Chương 4. Tôi là người say
Chương 4. Tôi là người say
Câu hỏi thứ nhất:
Thưa thầy kính yêu,
Nếu ghen tuông, sở hữu, gắn bó, nhu cầu và mong đợi và ham muốn và ảo tưởng bị vứt bỏ, cái gì sẽ còn lại trong tình yêu của tôi? Có phải mọi thơ ca và đam mê của tôi đều là dối trá không? Những đau đớn tình yêu của tôi có liên quan nhiều tới đau đớn hơn là với tình yêu không? Tôi có học yêu được không? Hay đấy không phải là việc học mà là món quà, kết quả tự nhiên từ cái gì đó khác? Ân huệ giáng xuống?
Satya này, tình yêu không thể được học, nó không thể được trau dồi. Tình yêu trau dồi sẽ không là tình yêu chút nào. Nó sẽ không là hoa hồng thực, nó sẽ là hoa giả thôi. Khi bạn học cái gì đó, điều đó nghĩa là cái gì đó tới từ bên ngoài; nó không phải là trưởng thành bên trong. Và tình yêu phải là trưởng thành bên trong của bạn nếu nó là chân thực và thực sự.
Tình yêu không phải là học tập mà là trưởng thành. Mọi điều cần thiết về phần bạn không phải là học cách yêu, mà là gỡ bỏ cách không yêu. Rào cản phải được dỡ bỏ, chướng ngại phải bị phá huỷ - thế thì tình yêu là bản thể tự nhiên, tự phát của bạn. Một khi chướng ngại đã được loại bỏ, tảng đá đã bị vứt đi, luồng chảy bắt đầu. Nó đã có đó rồi - bị ẩn kín đằng sau nhiều tảng đá, nhưng dòng suối thì đã có đó rồi. Nó là chính bản thể của bạn.
Nó là món quà, nhưng không phải là cái gì đó sẽ xảy ra trong tương lai; nó là món quà đã xảy ra cùng việc sinh của bạn. Hiện hữu là yêu đấy. Có khả năng thở là đủ để có khả năng yêu. Yêu giống như thở vậy. Nếu thở dành cho thân thể vật lí, yêu dành cho bản thể tâm linh. Không có thở thân thể chết; không có yêu linh hồn chết.
Cho nên điều đầu tiên cần được ghi nhớ: Nó không phải là cái gì đó bạn có thể học được. Và nếu bạn học bạn sẽ bỏ lỡ toàn thể vấn đề; bạn sẽ học cái gì đó khác nhân danh tình yêu. Nó sẽ là rởm, giả. Và đồng tiền giả có thể dường như đồng tiền thật; và nếu bạn không biết cái thật, cái giả có thể cứ lừa bạn. Chỉ bằng việc biết cái thực, bạn mới có khả năng thấy phân biệt giữa cái giả và cái thực.
Và mọi điều này đều là chướng ngại: ghen tuông, sở hữu, gắn bó, trông đợi, ham muốn... Và Satya này, nỗi sợ của bạn là đúng rằng, 'Nếu mọi cái này biến mất, cái gì sẽ còn lại từ tình yêu của tôi?'
Chẳng cái gì sẽ còn lại từ tình yêu của bạn. Tình yêu sẽ còn lại... nhưng tình yêu không có liên quan gì tới cái 'tôi' hay 'bạn'. Thực ra, khi tất cả sở hữu, tất cả ghen tuông, tất cả trông đợi đều biến mất, tình yêu không biến mất - bạn biến mất, bản ngã biến mất. Những điều này là cái bóng của bản ngã.
Không phải yêu là ghen đâu. Quan sát, nhìn, lại theo dõi. Khi bạn cảm thấy ghen, đấy không phải là yêu cảm thấy ghen đâu; yêu chưa bao giờ biết gì tới ghen. Cũng như mặt trời chưa bao giờ biết gì tới bóng tối, yêu chưa bao giờ biết gì tới ghen.
Chính bản ngã cảm thấy đau, chính bản ngã cảm thấy cạnh tranh, trong tranh đấu thường xuyên. Chính bản ngã mới tham vọng và muốn cao hơn người khác, muốn là ai đó đặc biệt. Chính bản ngã bắt đầu cảm thấy ghen tuông, sở hữu - bởi vì bản ngã có thể tồn tại được chỉ với sở hữu. Bạn càng sở hữu nhiều, bản ngã càng được làm mạnh thêm; không sở hữu gì bản ngã không thể tồn tại được. Nó nghiêng về sở hữu, nó phụ thuộc vào sở hữu. Cho nên nếu bạn có nhiều tiền, nhiều quyền, nhiều danh, đàn bà đẹp, đàn ông đẹp, con cái đẹp, bản ngã cảm thấy được nuôi dưỡng nhiều lắm. Khi sở hữu biến mất, khi bạn không sở hữu cái gì, bạn sẽ không tìm thấy bản ngã bên trong. Sẽ không có ai có thể nói 'tôi'.
Và nếu bạn nghĩ đây là tình yêu của bạn, thế thì chắc chắn tình yêu của bạn cũng sẽ biến mất. Tình yêu của bạn không thực là tình yêu đâu. Nó là ghen tuông, sở hữu, thù hận, giận dữ, bạo hành; nó là nghìn lẻ một thứ ngoại trừ tình yêu. Nó đeo mặt nạ là tình yêu - bởi vì mọi điều này đều xấu tới mức chúng không thể tồn tại được nếu thiếu mặt nạ.
Một chuyện ngụ ngôn cổ:
Thế giới được tạo ra, và Thượng đế mọi ngày đều gửi những điều mới tới thế giới. Một hôm ngài phái các cô Đẹp và Xấu tới thế giới. Đó là cuộc hành trình dài từ thiên đàng tới địa đàng. Kkhoảnh khắc họ tới lúc đó đã là sáng sớm, mặt trời sắp lên. Họ tiếp đất gần cái hồ và cả hai quyết định tắm cái đã bởi vì toàn thể thân thể, quần áo đều đầy bụi bặm. Không biết các con đường của thế giới - họ còn mới thế - họ cởi quần áo ra; hoàn toàn trần truồng, họ nhảy xuống nước mát của hồ. Mặt trời lên, mọi người bắt đầu tới.
Cô Xấu giở thủ đoạn: khi cô Đẹp bơi ra xa giữa hồ, Xấu trèo lên bờ, đeo đồ trang sức của Đẹp vào, và trốn mất. Vào lúc Đẹp trở nên nhận biết rằng 'Mọi người đang tới rồi mà mình lại trần truồng,' và cô ta nhìn quanh... quần áo của cô ấy mất rồi! Xấu chuồn đi rồi còn Đẹp đang đứng trần truồng trong ánh mặt trời, và đám đông đang tới gần hơn. Chẳng tìm ra cách nào, cô ta đành mặc quần áo của Xấu và đi tìm Xấu để cho họ có thể đổi lại quần áo.
Câu chuyện kể rằng cô ấy vẫn còn đang tìm đấy... nhưng Xấu lại tinh ranh và cứ trốn hoài. Xấu vẫn mặc quần áo của Đẹp, đeo mặt nạ là Đẹp, còn Đẹp đang đi trong quần áo của Xấu.
Đó là một câu chuyện ngụ ngôn cực kì hay.
Mọi thứ này đều xấu tới mức bạn không thể dung thứ ở cùng với chúng được cho dù chỉ một khoảnh khắc nếu bạn thấy thực tại của chúng. Cho nên chúng không cho phép bạn thấy thực tại. Ghen tuông giả vờ là tình yêu, sở hữu tạo ra mặt nạ tình yêu... và thế thì bạn thấy thoải mái.
Bạn không lừa được ai khác đâu, Satya này, ngoài bản thân bạn.
Mulla Nasruddin đi qua bên cạnh một nghĩa địa. Anh ta thấy một nấm mồ; trên nấm mồ đó có một tảng đá và trên tảng đá viết: 'Ta không chết - ta chỉ đang ngủ say.'
