạn cố gắng làm hại ai đó, bạn đang làm hại bản thân mình thôi. Bất kì khi nào bạn cố gắng gây vết thương nào đó, bất kì khi nào bạn muốn gây tổn thương, bạn đang tạo ra nghiệp cho bản thân mình. Bạn sẽ bị tổn thương bởi nó.
Chuyện xảy ra, có lần một người tới và nhổ vào Phật - thực đấy. Phật chùi mặt và hỏi người đó, 'Thưa ông, ông có điều gì khác để nói không?' Người đó đâm ra phân vân, bối rối. Người đó không mong đợi phản ứng như vậy. Người đó nghĩ Phật sẽ nổi giận. Người đó không thể tin được vào mắt mình. Người đó câm tịt, người đó sững sờ.
Đệ tử riêng của Phật, Ananda, đang ngồi cạnh ông ấy. Ông này trở nên rất, rất giận. Ông này nói với Phật, 'Đây là cái gì vậy? Nếu thầy cho phép mọi người theo cách này, cuộc sống sẽ trở thành không thể được. Thầy bảo tôi và tôi sẽ cho nó biết lễ độ.' Ông ấy là một người mạnh mẽ, ông Ananda này. Ông ấy là chiến binh, ông ấy là anh họ của Phật, bản thân ông ấy cũng là hoàng tử. Ông ấy giận lắm. Ông ấy nói, 'Vô nghĩa làm sao. Cứ ra hiệu cho tôi thôi và tôi sẽ cho nó biết lễ độ.'
Phật cười to và ông ấy nói, 'Anh ta đã không làm ta ngạc nhiên, nhưng ông lại làm ta ngạc nhiên đấy. Sao ông lại nhảy vào điều đó? Anh ta chẳng làm gì với ông cả. Khi có liên quan tới việc anh ta nhổ vào ta, ta biết ta đã xúc phạm anh ta trong kiếp quá khứ nào đó. Bản thanh toán được đóng lại hôm nay. Ta sung sướng.'
'Cám ơn ông,' ông ấy nó với người đó. 'Ta chờ đợi ông bởi vì bản thanh toán này phải được đóng lại. Ta đã xúc phạm ông ở đâu đó. Ông có thể không nhớ, ta thì nhớ điều đó. Ông có thể không biết, ta biết điều đó. Ông có thể đã quên mất bởi vì ông không thật nhận biết, nhưng ta đã không quên đâu. Hôm nay ta sung sướng ông đã tới và ông đã hoàn thành toàn thể sự việc. Bây giờ chúng ta được tự do với nhau.'
'Đây là việc làm riêng của ta,' ông ấy nói với Ananda, 'điều đó đã quay lại với ta.'
Tất nhiên khi bạn nhổ lên trời, phải mất chút thời gian để nó quay lại. Nó không tới ngay lập tức đâu, điều đó tùy thuộc vào nhiều thứ - nhưng mọi thứ đều quay lại. Bất kì cái gì bạn làm đều là việc gieo hạt: ngày này hay ngày nọ bạn sẽ thu hoạch, ngày này hay ngày nọ bạn sẽ phải gặt nó về.
Nếu bạn khổ hôm nay, đây là những hạt mầm đã nở hoa. Những hạt mầm này bạn có thể đã gieo ở đâu đó trong quá khứ của mình - kiếp sống này, kiếp sống khác, ở đâu đó. Bất kì cái gì bạn đang là hôm nay thì cũng không là gì khác ngoài quá khứ đã tích lũy của bạn. Toàn thể quá khứ của bạn là hiện tại của bạn. Bất kì cái gì bạn sẽ là ngày mai đều sẽ là bất kì cái gì bạn đang làm hôm nay.
Không cái gì có thể được làm về quá khứ cả, nhưng nhiều điều có thể được làm về tương lai. Và thay đổi tương lai là thay đổi tất cả. Nếu bạn bắt đầu thay đổi cách sống của mình, cách nhận biết của mình, nếu bạn bắt đầu hiểu luật của cuộc sống... đây là một trong những luật nền tảng, luật về nghiệp: bất kì cái gì bạn làm bạn sẽ phải thu hoạch.
Đừng bao giờ quên điều đó cho dù một khoảnh khắc. Bởi vì việc quên nó đã tạo ra biết bao nhiêu khổ sở cho bạn. Nhớ lấy nó. Cứ lặp đi lặp lại mãi samskaras cũ, xu hướng cũ, sẽ buộc bạn chỉ theo thói quen làm những điều cũ. Nhớ lấy - và vứt bỏ thói quen cũ, vứt bỏ phản ứng máy móc; trở nên ý thức hơn. Một nhận biết nhỏ và thay đổi lớn lao bắt đầu xảy ra.
Tôi đã nghe:
Chuyện xảy ra ở Nhật Bản. Có lần một bà mẹ tới thăm đứa con trai ở đại học và lấy làm phiền lòng khi thấy các bức tranh khiêu dâm trên tường của phòng cậu ta. Bà ấy chẳng nói gì, nhưng treo một bức tranh Phật vào giữa các tranh khác. Khi bà ấy quay lại để gặp con trai thì các bức tranh khác đã đi đâu mất, chỉ còn lại mỗi bức tranh Phật. Người con nói, 'Bằng cách nào đó con không thể để ông ấy ở đó được cùng các bức tranh kia nữa - cho nên chúng phải ra đi.
Chỉ một việc nhỏ, chỉ một bức tranh nhỏ của Phật, và tất cả những tranh khiêu dâm, tranh con heo phải ra đi. Điều gì đã xảy ra? Cậu con trai này bắt đầu cảm thấy không thoải mái. Làm sao đặt Phật ở đó với tất cả những bức tranh này được? Dần dần sự hiện diện của Phật được cảm thấy; càng ngày cậu ta càng trở nên nhận biết hơn, càng nhiều tranh biến mất. Chỉ một tia sáng nhỏ cũng đủ xua tan đi tất cả mọi bóng tối. Cho phép tia sáng đầu tiên đi!
Nếu bạn bắt đầu trở nên nhận biết theo cách nhỏ bé - chẳng cái gì phải lo lắng cả - dần dần bạn sẽ thấy tất cả những bức tranh khác đã đi mất và chỉ nhận biết còn lại. Phật có nghĩa là nhận biết, chính từ 'Phật' nghĩa là nhận biết.
Nếu bạn thực sự muốn được hạnh phúc và phúc lạc, được phúc lạc vĩnh hằng, nếu bạn chán ngán với tất cả những khổ sở mà bạn đã sống qua, thế thì đem nhận biết vào phản ứng của mình. Và bắt đầu tin cậy vào điều tốt.
Trong tiếng Anh bạn có cách diễn đạt 'quá tốt không thật'. Cách diễn đạt này là rất nguy hiểm. Quá tốt để không còn thật được sao? Cứ dường như cái gì đó quá tốt bạn không tin được vào nó; nó không thể thật được? Đổi nó đi, để cho nó là theo cách này: Quá tốt không thể giả được.
Tin vào cái tốt, tin vào ánh sáng, tin vào thực tại cao hơn - bởi vì bất kì cái gì bạn tin cũng đều trở thành lối mở cho bạn. Nếu bạn không tin rằng bạn có thể là con người cao hơn, thế thì chấm dứt, mọi trưởng thành đều bị dừng lại.
Việc tin cậy vào một Phật hay một Mahavira hay một Jesus, một Zarathustra, không là gì ngoài việc mở bản thân bạn ra... chính ý tưởng rằng những người cao hơn bạn đã từng tồn tại, đã từng bước đi, đã từng sống - những người cao hơn là có thể. Việc là vị phật không phải là điều không thể được - chính khái niệm này, và một tia sáng đi vào trong bản thể bạn. Và tia sáng đó bắt đầu biến đổi bạn. Chính hoá chất của bạn thay đổi.
Do đó tất cả các tôn giáo đều nhấn mạnh vào lòng tin, shraddha, niềm tin. Nó chẳng liên quan gì tới mê tín, nó chẳng liên quan gì tới niềm tin thần học. Nó chỉ là việc mở trái tim ra. Nếu bạn không tin, nếu bạn cứ khăng khăng rằng hoa hồng không tồn tại, thế thì cho dù một ngày nào đó bạn bắt gặp một bụi hồng, bạn sẽ không tin. Bạn sẽ nói, 'Phải có ảo tưởng nào đó, ai đó đang giở thủ đoạn, hay mình đang trong ảo tưởng, hay mình đang mơ, bởi vì hoa hồng không thể tồn tại được.'
Ngay chỗ đầu tiên nếu bạn không tin vào sự tồn tại của hoa hồng thì chính khả năng là bạn có thể bắt gặp chúng và bạn có thể không nhìn vào chúng bởi vì chúng ta chỉ nhìn vào mọi thứ chúng ta tin là có thể. Chúng ta cứ đi qua, dửng dưng. Bất kì cái gì bạn tin đều trở thành có hiệu lực.
Tôi đã nghe:
Chuyện xảy ra trong một bệnh viện. Một y tá đặt tấm màn quanh giường một bệnh nhân nam, đưa cho anh ta một lọ mẫu xét nghiệm và nói, 'Tôi sẽ quay lại trong mười phút để lấy mẫu xét nghiệm của anh.' Thế rồi một y tá khác tới và đưa cho người này một cốc nước cam. Người này, có cái gì đó hóm hỉnh, đổ nước cam vào lọ xét nghiệm. Khi y tá thứ nhất quay lại, cô ta ngó vào và nói, 'Mẫu xét nghiệm này quá ít vẩn đục.'
'Nó là vậy đấy,' bệnh nhân đồng ý. 'Tôi sẽ làm lại nó lần nữa và xem liệu tôi có thể làm sạch nó được không.' Và khi anh ta đưa cái chai lên môi cô y tá xỉu luôn.
Chỉ là niềm tin của bạn, chính ý tưởng ấy - người này đang làm gì? Anh ta đơn giản uống nước cam. Nhưng một khi bạn tin một điều chắc chắn thì nó trở nên có hiệu lực. Bây giờ cô y tá này đang nghĩ anh ta uống nước tiểu của mình. Đấy chỉ là ý tưởng của cô ấy - nhưng ý tưởng là những thực tại lớn lao, chúng thay đổi cái nhìn của bạn.
Nếu bạn tìm cái đẹp thì bạn sẽ thấy cái đẹp. Nếu bạn tin cái đẹp không tồn tại, bạn có thể bắt gặp nó nhưng bạn sẽ không tìm nó. Bạn chỉ thấy cái bạn đang tìm thôi.
Niềm tin, lòng tin, đơn giản nghĩa là như thế này thôi - rằng chúng ta không là cái cuối cùng, chúng ta không là cao trào của sự tồn tại... thực tại cao hơn là có thể có. Tin vào một Jesus hay một Phật đơn giản là tin vào tương lai riêng của bạn, là tin rằng bạn có thể trưởng thành. Tin vào Phật là tin vào trưởng thành, là tin rằng vẫn có cái gì đó có thể xảy ra cho bạn.
Đó là lí do tại sao trong quá khứ mọi người không bao giờ chán như họ đang thế ngày nay - bởi vì bây giờ chẳng cái gì là có thể. Bạn chỉ đang trong lối mòn. Mọi người càng trở nên duy vật, họ càng trở nên chán. Bạn không thể tìm ra nhiều người chán hơn người Mĩ. Bây giờ họ có mọi thứ mà trong nhiều thế kỉ con người đã từng khao khát, và họ chán tới chết, bởi vì họ không có tương lai. Và khi không có tương lai thì không có nghĩa.
Bạn có chiếc xe đẹp, bạn có ngôi nhà đẹp, bạn có công việc tốt - vậy sao đây? Câu hỏi nảy sinh 'vậy sao đây?' Nhưng bạn đang đi đâu? Theo đường mòn, đi vào cùng vết bánh xe lặp đi lặp lại mãi. Cùng sáng đó, cùng tối đó, cùng việc đó, cùng tiền rót vào nó - phải làm gì bây giờ? Thế thì mọi người đang chơi những trò chơi nhỏ bé chỉ để trôi qua thời gian, nhưng họ biết rằng chẳng cái gì sẽ xảy ra. Điều đó tạo ra chán chường.
Chưa bao giờ trong lịch sử nhân loại mà con người lại chán thế như trong thế kỉ này, bởi vì bao giờ cũng có khả năng, bao giờ cũng có lối mở vào trời - bạn có thể trở thành vị Phật, bạn có thể trở thành một Jesus hay một Krishna. Bạn bao giờ cũng đang trưởng thành. Bạn không phải là bánh xe; có trưởng thành. Bỗng nhiên bạn lại ở trong bánh xe trong thế kỉ này - không có thượng đế.