Mulla bật cười đau cả bụng. Anh ta nói, 'Ông chẳng lừa được ai ngoài bản thân ông.'
Satya này, những điều này không phải là tình yêu đâu. Cho nên điều bạn biết là tình yêu, điều bạn đã biết cho tới bây giờ là tình yêu, sẽ biến mất. Nó chẳng có thơ ca gì trong nó cả. Vâng, đam mê thì có đấy - nhưng đam mê là trạng thái phát sốt, đam mê là trạng thái vô ý thức. Đam mê không mang tính thơ ca. Thơ ca chỉ được biết tới bởi chư phật - thơ ca của cuộc sống, thơ ca của sự tồn tại.
Kích động, phát sốt, không phải là cực lạc. Chúng có vẻ giống, đấy mới là vấn đề. Trong cuộc sống nhiều thứ có vẻ giống nhau và khác biệt rất tinh vi và tế nhị và vi tế. Kích động có thể có vẻ giống cực lạc - nó không phải vậy, bởi vì cực lạc về cơ bản là mát mẻ. Đam mê là nóng; tình yêu là mát, không lạnh nhưng mát Hận thù là lạnh. Đam mê, thèm khát là nóng. Tình yêu đích xác ở giữa. Nó mát mẻ - không lạnh không nóng. Nó là trạng thái của yên bình vô cùng, bình thản, chân thành, im lặng. Và từ im lặng đó là thơ ca, từ im lặng đó là bài ca, từ im lặng đó nảy sinh điệu vũ của bản thể bạn.
Điều bạn gọi là thơ ca và đam mê không là gì ngoài dối trá - với mẽ ngoài đẹp đẽ. Trong số một trăm nhà thơ của bạn, chín mươi chín người không thực là nhà thơ mà chỉ là người trong trạng thái rối loạn, xúc động, đam mê, thèm khát, dục tình, dâm dục. Chỉ một người trong số một trăm nhà thơ của bạn mới là nhà thơ thực.
Và nhà thơ thực có thể chẳng bao giờ soạn ra bài thơ nào, bởi vì toàn thể bản thể người đó là thơ ca rồi. Cách người đó bước, cách người đó ngồi, cách người đó ăn, cách người đó ngủ - tất cả đều là thơ ca. Người đó tồn tại như thơ ca. Người đó có thể sáng tác thơ, người đó có thể không sáng tác thơ, điều đó không liên quan.
Nhưng điều bạn gọi là thơ ca không là gì ngoài cách diễn đạt của cơn sốt của bạn, của trạng thái tâm thức nóng bức của bạn. Nó là trạng thái điên rồ. Đam mê là mất trí, mù quáng, vô ý thức và nó là dối trá. Nó là dối trá bởi vì nó cho bạn cảm giác cứ dường như nó là tình yêu.
Yêu là có thể chỉ khi thiền đã xảy ra. Nếu bạn không biết cách được định tâm trong bản thể mình, nếu bạn không biết cách nghỉ ngơi và thảnh thơi trong bản thể mình, nếu bạn không biết cách hoàn toàn một mình và phúc lạc, bạn sẽ không bao giờ biết yêu là gì.
Yêu có vẻ như quan hệ nhưng bắt đầu trong trạng thái một mình sâu sắc. Yêu diễn đạt như việc quan hệ, nhưng cội nguồn của yêu không ở trong việc quan hệ; cội nguồn của yêu là trong thiền. Khi bạn tuyệt đối hạnh phúc trong tính một mình của mình - khi bạn không cần người khác chút nào, khi người khác không phải là nhu cầu - thế thì bạn có khả năng của yêu. Nếu người khác là nhu cầu của bạn, bạn chỉ có thể khai thác, thao túng, chi phối, nhưng bạn không thể yêu được.
Bởi vì bạn phụ thuộc vào người khác, sở hữu nảy sinh - từ nỗi sợ. 'Ai biết được? Người ấy cùng mình hôm nay; ngày mai người ấy có thể không cùng mình nữa. Ai biết được về khoảnh khắc tiếp?' Người đàn bà của bạn có thể bỏ bạn, con bạn có thể lớn lên và sẽ ra đi, chồng bạn có thể bỏ bạn mà đi. Ai biết được về khoảnh khắc tiếp? Từ nỗi sợ đó về tương lai mà bạn trở nên rất sở hữu. Bạn tạo ra tù túng quanh người bạn nghĩ bạn yêu.
Nhưng yêu không thể tạo ra nhà tù được - và nếu yêu tạo ra nhà tù, thế thì chẳng cái gì được để lại cho hận thù làm. Yêu đem tới tự do, yêu cho tự do. Nó là không sở hữu. Nhưng điều đó là có thể chỉ nếu bạn đã biết phẩm chất khác toàn bộ của yêu, không phải là nhu cầu mà là chia sẻ.
Yêu chia sẻ vui vẻ tuôn trào. Bạn quá tràn đầy vui vẻ; bạn không thể chứa được nó, bạn phải chia sẻ nó. Thế thì có thơ ca và thế thì có cái gì đó cực kì đẹp không phải của thế giới này, mà là cái gì đó tới từ cõi bên kia. Tình yêu này không thể được học, nhưng chướng ngại có thể được loại bỏ.
Nhiều lần tôi nói học nghệ thuật yêu, nhưng điều tôi thực sự ngụ ý là: học nghệ thuật loại bỏ mọi cái cản trở yêu. Nó là quá trình phủ định. Nó giống như đào giếng: bạn cứ loại bỏ đi nhiều tầng đất, đá, đá tảng, và thế rồi đột nhiên có nước. Nước bao giờ cũng có đó rồi; nó là dòng chảy ngầm. Bây giờ bạn đã loại bỏ đi tất cả rào chắn, nước sẵn có đấy. Yêu cũng vậy: yêu là dòng chảy ngầm của bản thể bạn. Nó đã tuôn chảy rồi, nhưng có nhiều tảng đá, nhiều tầng đất cần phải bị loại bỏ.
Đó là điều tôi ngụ ý khi tôi nói: học nghệ thuật yêu. Nó thực sự không phải là học yêu mà là tháo dỡ cách thức của không yêu.
Khoảnh khắc bạn được định tâm trong bản thể mình, được bắt rễ vào bản thể mình, bạn trở nên tràn đầy ân huệ, dường như Thượng đế đã thấm nhuần vào bạn. Bạn trống rỗng và Thượng đế bắt đầu giáng xuống bạn. Ngài có thể giáng xuống chỉ khi bạn không có: sự vắng mặt của bạn trở thành sự hiện diện của ngài.
Thượng đế không phải là người mà là sự hiện diện. Và hai thanh kiếm không thể để cùng trong một vỏ bao được: hoặc bạn có thể tồn tại, hoặc Thượng đế. Bạn phải biến mất, bay hơi. Sự vắng mặt của bạn là điều tính chất sannyas tất cả là gì.
Quá trình của tính chất sannyas là quá trình trở nên vắng mặt ngày một nhiều, để cho một ngày nào đó chỉ còn không gian trống rỗng bên trong chứ không cái gì khác. Trong trống rỗng đó, bất kì khi nào nó là toàn bộ, lập tức Thượng đế được cảm thấy liền. Thượng đế được cảm thấy như sự hiện diện - và Thượng đế là cái tên khác cho tình yêu. Và biết Thượng đế là biết thơ ca, biết Thượng đế là biết lễ hội, biết Thượng đế là biết phúc lạc - sat-chit-anand.
Đó là cách thức các nhà huyền môn ở phương Đông đã định nghĩa Thượng đế: sat nghĩa là chân lí, chit nghĩa là tâm thức, anand nghĩa là phúc lạc. Nếu bạn hoàn toàn trống rỗng, bạn sẽ đi tới biết ba điều này.
Lần đầu tiên bạn sẽ có nếm trải về chân lí, kinh nghiệm nào đó về tâm thức, hương vị nào đó của phúc lạc.