Nietzsche nói, 'Thượng đế chết và con người tự do.' Tự do vì cái gì? - để được chán. Tự do không trưởng thành, tự do để mục nát, tự do chỉ để bằng cách nào đó sống nhạt nhẽo và chết.
Tự do là có nghĩa chỉ khi nó đem lại trưởng thành. Tự do chỉ có nghĩa là có khả năng cho trưởng thành - hoa đẹp hơn là có thể có trong bạn. Tiềm năng của bạn có số phận - cái đem tới ý nghĩa, cái đem tới nhiệt tình, cái đem tới xúc động. Cuộc sống của bạn bắt đầu rộn ràng với ý nghĩa.
Nhớ lấy ngày một nhiều rằng bạn là nguyên nhân cho khổ sở của mình, bạn có thể trở thành nguyên nhân cho phúc lạc của mình. Bạn là nguyên nhân cho địa ngục bạn đang sống trong đó, bạn có thể tạo ra cõi trời nữa. Một mình bạn chịu trách nhiệm chứ không ai khác.
Đừng bao giờ cố gắng làm hại bất kì ai bởi vì tất cả sẽ rơi lại vào bạn. Nếu bạn có thể làm cái gì đó tốt, làm đi. Nếu bạn có thể giúp được cho ai đó, giúp đi. Nếu bạn có thể có từ bi, tình yêu nào đó, để cho nó tuôn chảy, bởi vì cái đó sẽ quay lại. Trong những khoảnh khắc có nhu cầu bạn sẽ có cái gì đó phụ thuộc vào, đổ vào.
Yêu thật nhiều như bạn có thể yêu, giúp đỡ, và đừng bận tâm liệu việc giúp đỡ có đền đáp đúng hay không. Nó đền đáp, nó đền đáp vô cùng. Bạn không phải bận tâm vào thời gian và nơi chốn - nó đền đáp. Một ngày nào đó, bất kì lúc nào bạn được cần tới, nó xô vào bạn. Nó cứ tích luỹ.
Mulla Nasruddin cứ nài xin nghệ sĩ piano nổi tiếng chơi nữa. 'Thôi được, vì ông cứ nài nỉ mãi,' anh ta nói. 'Tôi sẽ chơi cái gì?'
'Chơi bất kì cái gì ông thích,' Nasruddin nói. 'Chỉ để chọc tức ông hàng xóm thôi.'
Mọi người cứ làm mọi thứ như thế. Họ có thể không tận hưởng nó chút nào, nhưng nếu họ có thể chọc tức ông hàng xóm thì thế là đủ sướng cho họ rồi. Đây là bệnh tật, nhưng đây là cách mọi người đang vậy. Mọi người thích hành hạ, và thế rồi khi họ hành hạ họ kêu khóc và họ nói rằng cuộc sống là rất bất công và thượng đế không công bằng!
Phật nói không có thượng đế. Ông ấy đơn giản vứt bỏ khả năng về thượng đế. Cho nên bạn không thể đổ trách nhiệm lên bất kì ai khác; ông ấy nói có luật, không có thượng đế, và luật tuân theo tiến trình riêng của nó. Nếu bạn tuân theo luật bạn sẽ hạnh phúc, nếu bạn không tuân theo luật bạn sẽ bất hạnh.
Ông ấy vứt bỏ ý tưởng về thượng đế chỉ để giúp đỡ bạn, bởi vì với thượng đế thì vẫn còn khả năng là chúng ta có thể làm cái gì đó sai và thế rồi chúng ta kêu khóc và cầu nguyện và nói, 'Con là kẻ ngốc, nhưng bây giờ ngài cứu con đi.'
Trước luật bạn không thể cầu nguyện được, trước luật bạn không thể nói, 'Tôi là kẻ ngốc.' Nếu bạn mà ngốc thì bạn phải chịu thôi, bởi vì luật không phải là người. Nó tuyệt đối dửng dưng, nó đơn giản tuân theo tiến trình riêng của nó.
Nếu bạn ngã xuống đất và xương bị gẫy và bạn bị nhiều chấn thương, bạn không đi tới nói với luật hấp dẫn, 'Đừng chống tôi nhiều thế. Ít nhất thì anh cũng có thể cho tôi lời cảnh báo chứ. Sao anh lại giận dữ thế?'
Không, bạn chưa bao giờ nói về luật hấp dẫn, bởi vì bạn biết nếu bạn tuân theo nó đúng thì nó mang tính bảo vệ. Không có luật hấp dẫn bạn sẽ không ở đây trên trái đất này, bạn sẽ nổi trên trời. Bạn không thể đứng trên đất được. Luật hấp dẫn giữ bạn trên trái đất, nó là chính gốc rễ của bạn. Không có nó bạn sẽ không ở đây. Nó cho phép bạn bước đi, nó cho phép bạn hiện hữu. Nhưng nếu bạn làm điều gì đó sai, thì sẽ có trừng phạt.
Nhưng luật không phạt bạn, nó không thưởng bạn. Nó chẳng liên quan gì tới bạn như con người riêng. Bạn tự trừng phạt mình, bạn tự thưởng mình. Tuân theo luật và bạn tự thưởng cho mình. Không theo luật, không tuân theo luật và bạn là nạn nhân, bạn khổ.
Phật gọi luật là dhamma pháp - đó là thượng đế của ông ấy. Ông ấy rút tính cá thể con người ra khỏi nó, bởi vì với tính cá thể con người đã tạo ra quá nhiều rắc rối. Thế thì người Do Thái cho rằng họ là dân tộc được thượng đế chọn, cho nên sẽ có chút ít khoan dung với họ. Điều này là vô nghĩa.
Người Ki tô giáo cho rằng họ là người được thượng đế chọn bởi vì ngài đã phái 'đứa con duy nhất này' tới cứu họ, cho nên bất kì ai theo Jesus đều sẽ được cứu vớt. Nhưng điều đó dường như giống gia đình trị - bởi vì bạn có họ hàng với Jesus và ông ấy lại là con của thượng đế. Điều đó dường như giống các quan chức, chính khách chính phủ Ấn Độ. Bạn có quan hệ. Điều này là vô nghĩa.
Tôi đã nghe nói rằng khi người Nhật Bản bị đánh bại một tướng Nhật nói chuyện với một tướng Anh và tướng Nhật nói, 'Chúng tôi không thể hiểu được tại sao chúng tôi lại thất bại, làm sao chúng tôi đã bị đánh bại.'
Tướng Anh nói, 'Ông không biết đâu. Chúng tôi tin vào thượng đế và chúng tôi cầu nguyện. Mọi ngày chúng tôi bắt đầu chiến đấu, chúng tôi đều cầu nguyện trước hết.'
Nhưng người Nhật nói, 'Chúng tôi cũng làm điều đó. Chúng tôi cũng tin vào thượng đế và chúng tôi cũng cầu nguyện.'
Người Anh cười. Ông ta nói, 'Nhưng ông có bao giờ nghĩ về điều đó chưa? Thượng đế không hiểu tiếng Nhật.'
Phật rút mọi tính cá thể ra khỏi thượng đế. Thế thì không có nhu cầu về ông ấy phải hiểu tiếng Nhật, tiếng Anh, tiếng Do Thái, tiếng Phạn. Người Hindu nói rằng tiếng Phạn là ngôn ngữ chân thật của ông ấy - tiếng devavani, ngôn ngữ riêng của thượng đế. Tất cả các ngôn ngữ khác đều chỉ là của con người, tiếng Phạn mới thiêng liêng. Nhưng sự ngu xuẩn này tồn tại trên khắp thế giới. Phật lấy đi chính cái cơ sở này. Ông ấy nói thượng đế không phải là người, đó là luật. Tuân theo nó, vâng lời nó, và bạn tự thưởng cho mình. Không theo nó và bạn khổ thôi.
Do vậy người trí huệ sẽ không bao giờ bị tổn thương nhưng lời chửi rủa thì nhất định phá huỷ bản thân người làm điều hại.
Cho nên nhớ lấy nó như một qui tắc nền tảng rằng bất kì cái gì bạn làm cho người khác thì bạn đang thực sự làm cho mình - bất kì cái gì, tôi nói, bạn làm cho người khác bạn đang làm nó cho bản thân mình. Cho nên hãy quan sát.
Phật nói:
Nếu ông cố gắng nắm lấy đạo qua nhiều học hỏi, ông sẽ không hiểu đạo. Nếu ông quan sát đạo bằng sự đơn giản của trái tim thì thực sự đây là đạo.
Đạo này, pháp này, luật này, luật tối thượng này của cuộc sống, không thể được hiểu bằng việc học, bằng tri thức, bằng việc đọc kinh sách và ghi nhớ các triết lí. Bạn phải sống nó để biết nó. Cách duy nhất để biết là sống nó. Cách duy nhất để biết là mang tính tồn tại, nó không phải là trí năng. Tôi đã nghe một giai thoại rất nổi tiếng:
Nhiều năm trước đây đã có tin tức lan truyền rộng rãi trong giới hàn lâm về một học giả trẻ ở đại học truyền thống cổ Do Thái ở Ba Lan. Anh ta đã được đón chào bởi vì hiểu biết nhiều và bởi sự tập trung vào nghiên cứu. Khách thăm ra về với ấn tượng sâu sắc về anh thanh niên này.
Một hôm một quan chức truyền thống Do Thái cổ mời và hỏi ông hiệu trưởng về thanh niên này. 'Chàng thanh niên này có thực sự biết nhiều thế không?'
'Nói thực,' vị giáo sĩ già mỉm cười, 'tôi cũng chẳng biết. Anh thanh niên này nghiên cứu nhiều tới mức tôi không thể hiểu được làm thế nào anh ta có thể tìm ra thời gian để mà biết.'
Nếu bạn quá dính líu với trí tuệ của mình thì bạn sẽ không tìm ra thời gian để mà dính líu tới toàn bộ bản thể mình. Nếu bạn ở quá nhiều trong đầu mình thì bạn sẽ bỏ lỡ những cái đang có đấy. Cách duy nhất có thể được biết tới chỉ nếu bạn tham gia sâu sắc với sự tồn tại. Điều đó không thể được hiểu từ bên ngoài, bạn phải trở thành người tham gia.
Mới vài ngày trước, một giáo sư tâm lí đã ở đây. Ông ấy dạy ở Chicago. Ông ấy là người Ấn Độ, sống ở Mĩ. Ông ấy đã tới - ông ấy đã viết cho tôi trong gần hai năm: 'Tôi tới đây, tôi tới đây.' Thế rồi ông ấy tới, và ông ấy muốn biết về thiền. Trong mười, mười hai ngày ông ấy đã ở đây và ông ấy đã quan sát những người khác thiền, và ông ấy nói, 'Tôi đang quan sát.'
Nhưng làm sao bạn có thể quan sát được thiền? Bạn có thể thiền, đó là cách duy nhất để biết về nó. Bạn có thể thấy một thiền nhân từ bên ngoài - rằng người đó đang nhảy múa, hay rằng người đó đang đứng im lặng, hay rằng vâng, người đó đang ngồi - nhưng bạn đang định biết gì về nó?
Thiền không phải là ngồi, thiền không phải là nhảy múa, thiền không phải là đứng yên. Thiền là cái gì đó xảy ra trong chính bản thể người đó, sâu bên trong. Bạn không thể quan sát được nó, không thể có tri thức khách quan nào về nó cả.
Tôi bảo anh ta, 'Nếu bạn thực sự muốn thấy - nhảy múa đi.'
Anh ta nói, 'Trước hết tôi phải thấy đã, trước hết tôi phải tự thuyết phục mình rằng nó là cái gì đó, chỉ thế thì tôi mới làm.'
Thế rồi tôi nói, 'Nếu bạn cứ bám vào những ước định của mình thì bạn sẽ chẳng bao giờ làm đâu. Bởi vì cách duy nhất để biết là làm nó, và bạn nói bạn sẽ làm chỉ khi bạn đã biết nó. Thế thì điều đó là không thể được. Bạn đang đặt ra điều kiện không thể được mà nó sẽ không bao giờ xảy ra.'