Nhưng, Satya này, ngay bây giờ, mặc dầu điều đó gây đau cho bạn bởi vì nó mang tính rất huỷ diệt... điều tôi đang nói sẽ gây choáng cho bạn. Bạn đã tin vào thơ ca của bạn, vào đam mê của bạn, bạn đã tin vào ảo tưởng và mơ mộng của bạn và bạn đã cảm thấy vĩ đại bởi vì mọi điều này. Và tôi đang nói: mọi điều này đơn giản vô nghĩa. Mặc dầu đa số nhân loại vẫn sống trong ảo tưởng như vậy, mọi cái này chỉ là ảo cảnh. Nếu bạn thực sự muốn đương đầu với cuộc sống bạn sẽ phải sẵn sàng cho nhiều cú choáng, bạn sẽ phải sẵn sàng bị tan thành từng mảnh.
Chức năng của thầy là phá huỷ bạn, bởi vì chỉ khi bạn bị phá huỷ, hoàn cảnh mới được tạo ra mà trong đó Thượng đế có thể được cảm nhận. Cái chết của bạn là bắt đầu của sự tồn tại thiêng liêng.
Chết đi! Chết bản ngã đi, chết quá khứ của bạn đi, và bạn sẽ được phục sinh. Phục sinh đó sẽ làm cho bạn vượt ra ngoài cái chết, ra ngoài thời gian, ra ngoài khổ, ra ngoài thế giới này - điều Phật gọi là “vượt ra ngoài bờ bên này.'
Câu hỏi thứ hai:
Thưa thầy kính yêu,
Sao Jesus nói cho các đệ tử của ông ấy: tinh ranh như rắn và hồn nhiên như chim bồ câu?
Anand Jayesh này, rắn là biểu tượng của trí huệ. Trong mọi nền văn hoá cổ đại của thế giới - Do Thái, Hindu, Trung Quốc - rắn đều là biểu tượng duy nhất rất thông thường.
Bằng 'tinh ranh' Jesus không thực sự ngụ ý tinh ranh như bạn hiểu nó đâu. Trong tiếng Aramaic cổ đại, ngôn ngữ mà Jesus nói, chỉ có một từ dành cho cả hai 'trí huệ' và 'tinh ranh', do đó mới có việc dịch sai này.
Nhưng tại sao người Ki tô giáo đã chọn việc dịch nó là 'tinh ranh' mà không là 'trí huệ'? - bởi vì câu chuyện kinh thánh là ở chỗ chính rắn đi cám dỗ, làm biến chất tâm trí của Eve, thuyết phục cô ấy chống lại lệnh của Thượng đế và cứ ăn quả của cây tri thức. Bởi vì câu chuyện kinh thánh này mà rắn đã trở thành cội nguồn nguyên thuỷ của tội lỗi. Chính rắn đã thuyết phục Eve, thế rồi Eve thuyết phục Adam và nhân loại sa ngã khỏi ân huệ của Thượng đế. Adam và Eve đã bị đuổi ra khỏi vườn Địa đàng; do đó rắn trở thành hiện tượng bị kết án.
Nhưng trong thực tại chuyện ngụ ngôn này có một nghĩa hoàn toàn khác. Người Ki tô giáo sẽ không thừa nhận nghĩa đó. Tôi sẽ nêu nghĩa gì cho câu chuyện ngụ ngôn có ý nghĩa mênh mông thế? Nó có nhiều nghĩa. Đó là cái hay của các chuyện ngụ ngôn cổ đại: chúng có sự phong phú đa chiều. Chúng không một chiều, chúng đa chiều. Chúng có thể được diễn giải theo cả nghìn lẻ một cách; đó là sự phong phú của chúng. Chúng có nhiều khía cạnh; chúng giống như kim cương - và kim cương càng có nhiều mặt, nó càng có giá trị.
Khi viên kim cương kohinoor được tìm thấy lần đầu tiên nó là một hòn đá rất lớn, viên kim cương lớn nhất mà thế giới đã từng biết tới. Bây giờ nó chỉ còn một phần ba trọng lượng gốc của nó, bởi vì trong nhiều thời đại các thợ kim hoàn đã đánh bóng, cắt tỉa, lại đánh bóng và cắt tỉa; họ đã làm ra những mặt mới cho viên kim cương này. Bây giờ nó chỉ còn một phần ba trọng lượng của nó nhưng hàng triệu lần giá trị hơn. Các chuyện ngụ ngôn cổ cũng như vậy: chúng là các viên kohinoor. Nhưng vấn đề với cái gọi là tôn giáo là ở chỗ họ trở nên nghiện một nghĩa. Thế rồi họ trở nên sợ các nghĩa khác, các khả năng khác.
Rắn không tinh ranh đâu, rắn là trí huệ trong chuyện ngụ ngôn đấy. Chính bởi vì trí huệ của nó mà nhân loại đã được sinh ra. Nếu như không có rắn, bạn đã không ở đây rồi - thậm chí chẳng có Jesus, chẳng có Phật. Thế giới này chắc đã thiếu nhân loại rồi. Chính rắn và trí huệ của nó tạo ra cuộc hành trình vĩ đại này của nhân loại - và nó có giá trị mênh mông; bằng không dù có cây cối và con vật và chim chóc, nhưng không có Lão Tử, không có Zarathustra, không có Krishna, không có Phật, không có Mohammed, không có Christ, không có Kabir, không có Nanak. Vâng, cây sẽ vẫn có đó và chim chóc và con vật, nhưng sự tồn tại sẽ thiếu đi cái gì đó quan trọng vô cùng; nó sẽ thiếu đi nhân loại, nó sẽ thiếu đi tâm thức con người, cái là điểm phát triển tối thượng cho tới giờ. Chính rắn và trí huệ của nó đấy! Rắn còn trí huệ hơn nhiều so với cả Eve và Adam, bởi vì nó dạy cho họ nổi dậy.
Trí huệ bao giờ cũng mang tính nổi dậy. Thực ra, nếu bạn hỏi tôi, Thượng đế đã trao cơ hội cho Adam và Eve nổi dậy đấy; do đó mới có lệnh không được ăn từ cây tri thức. Đây là sự kiện tâm lí đơn giản. Khu vườn lớn tới mức Adam và Eve, nếu bản thân họ được bỏ lại đó, sẽ chẳng bao giờ khám phá ra cây tri thức đâu; nó chỉ là một cây và có hàng triệu và hàng triệu cây.
Nhưng Thượng đế đã chỉ cái cây đó và nói, 'Đừng có ăn quả của cây này đấy.' Bằng việc nói điều này ông ấy lại khêu gợi. Thực ra, kẻ dụ dỗ đầu tiên là Thượng đế; rắn là kẻ dụ dỗ thứ hai. Rắn đơn giản là nhân viên của Thượng đế, sứ giả của Thượng đế. Thượng đế phải đã chờ đợi lâu sau khi ông ấy cấm... Bây giờ Adam và Eve nhất định là ăn quả của cây tri thức rồi.
Bạn có thể thử điều đó. Cấm lũ trẻ, 'Không ăn kem. Không lại gần tủ lạnh!' - và thế thì chúng nhất định sẽ tới. Chúng có thể không tới nếu bạn không bảo chúng đừng tới. Cấm đoán trở thành lời mời. Bạn đang thách thức chúng; bạn đang thách thức chúng tự khẳng định bản thân chúng.
Thượng đế đã thách thức Adam và Eve, và thế rồi ngài phải đợi thật lâu. Thách thức này đã không có tác dụng; Adam và Eve phải là những người rất vâng lời. Họ là những người đầu tiên trên thế gian; do đó họ có thể đã không nếm trải việc nổi dậy và vui vẻ của việc nổi dậy và trưởng thành mà việc nổi dậy đó đem lại. Nỗi khổ và cực lạc của nổi dậy còn chưa được biết đối với họ. Do đó rắn mới được dùng tới như sứ giả; trong toàn thể vương quốc loài vật, rắn đã được chọn là sứ giả của Thượng đế. Rắn là biểu tượng của trí huệ - và chính bởi vì rắn mà bạn mới ở đây. Rắn thực sự là người bố - người bố của nhân loại.