Cứ dường như ai đó nói, 'Tôi sẽ yêu chỉ khi tôi đã biết tình yêu là gì.' Nhưng làm sao bạn có thể biết tình yêu mà không yêu? Bạn có thể quan sát hai người yêu cầm tay nhau, nhưng điều đó không phải là tình yêu. Ngay cả hai kẻ thù cũng có thể cầm tay nhau. Ngay cả khi hai người đang cầm tay nhau thì họ có thể không trong tình yêu, họ có thể chỉ giả vờ. Ngay cả lúc bạn thấy hai người làm tình với nhau, thì vẫn có thể không có tình yêu. Nó có thể là cái gì đó khác; nó có thể chỉ là dục thôi, không yêu. Không có cách nào để biết về tình yêu từ bên ngoài. Có những điều chỉ được phép lộ ra cho bạn khi bạn trở thành người trong cuộc.
Phật nói:
Nếu ông cố gắng nắm lấy đạo qua nhiều học hỏi, ông sẽ không hiểu đạo.
Có những điều có thể được hiểu bằng việc học - chúng ở bên ngoài mọi thứ, mọi vật khách quan. Đó là khác biệt giữa khoa học và tôn giáo. Khoa học không cần kinh nghiệm chủ thể. Bạn có thể vẫn còn ở bên ngoài và quan sát; nó là cách tiếp cận hướng tới chân lí.
Tôn giáo là cách tiếp cận chủ quan. Bạn phải đi vào bên trong, nội tâm; nó mang tính hướng nội. Bạn phải chìm sâu vào bên trong bản thể riêng của mình. Chỉ thế thì bạn mới có thể biết được. Chỉ từ trung tâm riêng của mình bạn mới có khả năng hiểu đạo là gì, pháp là gì - hay nói thượng đế là gì - nhưng bạn sẽ phải tham gia.
Bạn có thể biết thượng đế chỉ bằng việc trở thành thượng đế, không có cách khác. Bạn có thể biết tình yêu chỉ bằng việc trở thành người yêu. Và nếu bạn cho rằng rất mạo hiểm nếu không biết - và đi vào trong tình yêu đúng là mạo hiểm đấy - thế thì bạn sẽ vẫn còn không yêu, bạn sẽ vẫn còn là sa mạc.
Vâng, cuộc sống là mạo hiểm, và người ta nên đủ dũng cảm để nhận lấy mạo hiểm. Người ta không nên bao giờ cũng tính toán. Nếu bạn cứ tính toán cả đời mình, bạn sẽ bỏ lỡ tất cả. Nhận lấy mạo hiểm, dũng cảm vào.
Chỉ có một cách sống và đó là sống một cách hiểm nguy. Và điều này là nguy hiểm - rằng người ta phải đi mà không biết, người ta phải đi vào cái không biết. Do đó, lòng tin là cần thiết.
Phật nói:
Nếu ông cố gắng nắm lấy đạo qua nhiều học hỏi, ông sẽ không hiểu đạo. Nếu ông quan sát đạo bằng sự đơn giản của trái tim thì thực sự đây là đạo.
Bạn có thể thấy điều đó. Bạn có thể nhìn vào các học giả, những học giả lớn, và bằng cách nào đó bạn sẽ thấy họ đang bỏ lỡ. Họ có thể biết nhiều về Veda, Kinh Thánh, Koran, họ có thể trích dẫn, nhưng bạn có thể thấy không có rạng ngời trong mắt họ. Vâng, họ đã thu thập nhiều bụi bặm từ kinh sách, họ đã thu thập nhiều khói bụi qua tri thức. Họ thông thạo - nhưng gần như chết. Họ đã bỏ lỡ cuộc sống bằng cách nào đó, họ không thể tìm ra thời gian để biết cuộc sống là gì.
Tôi đã nghe:
Một học giả lớn và là một giáo sĩ, một bác học, dừng lại trong cửa hàng vật nuôi và hỏi giá của con vẹt. Ông chủ tiệm nói ông ấy sẽ không bán con vẹt đó cho ông này bởi vì mọi điều nó làm là thốt ra những lời tục tĩu. 'Nhưng,' ông chủ tiệm nói, 'tôi còn có con vẹt khác lấy từ Nam Mĩ. Khi nào tôi huấn luyện nó xong tôi sẽ điện cho ông tới lấy nó.'
Nhiều tháng sau nhà bác học, nhà học giả lớn này được bảo tới và xem con vẹt mà ông chủ tiệm đã dành cho ông ta. Ông chủ tiệm dẫn nhà bác học vào một phòng sau nơi con vẹt đang thuyết giảng với một dây ở mỗi chân. Ông chủ kéo sợi dây ở chân bên phải và con vẹt đọc luôn 'Lời cầu Chúa' từ đầu tới cuối.
'Thật tuyệt vời và có tính chất giáo dục đây!' nhà thuyết giáo, nhà bác học kêu lên - đó chính là điều bản thân ông ấy đã làm cả đời mình. Thế rồi ông ấy kéo sợi dây ở chân trái và con vẹt buột lời nói 'Hãy lại gần hơn ba Chúa tôi'. 'Quá hay!' nhà thuyết giáo kêu lên. 'Bây giờ hãy cho tôi biết, điều gì sẽ xảy ra nếu tôi đồng thời kéo cả hai dây?' Trước khi ông chủ tiệm kịp đáp lại thì con vẹt đã nói, 'Ông ngu lắm! Tôi sẽ ngã dập đít chứ còn sao nữa!'
Điều đó là đơn giản, ngay cả con vẹt cũng biết điều đó, nhưng nhà bác học - ông ta còn tệ hơn cả con vẹt. Ông ta đơn giản sống trong các ý tưởng, ông ta sống trong logic, ông ta sống cuộc sống bằng lời. Ông ta đã quên mất hoa hồng thực, ông ta chỉ quen với từ 'hoa hồng'. Ông ta đã quên mất cuộc sống thực, ông ta chỉ biết từ 'cuộc sống'. Nhớ lấy, từ 'cuộc sống' không phải là cuộc sống, từ 'tình yêu' không phải là tình yêu, từ 'thượng đế' không phải là thượng đế. Cuộc sống thực là sự tồn tại, là kinh nghiệm.