Phát biểu nguyên gốc của Jesus nghĩa là: Là trí huệ như rắn và hồn nhiên như chim bồ câu. Nhưng từ 'tinh ranh' lại cũng hay. Gurdjieff hay nói rằng chừng nào bạn còn chưa tinh ranh bạn không thể thoát khỏi tù túng của thế giới - bởi vì tù túng là phức tạp tới mức bạn phải rất ranh mãnh. Gurdjieff hay nói rằng nếu bạn muốn học từ thầy, bạn phải rất ranh mãnh, tinh ranh. Đó là cách ông ấy đã học. Ông ấy đã chuyển từ thầy nọ sang thầy kia trong ít nhất hai mươi năm - nhưng các thầy lấy thời gian riêng của họ, họ không vội vã. Họ không sống trong thời gian, họ sống trong vĩnh hằng, cho nên không có vội vàng. Nhưng Gurdjieff đã trong vội vã, cho nên thay vì chờ đợi cho tới bất kì khi nào thầy cảm thấy đúng lúc và thầy sẽ truyền tri thức của mình, thầy sẽ truyền trí huệ của mình, ông ấy bắt đầu đánh cắp trí huệ từ thầy.
Gurdjieff nói ông ấy đã học được bằng việc đánh cắp, bằng việc tinh ranh. Có vẻ kì lạ khi dùng các từ 'ranh mãnh', 'tinh ranh', khi nói tới tâm linh, nhưng Gurdjieff là con người hiếm hoi. Nếu bạn hiểu đúng ông ấy, điều ông ấy ngụ ý đơn giản là: láu cá, thông minh, hoàn toàn tỉnh táo, khôn ngoan.
Ở phương Đông, rắn đã trở thành biểu tượng của năng lượng ngủ trong bạn. Trong yoga chúng ta gọi nó là kundalini - quyền năng rắn. Nó ngủ trong trung tâm dục của bạn, như con rắn cuộn lại, ngủ say, ngáy. Tại trung tâm thấp nhất của bản thể bạn, năng lượng của bạn ngủ; nó phải được đánh thức dậy. Và một khi con rắn này bắt đầu vươn dậy trong bạn, bạn sẽ ngạc nhiên rằng bạn không nhỏ bé như bạn có vẻ vậy từ bên ngoài. Từ bên trong bạn bao la như bầu trời; ngay cả bầu trời cũng không phải là giới hạn.
Rắn là biểu tượng đẹp. Nó không có chân, dầu vậy nó vẫn di chuyển nhanh thế; chuyển động của nó là phép màu. Thiền nhân nói: Thượng đế không thể được giải thích, chân lí không thể được định nghĩa.
Định nghĩa chân lí cũng giống như gắn chân vào rắn. Rắn di chuyển không cần chân, không có nhu cầu chân nào. Nếu bạn gắn chân vào rắn bạn có thể dừng chuyển động của nó toàn bộ; nó có thể không có khả năng di chuyển được chút nào.
Trí huệ cũng là trường hợp như vậy: nó di chuyển mà không chân. Nó di chuyển mà không thông tin, không tri thức. Nó di chuyển mà không trí tuệ; nó di chuyển một cách trực giác.
Rắn múa khi nghe nhạc. Các nhà khoa học rất phân vân về điều này lúc ban đầu, bởi vì rắn không có tai chút nào, nó không thể nghe được. Nhưng làm sao bạn phủ nhận được điều đó? - mọi người đều biết rằng rắn trở nên tuyệt đối bị thôi miên bởi âm nhạc; nó đung đưa, uốn éo. Làm sao điều đó trở thành có thể được? - bởi vì nó không có tai. Thế rồi sau việc điều tra và nghiên cứu lớn lao người ta tìm ra rằng nó không có tai nhưng nó nghe từ mọi tế bào của thân thể nó. Toàn thể bộ da của nó vận hành như cái tai; nó tất cả đều là tai.
Và đó là cách đệ tử phải hiện hữu: tất cả đều là tai; không chỉ nghe từ tai mà nghe từ chân tới đầu, nghe từ từng tế bào của con người để cho từng thớ thịt của sự tồn tại của bạn bắt đầu đập rộn ràng, hoà vào nhịp điệu cùng thầy.
Rắn có ý nghĩa lớn lao. Jesus là phải. Bạn trở nên phân vân, Jayesh này, bởi vì từ 'tinh ranh'. Nó đơn giản ngụ ý trí huệ.
Trưởng thôn Mustapha cần thêm một con ngựa nữa trước khi khởi hành chuyến đi vào sa mạc. Hai con ngựa được đem tới cho ông ta từ làng bên, nhưng người chủ của từng con ngựa, không muốn từ bỏ con vật của mình, cứ khăng khăng con ngựa nhỏ của mình là vô dụng, hết hơi, già cỗi và què quặt.
'Giải quyết chuyện này đơn giản thôi,' trưởng thôn nói. 'Chúng ta sẽ tổ chức cuộc đua. Con ngựa thắng sẽ được lấy.'
Một cố vấn bước ra và thì thào, 'Thế không được đâu thưa ngài. Chẳng người nào sẽ để cho ngựa của mình chạy nhanh đâu.'
'Họ sẽ cho chạy nhanh chứ,' Mustapha nói. 'Để cho người này cưỡi ngựa của người kia.'
Bạn có thể gọi điều đó là tinh ranh, bạn có thể gọi điều đó là trí huệ. Trưởng thôn khôn ngoan đấy, tinh ranh, ranh mãnh đấy. Ông ấy nói, 'Để cho người này cưỡi ngựa của người kia.' Thế thì sẽ chẳng có gì khó khăn để quyết định ai về đích trước, bởi vì từng người sẽ cố gắng hết mức để đưa ngựa về trước - nó là ngựa của người kia mà.
Jesus nói: khôn ngoan, tinh ranh, ranh mãnh - bởi vì cuộc sống là phức tạp, rất phức tạp, và tù túng của bạn rất cổ đại. Bạn đã trở nên quen với cảnh nô lệ của mình. Chừng nào bạn còn chưa hành xử rất thông minh, không có khả năng nào để bạn thoát ra khỏi cầm tù này. Bạn sẽ phải tập trung tất cả năng lượng của mình vào một điểm thôi: cách đạt tới tự do.
Điều đó cũng giống như tù nhân: nếu người đó muốn thoát khỏi nhà giam người đó sẽ phải thực sự tinh ranh, khôn ngoan, ranh mãnh. Người đó sẽ phải quan sát chỗ nào thoát được, người đó sẽ phải liên tục quan sát phía nào của nhà tù ít được canh gác. Người đó sẽ phải quan sát rất cẩn thận lính gác nào có thể bị hối lộ. Người đó sẽ phải tạo ra kết nối với người ở ngoài; chỉ khi người đó có thể nhận được sự giúp đỡ nào đó từ bên ngoài - sợi dây, chiếc thang, thông tin nào đó: vào lúc nào trong đêm người đó nên trốn đi, vào lúc nào lính gác đổi phiên, vào lúc nào lính gác ngủ, cách kiếm dây thừng, cách lấy thang... Nếu người đó hành xử ngu xuẩn người đó sẽ bị bắt, và người đó sẽ còn bị nguy hiểm hơn trước đây. Tốt hơn cả là đừng thử trốn nếu bạn không đủ thông minh.
Do đó từng thầy đều mài sắc thông minh của bạn. Bất kì chỗ nào bạn thấy rằng thông minh của bạn bị mờ xỉn đi, trốn ngay khỏi chỗ đó nhanh nhất có thể được.
Và đó là điều đang được làm trong hầu hết những cái gọi là nơi chốn tâm linh. Cái gọi là đạo tràng và đền chùa và tu viện và nhà thờ, họ làm bạn đờ đẫn ra, họ an ủi bạn. Họ bảo bạn rằng bạn đã tự do rồi, không có nhu cầu đi đâu cả. Họ bảo bạn rằng nhà tù không tồn tại - đây là nhà bạn. Họ bảo bạn lính gác không phải là kẻ thù của bạn, anh ta là bạn của bạn. Anh ta không canh gác bạn để cho bạn không thể trốn được, không; anh ta canh gác cho bạn để không ai có thể vào và làm hại bạn được. Họ nói trang trí cho nhà tù. Họ cho bạn đủ mọi loại gợi ý và lời khuyên về cách trang trí nó và cách làm cho nó đẹp ra. Họ an ủi bạn. Và bạn càng được an ủi, bạn càng bị ru vào giấc ngủ, càng ít có khả năng cho bạn trở thành vị phật, trở nên được đánh thức, trở nên thực sự tự do.
Cái gọi là các thánh nhân của bạn cứ ca bài ru con; họ giúp bạn ngủ ngon hơn. Và bạn sẽ ngạc nhiên rằng cái gọi là các mật chú chẳng là gì ngoài cách rơi vào giấc ngủ sâu. Đó là Thiền Siêu việt của Maharishi Mahesh Yogi đấy. Nếu bạn cứ lẩm nhẩm bất kì từ nào... chẳng thành vấn đề bạn lặp lại từ gì - Rama, Rama, hay Krishna, Krishna, hay Christ, Christ, hay Coca-Cola, Coca-Cola - bất kì cái gì cũng có tác dụng. Nếu bạn cứ lặp lại một từ nào đó liên tục nó sẽ giúp bạn rơi vào giấc ngủ sâu, bởi vì tâm trí trở nên chán với nó. Khi tâm trí trở nên chán nó bắt đầu cảm thấy lơ mơ, buồn ngủ. Khi tâm trí trở nên chán chỉ còn mỗi lối thoát khỏi chán - rơi vào giấc ngủ.
Các bà mẹ đều biết điều đó trong hàng thế kỉ. Thiền siêu việt đã được mọi bà mẹ dùng trên khắp thế giới. Bất kì khi nào đứa trẻ không định ngủ là họ lại bắt đầu lặp lại một dòng thôi, lời ru con. Cái gì cũng sẽ có tác dụng; cứ lặp đi lặp lại mãi cùng một điều và đứa trẻ bắt đầu rơi vào giấc ngủ. Và đó là cách thôi miên vận hành đấy: bất kì lặp lại nào - mật chú không cần thiết lắm đâu - cái gì cũng được.
Bạn có thể làm ra một chỗ đen đen trên tường và cứ nhìn vào đó, nhìn thường xuyên vào nó, và trong vài phút thôi bạn sẽ ngủ say, bởi vì ý thức cần tuôn chảy, ý thức cần cái gì đó mới mẻ để giữ cho tỉnh táo, ý thức cần chuyển động. Ý thức là luồng chảy.
Thực ra chính bởi vì điều này mà Thiền siêu việt của Maharishi Mahesh Yogi - mà cũng chẳng siêu việt chẳng thiền gì cả - đã trở nên có ý nghĩa thế ở Mĩ. Mĩ là nước phải chịu chứng mất ngủ nhiều nhất, nước duy nhất chỉ có thể ngủ được bằng thuốc an thần, thuốc ngủ - và thậm chí bây giờ những thứ đó không còn tác dụng nữa rồi - nước duy nhất đã trở nên bất ổn tới mức giấc ngủ đã trở thành gần như không thể được. Phương pháp mới là cần thiết, những phương pháp tinh tế hơn là cần thiết.
Nhưng rơi vào giấc ngủ không phải là thiền, nó là an ủi thôi. Nó sẽ cho bạn chút ít nghỉ ngơi và ngày mai bạn sẽ thấy bản thân mình tươi tắn hơn chút ít. Điều đó là tốt - tôi không chống lại điều đó. Nó là thuốc an thần không dược phẩm. Nếu bạn dùng thuốc an thần bạn có thể dùng thiền siêu việt - tốt hơn nhiều. Ít nhất thì bạn cũng không tọng hoá chất vào mình, chất có thể gây tác dụng phụ. Nó sẽ không gây hại cho bạn, nhưng nó không phải là thiền chút nào - bởi vì thiền nghĩa là mài sắc thông minh. Thiền nghĩa là trở thành ngày một tỉnh táo hơn, sáng tỏ hơn, rực rỡ hơn, trở nên chói sáng hơn, trở nên trí huệ hơn.
Jesus là phải khi ông ấy nói: trở nên tinh ranh như rắn. Bạn có quan sát rắn không - nó tỉnh táo thế nào, nó chăm chú thế nào? Một chút nhiễu loạn, chỉ cái lá khô rơi theo gió, và con rắn trốn mất. Bạn bước, bước chân bạn là đủ... chỉ một âm thanh nhỏ bé và con rắn lủi nhanh như gió. Nó tỉnh táo thế, chăm chú thế.
Học chăm chú đó, học tỉnh táo đó. Học chuyển động đẹp đó, sự linh hoạt đó, sự linh động đó của con rắn. Và hồn nhiên như chim bồ câu.
Jesus đang đem tới cả hai cực đối lập: trí huệ, thông minh, nhưng không thông thái, và hồn nhiên. Bạn có thể hiểu lầm trí huệ như tri thức; do đó ông ấy thêm: hồn nhiên như chim bồ câu. Nếu bạn hồn nhiên và trí huệ bạn không thể thông thái được; bạn sẽ thông minh, nhưng bạn sẽ không thông thái. Bạn sẽ không cứ tích luỹ tri thức, bạn sẽ không trở thành cuốn bách khoa toàn thư biết đi. Những loại người đó gần như bao giờ cũng ngu xuẩn.
Tôi đã bắt gặp một người thực sự là cuốn bách khoa toàn thư biết đi; đó là mọi điều người đó đọc. Bây giờ, bách khoa toàn thư không phải là cái gì đó để mà đọc; thỉnh thoảng bạn có thể tra cứu nó. Nhưng người này liên tục đọc nó. Bạn có thể hỏi bất kì câu hỏi nào; nếu nó có trong cuốn bách khoa toàn thư người đó có khả năng trả lời đích xác như thế. Trong vài ngày người đó ở cùng tôi; tôi chưa bao giờ thấy người ngu đến thế - rất thông thái và rất ngu.
Điều này xảy ra bởi vì tri thức của người đó chẳng cho người đó thêm tâm thức gì, tri thức của người đó đã cho người đó chỉ mỗi thông tin. Thông tin trở nên được tích luỹ trong phần trí nhớ của não bạn - và trí nhớ không phải là tâm thức; tâm thức là hiện tượng hoàn toàn khác. Tâm thức là nhân chứng bên trong bạn, nó có thể chứng kiến trí nhớ của bạn.
Đôi khi bạn thấy một người, bạn nhớ rằng bạn có nhớ người đó, nưhng dầu vậy cái tên không tới. Bạn nói nó chỉ ở ngay đầu lưỡi thôi, bạn biết nó ở ngay đầu lưỡi, và dầu vậy mà nó vẫn không tới. Điều gì xảy ra? Tâm thức bạn nói nó đang ở trong trí nhớ lấy, nhưng bằng cách nào đó trí nhớ bị chặn lại, bằng cách nào đó trí nhớ không ở trạng thái chuyển giao điều bạn cần. Có thể có chướng ngại nào đó; có thể bạn quá vội vã tới mức trí nhớ đã trở nên bị căng thẳng. Bạn cố gắng vất vả; bạn càng cố gắng vất vả, nó càng trở nên khó hơn. Thế rồi trong thất vọng vô cùng bạn vứt bỏ toàn thể dự định đó. Bạn đi ra vườn, bạn ngồi dưới gốc cây, bạn bắt đầu hút thuốc... và bỗng nhiên nó bật ra, nó trồi lên.