Chuyện xảy ra:
Một sinh viên mới tốt nghiệp trường nông nghiệp làm giám định viên của chính phủ về đất đai và kho tàng của nông dân. Anh ta bảo họ anh ta đang làm một đánh giá để chính phủ có thế giúp nông dân thoát khỏi mắc nợ. Cho nên anh ta giám định mọi thứ, ghi chép cẩn thận vào cuốn sổ nhỏ ngăn nắp. Khi anh ta cho rằng mọi thứ đều đã được viết hết ra rồi anh ta thấy một con vật thò đầu ngó quanh bên kho thóc. ‘Cái đó là cái gì vậy? Và nó để làm gì?' chàng thanh niên hỏi. Đó là một con dê già, nhưng người nông dân lại không định giúp cho anh giám định trẻ khôn lỏi này. 'Anh là chuyên gia,' người nông dân nói. 'Anh nói cho tôi biết đi.'
Bây giờ điều đó rất khó. Anh ta chưa bao giờ thấy một vật như vậy. Anh ta đã từng học trong đại học, anh ta biết mọi thứ về nông nghiệp, nhưng anh ta lại chưa bao giờ làm cái gì. Anh ta không có kinh nghiệm. Anh ta chưa bao giờ bắt gặp con vật nào như con dê. Do đó chàng thanh niên đã gửi một bức điện về New Delhi nhờ họ nhận diện cho anh ta về 'một đối tượng dài, gầy còm, với cái đầu trọc lốc, có râu ở cằm, cái bụng lép trống rỗng, khuôn mặt dài buồn bã, và đôi mắt tái nhợt'. Ngày hôm sau anh ta nhận được trả lời từ viên thư kí nông nghiệp: 'Cậu ngu hết sức! Đó là người nông dân!'
Nhớ lấy, cái đầu có thể rất tách rời; nó có thể ngắt bạn khỏi cuộc sống. Dùng cái đầu nhưng đừng bị giới hạn vào nó. Dùng trí tuệ của bạn để tiếp cận tới sự tồn tại, đừng làm ra rào chắn từ nó.
Nếu ông cố gắng nắm lấy đạo qua nhiều học hỏi, ông sẽ không hiểu đạo. Nếu ông quan sát đạo bằng sự đơn giản của trái tim thì thực sự đây là đạo.
Với sự đơn giản của trái tim... Cuộc sống có thể được biết tới chỉ với trái tim đơn giản. Cái đầu rất phức tạp còn cuộc sống rất đơn giản. Từ cái đầu phức tạp rất khó hiểu được cuộc sống đơn giản. Cuộc sống đơn giản là đơn giản. Bạn cũng phải đơn giản thôi.
Đứa trẻ hiểu nhiều hơn. Nó có quan hệ với cuộc sống. Nhà thơ hiểu nhiều hơn. Ông ấy có quan hệ. Nhà huyền môn hiểu nhiều hơn - hiểu biết của người đó là sâu sắc và cực kì sâu bởi vì người đó đã bỏ hoàn toàn cái đầu. Người đó nhìn qua đôi mắt trẻ thơ, người đó tiếp cận với sự ngạc nhiên, kính nể.
Người đó ngạc nhiên ở mọi bước. Người đó không có ý tưởng nào, không có ý tưởng cố định để phóng chiếu. Người đó không có định kiến nào: người đó không là người Hindu giáo, không là người Mô ha mét giáo, không là người Ki tô giáo. Người đó đơn giản hiện hữu. Người đó có trái tim rộn ràng, trái tim yêu thương. Thế là đủ yêu cầu để biết cuộc sống là gì.
Vĩ đại thực sự là theo cách này... được biết tới - được biết qua trái tim. Tốt hơn nên gọi nó là được cảm thấy - được cảm thấy qua trái tim.
Cuộc sống rất đơn giản. Đôi khi bạn gạt cái đầu ra đấy, đôi khi bạn tự không có đầu đi, đôi khi nhìn mà không mây mù gì trong mắt - chỉ nhìn thôi. Đôi khi ngồi bên cạnh cây - chỉ cảm. Ở bên cạnh thác nước - chỉ nghe. Nằm dài trên bãi biển và nghe tiếng ì ầm của đại dương, cảm thấy cát, cái mát mẻ của nó, hay nhìn lên các vì sao, và để cho cái im lặng đó thấm vào trong bạn. Hay nhìn vào đêm tối và để cho bóng tối như nhung bao quanh bạn, bao bọc bạn, làm tan biến bạn. Đây là cách thức của trái tim đơn giản.
Nếu bạn tiếp cận tới cuộc sống qua sự đơn giản này bạn sẽ trở thành trí huệ. Bạn có thể không biết về Veda, bạn có thể không biết về Kinh Thánh, bạn có thể không biết về Gita, nhưng bạn sẽ đi tới biết bài ca thực của cuộc sống - và đó là chỗ mà Gita thực hiện hữu, bài ca thực hiện hữu. Bạn có thể không biết tới Veda, nhưng bạn sẽ đi tới biết Veda thực - cái được đích thân thượng đế viết nên.
Cuộc sống này là cuốn sách của ngài, cuộc sống này là Kinh Thánh của ngài, cuộc sống này là Koran của ngài. Trích dẫn nó! Trích dẫn cuộc sống này. Ca hát nó, nhảy múa nó, hiện hữu trong tình yêu với nó - và dần dần bạn sẽ biết đạo là gì, bởi vì dần dần bạn sẽ trở nên ngày một hạnh phúc hơn. Bạn càng trở nên hạnh phúc hơn, bạn càng quen hơn với đạo, con đường đúng. Và bất kì khi nào một bước đi ra khỏi con đường, lập tức bạn cảm thấy đau.
Đau là chỉ dẫn rằng bạn đã bỏ lỡ luật, còn hạnh phúc là chỉ dẫn rằng bạn đã ở trong hài hoà. Hạnh phúc là sản phẩm phụ. Nếu bạn đi theo cùng luật, bạn hạnh phúc. Bất hạnh là cái không chủ yếu. Nó đơn giản chỉ ra bạn đã đi xa khỏi luật rồi.
Làm hạnh phúc và bất hạnh thành tiêu chí cho bạn. Đó là lí do tại sao tôi cứ nói mãi rằng tôi là người theo chủ nghĩa hưởng lạc. Thực tế Phật là người theo hưởng lạc, Mahavira là người theo hưởng lạc, Krishna là người theo hưởng lạc, Mohammed là người theo hưởng lạc, bởi vì tất cả họ đều muốn bạn trở nên cực kì hạnh phúc. Và họ chỉ cho bạn con đường.