Tâm thức bạn là hiện tượng hoàn toàn khác. Tâm thức bạn nói, 'Nó ở trong trí nhớ đây này...' nhưng bằng cách nào đó bạn đã không có khả năng tìm ra được nó. Và thế rồi ngồi dưới gốc cây, hút thuốc thảnh thơi, nó trồi lên. Bây giờ tâm thức bạn quan sát nó trồi ra bề mặt; bây giờ bạn biết nó đã ra trước bạn. Bạn đang thấy nó tới; bạn là người thấy, bạn chưa bao giờ là cái được thấy. Bạn chưa bao giờ là nội dung của tâm thức, bạn là tâm thức.
Người thông thái thu thập nội dung, và người thiền mài sắc tâm thức. Người thiền trở thành trí huệ; người thông thái vẫn còn đơn giản thông thái thôi. Nhưng nếu tình huống nào đó nảy sinh mà trong đó tri thức của người đó không áp dụng được, người đó sẽ hành xử rất ngu xuẩn. Người đó sẽ không biết phải làm gì, người đó sẽ hoàn toàn lúng túng. Nếu câu trả lời có trong bách khoa toàn thư người đó sẽ lặp lại nó giống như chiếc máy hát, nhưng nếu câu trả lời không có đó trong bách khoa toàn thư thế thì người đó sẽ đơn giảm câm tịt; người đó sẽ không có khả năng đáp ứng lại một cách tự phát.
Trí huệ là đáp ứng tự phát; tri thức phụ thuộc vào quá khứ. Tri thức mang tính máy móc; nó có thể được thực hiện bởi máy tính. Và sớm hay muộn nó sẽ được thực hiện bởi máy tính, bởi vì việc ghi nhớ là phí thời gian, phí thời gian không cần thiết. Một máy tính xách tay nhỏ có thể làm được mọi thứ: bạn có thể để nó trong túi mình và nó có thể nhớ toàn thể cuốn bách khoa toàn thư; chỉ nhấn nút là bất kì thông tin nào cũng có sẵn.
Trong thế kỉ tới toàn thể hệ thống giáo dục sẽ được biến đổi và thay đổi toàn bộ bởi máy tính. Dạy học sinh về lịch sử, địa lí sẽ là ngu xuẩn - không cần thiết, không có nhu cầu. Mọi cái đó có thể được thực hiện bằng máy tính; trẻ em có thể mang theo máy tính.
Và quan sát riêng của tôi là: bạn càng ít phụ thuộc vào trí nhớ, bạn càng trở nên thông minh hơn. Đó là lí do tại sao việc xảy ra là ở các đại học bạn sẽ không tìm thấy người rất thông minh. Các giáo sư, hiệu trưởng, hiệu phó - tôi đã thấy nhiều người, nhưng rất khó tìm ra người thông minh nào đó ở đó. Bạn có thể tìm ra người thông minh hơn ở nông dân, ở người làm vườn, ở dân làng. Và lí do là rõ ràng: bởi vì họ không thông thái nên họ không thể lệ thuộc vào trí nhớ. Họ phải đáp ứng với thực tại, họ phải đáp ứng với thách thức, họ phải đem tâm thức của họ ra đáp ứng - tâm thức của họ vẫn còn sắc bén hơn. Nông dân, dân làng, là trí huệ hơn giáo sư trong đại học. Giáo sư có thể lệ thuộc vào trí nhớ, nông dân không thể lệ thuộc vào trí nhớ.
Tôi đã nghe:
Một người đàn bà mua hoa quả đóng hộp, nhưng đấy là kiểu đồ hộp mới và bà ta không biết làm sao để mở nó ra. Thế là bà ta bảo người nấu bếp, 'Anh đợi đã. Tôi sẽ xem lại tài liệu - tài liệu đi kèm với hộp này. Để tôi xem: họ phải nói cách mở nó chứ.'
Bà ta đi xem tài liệu. Sau nửa giờ khi bà ta đã nghiên cứu hết cuốn tài liệu bà ta quay lại, nhưng anh bếp lúc đó đã mở cái hộp quả ra rồi. Bà ta hỏi, 'Anh xoay xở thế nào vậy? Ngay cả tôi cũng thấy khó tìm ra trong tài liệu cách mở nó! Anh xoay xở thế nào?'
Anh bếp nói, 'Bởi vì tôi không biết đọc nên tôi phải tuỳ vào thông minh của mình vậy. Bà có thể đọc; bà không cần dùng thông minh của mình.'
Hãy trí huệ đi - điều đó nghĩa là ý thức hơn. Và hồn nhiên đi - điều đó nghĩa là giống trẻ em nhiều hơn, đầy ngạc nhiên và kính nể. Nếu hai phẩm chất này có đó, ngạc nhiên và kính nể, thông minh và trí huệ, bạn không thể bỏ lỡ được Thượng đế; không thể nào bỏ lỡ được Thượng đế.
Thế thì bạn sẽ không hỏi Thượng đế ở đâu, bạn sẽ hỏi chỗ nào không có Thượng đế. Ngài ở mọi nơi, bên trong và bên ngoài.
Câu hỏi thứ ba:
Thưa thầy kính yêu,
Sao đàn ông lại có lông ở ngực?
Thế này, Sahajanand, họ không thể có mọi thứ được!
Câu hỏi thứ tư:
Thưa thầy kính yêu,
Công việc của L. Ron Hubbard tập trung vào làm sáng tỏ tâm trí, trong khi thầy thường nói vứt bỏ tâm trí. Khác biệt là gì? Xin thầy bình luận.
Anand Salam này, công việc của L. Ron Hubbard là tâm lí, nó không phải là tâm linh. Làm sáng tỏ tâm trí là công việc tâm lí: vứt bỏ tâm trí là cuộc cách mạng tâm linh. Làm sáng tỏ tâm trí bạn vẫn còn bị gắn với tâm trí, và dù bạn làm sáng tỏ nó thế nào, nó vẫn còn đấy. Cho dù bức tường kính có tuyệt đối trong suốt và bạn có thể thấy bên ngoài rõ ràng cứ như bạn ở ngoài, dầu vậy bạn vẫn không ở ngoài. Chính bức tường kính tuyệt đối trong suốt đó vẫn giữ bạn bị cầm tù. Bạn có thể thấy bướm dập dờn trong ánh mặt trời, bạn có thể thấy hoa, bạn có thể thấy chim bay trên trời, bạn có thể thấy mây và trăng và sao...
Và nếu bạn không cố gắng thoát ra ngoài bạn có thể vẫn còn trong lừa dối rằng bạn đang ở ngoài trời. Nhưng nếu bạn cố gắng thoát ra, bạn ở trong ngạc nhiên lớn: có bức tường trong suốt ngăn cản bạn - bạn vẫn là tù nhân.
Tâm trí có thể được làm cho rất sáng tỏ, nhưng tâm trí vẫn còn lại. Thực ra nó càng sáng tỏ, bạn sẽ càng bị nó lừa nhiều hơn - bởi vì nó sẽ trở nên ngày một trong suốt hơn. Bạn sẽ không cảm thấy bị bao vây bởi nó, bạn sẽ trở nên bị đồng nhất với nó. Và tâm trí sáng tỏ sẽ cho bạn việc nhìn thấu lớn lao, tầm nhìn lớn lao - về ánh sáng, về tình yêu, về cõi bên kia - và bạn có thể bắt đầu nghĩ rằng bạn đang có kinh nghiệm tâm linh.
Không kinh nghiệm nào đã bao giờ là tâm linh. Mọi kinh nghiệm đều là tâm lí. Vượt ra ngoài tâm lí là điều tôi ngụ ý khi tôi nói vứt bỏ tâm trí.
Công việc của Hubbard là rất bình thường; nó nên là một phần của tài liệu tâm lí. Nhưng ở phương Tây mọi người đã quên hoàn toàn tâm linh tất cả là về cái gì; do đó rất dễ lừa dối. Và tôi không nói rằng Hubbard lừa người khác - ông ấy có thể tự lừa chính mình. Ông ấy có tâm trí sáng tỏ và các quá trình của ông ấy là tốt khi có liên quan tới việc làm sáng tỏ tâm trí, nhưng nó không phải là công việc tâm linh. Nó không thể đem bạn tới cái vĩnh hằng và nó không thể làm cho bạn nhận biết về cốt lõi bên trong nhất của bạn. Nó giữ cho bạn bị đồng nhất với tâm trí, và tâm trì càng trở nên sáng tỏ và đẹp đẽ, bạn càng trở nên bị gắn bó với nó bởi vì nó có vẻ càng quí giá hơn. Và khi nó bắt đầu cho bạn viễn kiến và kinh nghiệm tâm linh, thế thì vấn đề trở thành tuyệt đối không thể nào vứt bỏ được nó. Dễ dàng vứt bỏ tâm trí không rõ ràng, tâm trí lẫn lộn; khó vứt bỏ tâm trí sáng tỏ.
Cho nên tôi không quan tâm tới việc làm tâm trí bạn sáng tỏ. Toàn thể nỗ lực của tôi là để làm cho bạn nhận biết về tâm trí lẫn lộn của bạn, để làm cho bạn nhận biết về tâm trí ốm yếu của bạn, để làm cho bạn nhận biết về cái điên rồ của bạn, để làm cho bạn nhận biết về tinh thần phân liệt của bạn, để làm cho bạn nhận biết về toàn thể bệnh hoạn của bạn, để cho bạn nhất định vứt bỏ nó, bạn không thể níu bám lấy nó thêm được nữa.
Và khoảnh khắc tâm trí bị vứt bỏ, khoảnh khắc bạn biết bạn không phải là tâm trí, chuyển hoá đã xảy ra. Bạn được đưa vào một thế giới khác; bạn đã đi vào trong thế giới của tâm thức.
Thân thể có đó. Các nhà sinh lí làm việc trên nó và họ nghĩ thân thể là tất cả - họ thậm chí không tin vào tâm trí. Tâm trí là hiện tượng phụ, chỉ là sản phẩm phụ; nó không là gì ngoài việc vận hành của thân thể. Thế rồi có các nhà tâm lí người coi con người còn nhiều hơn thân thể: con người là tâm lí, con người là tâm trí, con người không chỉ là thân thể. Nhưng tâm trí họ cũng sẽ chết đi cùng với thân thể; có thể nó là tách rời nhưng nó không thể tồn tại theo cách riêng của nó.
Nhà tâm lí không đi rất xa khỏi nhà sinh lí. Và thực ra tâm lí học và sinh lí học là hai mặt của cùng một đồng tiền. Con người không là thân thể không là tâm trí mà là cả hai: con người là thân tâm, con người là tâm vật. Thân thể ảnh hưởng tới tâm trí, tâm trí ảnh hưởng tới thân thể; do đó chúng không tách rời. Bạn uống rượu; rượu đi vào thân thể nhưng ảnh hưởng tới tâm trí. Bạn có thể uống LSD hay marijuana; nó đi vào thân thể, nó làm thay đổi hoá chất của thân thể, nhưng ngay lập tức tâm trí bạn hoàn toàn khác.
Ngay cả một người như Aldous Huxley cũng bị lừa bởi LSD. Ông ta cứ tưởng rằng dưới tác động của LSD điều ông ấy kinh nghiệm đích xác là điều Kabir đã kinh nghiệm trong kinh nghiệm huyền môn của ông ấy, trong thế giới huyền môn của ông ấy. Một người như Huxley, một con người có tâm trí sáng tỏ hơn nhiều so với Hubbard, đã bị lừa. Ông ấy nghĩ rằng, 'Chúng ta đã tìm ra lối tắt tới kinh nghiệm tâm linh: LSD là đủ. Bây giờ không cần nhịn ăn nhiều năm, không cần trồng cây chuối đứng trên đầu nhiều năm, không cần hành hạ thân thể bạn, không cần thực hiện khổ hạnh cổ đại, cũ kĩ. Đấy là những phương pháp hủ lậu xe bò kéo, và chúng ta đang trong thời đại phản lực và chúng ta đã tìm ra lối tắt tâm linh - LSD.' Ông ấy đã bị lừa bởi vì ông ấy cũng nghĩ rằng tâm trí là tất cả. Và LSD có thể cho bạn kinh nghiệm tâm trí lớn lao bởi vì nó có thể thay đổi tâm trí bạn.
Thay đổi thân thể, tâm trí thay đổi. Thay đổi tâm trí, thân thể thay đổi.
Đó là cách thôi miên làm việc. Nếu bạn bị thôi miên và bị bảo rằng ngày mai bạn sẽ bị sốt cao, nếu điều đó cứ được nhắc đi nhắc lại mãi và bạn bị ước định rằng ngày mai, sáng sớm mai, khi bạn thức dậy bạn sẽ thấy mình bị sốt cao... Không điều gì đã được làm cho thân thể, chỉ tâm trí bạn được ước định: sáng mai bạn sẽ bị sốt. Người ta thậm chí có thể chết.
Năm 1952, vài nước trên thế giới đã làm luật chống lại thôi miên. Họ đã nêu rõ ràng rằng chỉ những nhà thôi miên có thẩm quyền mới có thể được phép thôi miên mọi người, bởi vì trong một đại học ở Mĩ một tai nạn lớn đã xảy ra. Bốn sinh viên, tất cả đều là sinh viên tâm lí, đã nghiên cứu về thôi miên và lịch sử thuật thôi miên, và họ trở nên say mê và họ muốn thử nó. Cho nên họ đã thôi miên một trong những người bạn của họ; anh ta phải thực sự rất yếu ớt.
Ba mươi ba phần trăm mọi người là rất yếu ớt; cứ ba người một người rất sẵn sàng bị thôi miên. Ba mươi ba phần trăm này là vấn đề trong thế giới; mãi cho tới nay họ đã từng là vấn đề: bất kì ai cũng có thể thôi miên họ được. Adolf Hitler tuỳ thuộc vào ba mươi ba phần trăm này, Mao Trạch Đông tuỳ thuộc vào ba mươi ba phần trăm này. Mọi cuộc chiến tranh, mọi cuộc thảm sát cuồng tín, đều tuỳ thuộc vào ba mươi ba phần trăm này. Một phần ba người trên thế giới này rất thiên về, rất sẵn sàng bị thôi miên.
Bởi trùng hợp mà cậu bé kia phải đã là một trong những người đó, và ba cậu kia đã cố gắng vất vả để thôi miên cậu ta. Họ đã thôi miên cậu ta và họ cảm thấy thú vị, bởi vì bất kì cái gì họ nói, cậu ta đều làm. Họ bảo cậu ta nhảy múa, cậu ta nhảy múa. Họ bảo cậu ta rằng, 'Đây là nước rất nóng,' và họ đưa cho cậu ta nước đá, và cậu ta không thể uống được. Cậu ta nói, 'Nó quá nóng, mồm tôi sẽ bị bỏng.' Và họ ngạc nhiên khi họ đặt viên đá nhỏ vào lòng bàn tay người bị thôi miên và bảo người đó rằng, 'Đây là lửa.' Cậu ta lập tức bị bỏng, bỏng ngay lập tức, bỏng thực - bởi hòn đá lạnh. Họ trở nên ngày càng say mê bởi toàn thể hiện tượng này.
Họ đã thử điều cuối cùng. Họ bảo người này nằm xuống và họ bảo cậu ta, 'Cậu chết rồi!' - và cậu ta chết. Thế rồi họ cố gắng hết sức để đánh thức cậu ta dậy, nhưng quá trễ rồi. Bởi vì sự vụ đó mà nhiều nước đã làm luật chống lại thôi miên. Chỉ các nhà chuyên môn có thẩm quyền mới được phép dùng nó bởi vì nó có thể nguy hiểm. Nó có thể ảnh hưởng tới tâm trí bạn, và qua tâm trí ảnh hưởng tới thân thể bạn.