Con đường là: trở nên đơn giản, tin nhiều hơn, hoài nghi ít dần đi. Nếu bạn thực sự hoài nghi, hãy hoài nghi cái hoài nghi, có vậy thôi. Hoài nghi việc hoài nghi, tin vào lòng tin - và bạn sẽ không bao giờ bỏ lỡ.
Những người hân hoan trong việc thấy người khác đi theo đạo sẽ được phúc lạc lớn lao.
Và Phật nói không chỉ những người tuân theo đạo mới được phúc lạc, mà ngay cả những người hân hoan trong việc thấy người khác đi theo đạo, họ cũng được phúc lạc vô cùng.
Vâng, nó là vậy. Bởi vì bằng việc hân hoan rằng biết bao nhiêu người đang đi tới thiền... 'Tốt - Mình còn chưa đi tới, mình còn chưa có được dũng cảm, nhưng biết bao nhiêu người đã đi thế - tốt'... ngay cả điều này sẽ làm cho bạn hạnh phúc bởi vì điều này sẽ mở cánh cửa của bạn.
Bạn không kết án họ, bạn không nói rằng thiền là không thể được. Bạn nói, 'Điều đó là có thể - tôi còn chưa đủ dũng cảm, nhưng bạn đang đi trên đường - đi một cách hạnh phúc đi! Lời chúc của tôi cho bạn, lời chào mừng của tôi! Một ngày nào đó tôi hi vọng cũng tới và theo bạn.'
Phật nói nếu bạn chào mừng một sannyasin bạn đã chào mừng tương lai của mình. Nếu bạn thấy ai đó đi trên đường và bạn cảm thấy hạnh phúc, cực kì hạnh phúc - vẫn biết rõ rằng bạn không theo con đường này, bạn còn chưa sẵn sàng cho nó, nhưng bạn không kết án người kia, thực tế bạn hân hoan, bạn thấy người đó đi trên con đường này - bạn đã bắt đầu đi theo con đường đó đấy.
Đó là điều tôi nói ngay từ đầu với bạn: trong cuộc sống bất kì khi nào bạn nghe thấy ai đó đã trở thành sannyasin, đừng bắt đầu kết án người đó - hân hoan đi. Khi ai đó bắt đầu thiền, đừng kết án người đó rằng người đó điên hay cái gì đó - hân hoan đi. Bằng hân hoan của mình bạn đang đem những khả năng thiền riêng của mình gần hơn với bạn. Bằng hân hoan bạn đã lấy tính chất sannyas theo cách sâu sắc hơn. Bên trong điều đó đã xảy ra, bên ngoài nó sẽ tới. Điều đó không quan trọng đến thế.
Phật nói:
Những người hân hoan trong việc thấy người khác đi theo đạo sẽ được phúc lạc lớn lao.
Đó là lí do tại sao trên đất nước này sannyasin bao giờ cũng được kính trọng vô cùng. Cho dù đôi khi một người chỉ mặc áo choàng da cam và không phải là sannyasin chút nào - dẫu thế người đó vẫn được kính trọng. Bởi vì chúng ta là ai mà quyết định liệu người đó có là một sannyasin thực hay không? Phật nói, 'Hân hoan đi!'
Tôi đã nghe một câu chuyện cổ:
Một người vốn là một tên trộm lớn đến ăn trộm cung điện nhà vua, và vào lúc người đó trốn ra thì bị lộ, cho nên lính gác đuổi theo người đó. Người đó đang trong tình thế cực kì nguy hiểm. Người đó chạy tới bờ sông và ngựa của lính đang đuổi theo sát nút và người đó có thể nghe thấy tiếng động đang mỗi lúc một tiến lại gần hơn, mà dòng sông thì lớn và không có cầu. Người đó sợ hãi, và lúc đó lại là đêm lạnh - cho nên phải làm gì đây?
Không thấy cái gì, không còn khả năng nào, người đó thấy một sannyasin đang ngồi dưới gốc cây. Người đó vứt hết quần áo, trở thành trần trụi, nhắm mắt lại bắt đầu thiền - tất nhiên, giả vờ thôi, bởi vì người đó chưa bao giờ biết thiền là gì. Nhưng bạn có thể giả vờ, bạn có thể nhắm mắt, bạn có thể ngồi trong tư thế padmasana, tư thế hoa sen. Người đó nhắm mắt lại.
Lính tới, cảnh sát tới. Không có ai cả, chỉ mỗi hai sannyasin này. Họ chạm chân các sannyasin. Người này bên trong bắt đầu cảm thấy rất, rất mặc cảm. 'Điều này thực không tốt,' người đó nghĩ. 'Mình là kẻ cắp, kẻ trộm, mà những người này lại đi chạm chân mình. Và mình chỉ là sannyasin giả. Và biết bao nhiêu kính trọng đã được dành cho sannyasin giả này, điều gì sẽ xảy ra nếu mình thực sự trở thành một sannyasin?' Một tia sáng đi vào cuộc sống người đó. Người đó vứt bỏ con đường cũ, người đó trở thành một sannyasin.
Danh tiếng người đó lan rộng. Một hôm ngay cả vua cũng tới chạm chân người đó. Và vua hỏi người đó, 'Chuyện xảy ra với thầy như thế nào? Thầy đã từ bỏ thế giới như thế nào? Ta cũng hi vọng, mơ ước rằng một ngày nào đó phúc lành lớn lao sẽ mưa rào lên ta, thượng đế sẽ cho ta dũng cảm để từ bỏ mọi thứ. Làm sao thầy đã từ bỏ, thưa thầy? Xin kể ta câu chuyện này. Điều đó sẽ cho ta dũng cảm.'
Người cựu trộm bắt đầu cười. Người đó nói, 'Tôi sẽ kể cho bệ hạ. Bệ hạ đã giúp tôi nhiều rồi - lính của bệ hạ đuổi tôi.'
Nhà vua nói, 'Thầy ngụ ý gì vậy?' Thế là người này kể lại toàn bộ câu chuyện. Người đó nói, 'Và khi tôi thấy rằng một sannyasin giả như tôi - một tên trộm, một kẻ giết người - mà cũng có thể được kính trọng, thì bỗng nhiên tôi không thể nào trở lại những con đường cũ của mình được nữa. Và tôi cảm thấy tuyệt vời thế khi họ chạm chân tôi. Tôi chưa bao giờ cảm thấy điều đó trước đây. Đó là khoảnh khắc đẹp thế. Và rồi từ đó tôi đã thiền, và rồi từ đó tôi đã thực sự từ bỏ thế giới, và tôi cực kì hạnh phúc. Tôi đã về tới nhà.'
Phật nói ngay cả những người hân hoan khi thấy người khác tuân thủ luật... Đừng bao giờ kết án - cho dù đôi khi điều đó là có thể; điều đó bao giờ cũng có thể. Khi có những đồng tiền thật thì nhất định cũng có đồng tiền giả nữa. Khi nhiều kính trọng được trao cho sannyasin, thì nhất định có những người sẽ lừa dối. Nhưng đấy không phải là vấn đề. Họ có thể lừa được cái gì? Họ có thể bịp được cái gì? Bạn thu được cái gì? Nhưng cứ hân hoan.
Một shramana hỏi Phật: Phúc lạc này có bao giờ bị phá huỷ đi không?'
Điều đó có phải là thứ nhất thời không khi chúng ta hân hoan với việc người khác đang trong thiền? Dự lưu này đã nghe, người đó biết rằng nếu bạn thiền thì bạn đạt tới phúc lạc vĩnh hằng - nhưng chỉ bởi việc hân hoan thôi bởi vì người khác đang đạt tới... phúc lành này có bao giờ bị phá huỷ không?
Phật nói:
Điều đó cũng giống như một ngọn đuốc thắp sáng và lửa của nó được san sẻ sang nhiều ngọn đuốc khác mà mọi người có thể đem đi. Và với lửa đó họ sẽ nấu thức ăn và xua tan bóng tối, trong khi ngọn đuốc ban đầu bản thân nó vẫn còn cháy mãi như cũ. Điều đó thậm chí vẫn như vậy với phúc lạc của đạo.
Phật đang nói những người theo đạo, họ trở thành phúc lạc, nhưng ngay cả những người đơn giản hân hoan khi thấy nhiều người đi theo đạo, họ cũng trở thành phúc lạc. Và không chỉ nhất thời, không chỉ khoảnh khắc đâu - phúc lạc của họ cũng là vĩnh hằng. Thực tế, bằng chính việc hân hoan của mình mà họ đã trở thành bạn đồng hành. Sâu bên trong họ đã đi trên cùng cuộc hành trình; bên ngoài sẽ tuân theo - điều đó không phải là vấn đề cơ bản.
Nhưng khi bạn kết án những người đang đi theo con đường này, khi bạn kết án những người đang cầu nguyện, thiền, khi bạn kết án những người bằng cách nào đó cố gắng cảm nhận và dò dẫm trong bóng tối để tìm con đường này, bạn đang kết án bản thân mình đấy. Bạn đang nguyền rủa mình đấy. Cánh cửa của bạn sẽ bị đóng lại, tiềm năng của bạn sẽ vẫn còn là tiềm năng mà thôi, sẽ không bao giờ được hiện thực hoá.
Bạn giống như hạt mầm, và nếu ai đó đã nở hoa và bừng nở, hân hoan đi. Trong chính hân hoan đó bạn sẽ bắt đầu đâm chồi. Đừng nói rằng không có hoa bởi vì chúng đã không xảy ra cho bạn. Nếu bạn nói không có hoa bởi vì chúng đã không xảy ra cho bạn thì làm sao chúng có thể xảy ra cho ai khác được...
Friedrich Nietzsche nói cùng điều đó. Ông ấy nói, 'Làm sao có thể có thượng đế nào được? Nếu có thượng đế nào thì tôi là thượng đế. Nếu tôi không hiện hữu, thì không thể có thượng đế nào cả. Làm sao tôi có thể dung thứ được cho ý tưởng rằng ai đó khác là thượng đế? Không thể được, tôi không thể cho phép ý tưởng này.' Ông ấy nói, 'Thượng đế chết rồi, thượng đế không tồn tại.'
Nhưng thế thì con người bị bỏ lại trong quên lãng. Thế thì không có cách nào để đi lên cả. Thế thì bạn có thể cứ già đi, nhưng bạn không bao giờ trưởng thành, bạn không bao giờ trở thành người trưởng thành. Nhớ lấy điều đó! Già đi không phải là trưởng thành. Trưởng thành nghĩa là đích xác điều nó nói - trưởng thành, lớn lên. Già đi là theo chiều ngang, trưởng thành là theo chiều đứng.
Trưởng thành nghĩa là lớn lên như cây. Già đi là giống như dòng sông - nó vẫn còn theo chiều ngang, nó không thay đổi tầm mức, nó không thay đổi bình diện của nó.
Nếu ai đó khác đang trưởng thành, hân hoan, mở hội đi. Ít nhất một người đã trở thành vị phật. Tốt - người đó đã chỉ ra con đường. Thực tế, trong người đó tất cả mọi người đều đã trở thành chư phật về bản chất, bởi vì bất kì điều gì có thể xảy ra cho một con người thì đều có thể xảy ra cho mọi con người khác.
Chúng ta có thể không trở thành chư phật trong các kiếp sống cùng nhau, nhưng điều đó không thành vấn đề. Một người đã trở thành vị phật - người đó đã chỉ ra khả năng này. Có thể chúng ta phải chờ đợi lâu, nhưng chúng ta có thể chờ đợi bởi vì buổi sáng đang tới gần hơn rồi. Nó phải tới; nó đã tới một người, nó sẽ tới với chúng ta nữa. Chính bóng tối và đêm rất dài, nhưng bây giờ có hi vọng rồi.
Hân hoan với vị phật đang tạo ra hi vọng cho bản thân bạn. Thế thì cuộc sống của bạn không còn vô vọng nữa. Cuộc sống vô vọng là cuộc sống chán chường, và cuộc sống có hi vọng, chính khả năng này... có thể nó sẽ xảy ra sau nhiều, nhiều kiếp sống; điều đó không thành vấn đề, người ta có thể chờ đợi - nhưng người ta có thể chờ đợi với hi vọng.
Điều đó cũng giống như một ngọn đuốc thắp sáng và lửa của nó được san sẻ sang nhiều ngọn đuốc khác mà mọi người có thể đem đi. Và với lửa đó họ sẽ nấu thức ăn và xua tan bóng tối, trong khi ngọn đuốc ban đầu bản thân nó vẫn còn cháy mãi như cũ. Điều đó thậm chí vẫn như vậy với phúc lành của đạo.
Mục lục chính
Mục lục chính
Nhận xét
Đăng nhận xét