Tâm trí và thân thể là không tách rời, nhưng bạn là thực thể thứ ba. Bạn ở trong thân thể, trong tâm trí, nhưng bạn không bị đồng nhất với chúng. Bạn là tâm thức chứng kiến.
Công việc của tôi khác toàn bộ với công việc của Hubbard: công việc của ông ấy là tâm lí, công việc của tôi là tâm linh. Nỗ lực của tôi ở đây không phải để cho bạn tâm trí sáng tỏ; nỗ lực của tôi ở đây là để cho bạn trạng thái của vô trí, bởi vì chỉ qua vô trí bạn mới có khả năng biết tới thực tại - thực tại bên trong và thực tại bên ngoài. Nhưng vô trí là cánh cửa, cánh cửa duy nhất.
Câu hỏi thứ năm:
Thưa thầy kính yêu,
Sao có chuyện các nhà báo dường như chẳng bao giờ hiểu thầy?
Kavyo này, điều đó chẳng liên quan gì tới tôi. Họ chưa bao giờ hiểu được Jesus, Socrates, Phật, Kabir. Họ không thể hiểu được; điều đó ngược lại đầu tư của họ.
Nhà báo sống với việc tạo ra tin giật gân. Bất kì tin nào là tin cũng chỉ khi nó giật gân. Họ sống theo tin đồn và họ phải tạo ra tin đồn thật mùi mẫm. Họ không quan tâm tới chân lí, bởi vì chân lí không bao giờ là tin tức. Chân lí cổ đại thế, chân lí bao giờ cũng vậy. Tôi đang nói về cùng một chân lí đó. Phật đã nói nó, Christ đã nói nó, và mọi người đã biết đều nói nó. Nó chẳng có gì mới cả - làm sao nó có thể là tin tức được?
Và họ tới đây để tìm tin tức. Họ phải bịa ra - và điều thực sự đáng quan tâm là mọi người có thể mang tính bịa đặt thế nào.
Mới vài ngày trước đây tôi có đọc một báo cáo trong một tạp chí của người Punjab về công xã này, đạo tràng này. Người này nói, nhà báo này nói, rằng anh ta đã ở đây trong mười lăm ngày, ở trong công xã này, và bất kì điều gì anh ta viết cũng đều dựa trên kinh nghiệm riêng của anh ta. Bởi vì anh ta đã giới thiệu bài báo của mình theo cách này nên tôi trở nên quan tâm: anh ta đã thấy gì? Thế là tôi đọc hết nó. Bình thường tôi không đọc điều các nhà báo viết ra đâu, điều đó không thể được. Chúng ta có một ban báo chí lớn cho điều đó, ít nhất ba mươi người liên tục đọc và thu thập, bởi vì điều đó đang xảy ra trên khắp thế giới, trong mọi ngôn ngữ. Nhiều thứ đã được xuất bản tới mức tôi không thể nào theo dõi được dấu vết của nó. Nhưng bởi vì người này đã nói rằng, 'Tôi đã ở đạo tràng đó trong mười lăm ngày,' nên tôi đã nhìn vào bài báo đó. Tôi thật ngỡ ngàng!
Anh ta nói rằng đạo tràng trải rộng trên mười lăm dặm vuông! Bây giờ tôi nghĩ ngay cả Pune cũng không trải rộng quá mười lăm dặm vuông. Anh ta nói khoảnh khắc bạn đi vào cổng điều đầu tiên bạn thấy là bức tượng đá cẩm thạch trắng lớn về một người đàn bà trần truồng! Bởi vì tôi rất hiếm khi đi tới cổng, tôi đã hỏi Laxmi, 'Chuyện gì xảy ra thế? Bức tượng này ở đâu?'
Anh ta nói rằng có những cái hồ nhân tạo, thác nước nhân tạo, hàng nghìn sannyasin bơi trần truồng trong hồ. Có phòng có điều hoà nhiệt độ dưới đất nơi mười nghìn người có thể cùng ngồi với nhau. Mỗi sáng tôi lại có bài nói trong một phòng dưới đất. Các bạn ngồi trong phòng dưới đất, có điều hoà nhiệt độ, và không chỉ có vậy - mọi đệ tử đều phải ngồi tuyệt đối trần truồng! Cảm thấy quần áo của bạn đi - nếu bạn nghĩ mình đang mặc quần áo thì bạn bị lừa. Các bạn tất cả đều trần truồng.
Bây giờ những người này có đầu tư lớn vào việc tạo ra tin đồn. Đó là cách thức các tạp chí, báo chí bán. Họ chẳng có liên quan gì tới chân lí. Người này chưa bao giờ ở đây .
Họ không thể hiểu được vì hai lí do. Thứ nhất: nếu họ hiểu, họ sẽ không có khả năng viết cái gì. Điều đó đã xảy ra cho vài nhà báo. Những người đã hiểu, họ đã trở thành sannyasins; họ đã quên tất cả về việc viết. Họ đã tới để viết; bây giờ họ đã quyết định không quay về nữa, họ đã quyết định ở lại đây.
Mà không chỉ các nhà báo... ở đây còn có các thám tử từ nhiều nước. Và vài thám tử đã trở thành sannyasins! Và họ đã thú nhận với tôi rằng họ đã tới như gián điệp, nhưng bây giờ họ đã hiểu điều đang xảy ra ở đây và họ muốn trở thành một phần của công xã.
Nếu nhà báo tới và báo cáo đích xác điều người đó đã thấy, không ai tin người đó. Đó là điều đã xảy ra cho Satyananda. Anh ấy đã tới từ tạp chí Đức nổi tiếng, Stern, để báo cáo; thế rồi anh ấy trở thành sannyasin. Việc trở thành sannyasin của anh ấy đã tạo ra rắc rối. Những người mà anh ấy đã làm việc cho họ trong nhiều năm - tổng biên tập, các biên tập viên và những người khác - họ cho rằng anh ấy đã bị thôi miên. Anh ấy đã cố gắng vất vả trong nhiều tháng để thuyết phục họ rằng anh ấy không bị thôi miên, nhưng họ không nghe. Họ thậm chí không sẵn sàng đăng điều anh ấy đã viết. Họ nói, 'Anh quá bị ảnh hưởng rồi, anh không còn trong ý thức của mình.' Và ngay cả khi họ đồng ý sau nhiều tháng tranh cãi để xuất bản nó, họ đã cắt toàn bộ bài báo đi một nửa theo cách nó mất hết ngữ cảnh, nó mất hết tính toàn thể của nó, nó trở thành mảnh mẩu.
Ngay chỗ đầu tiên, nhà báo này sống theo tin đồn. Anh ta không ở đây để hiểu tôi, anh ta ở đây để hiểu lầm tôi; đó là đầu tư của anh ta. Thứ hai: những người trở thành nhà báo - không phải mọi người mà gần chín mươi chín phẩy chín phần trăm những người đã trở thành nhà báo - đều là những người rất không sáng tạo. Thực ra những người có thể sáng tạo, họ sáng tạo; những người không thể sáng tạo, họ phê bình. Người không sáng tạo trở thành nhà phê bình lớn.
Dễ phê bình thơ ca, khó viết ra thơ ca. Rất dễ phê bình bức tranh - bạn có thể phê bình Picasso, nhưng bạn không thể vẽ được như Picasso. Dễ phê bình bất kì cái gì.
Turgenev đã viết ra một câu chuyện, Thằng Ngốc. Trong một thị trấn nào đó có một người nổi tiếng là kẻ đại ngốc trong miền này. Anh ta rất lo lắng bởi vì bất kì chỗ nào anh ta tới mọi người đều cười anh ta, bất kì điều gì anh ta nói mọi người sẽ nhạo báng anh ta. Cho dù anh ta nói điều gì đó đúng, mọi người vẫn sẽ cười anh ta bởi vì không ai có thể tin được rằng chàng ngốc này có thể nói điều gì đúng. Điều được giả định rằng anh ta là chàng ngốc hoàn hảo.
Một nhà huyền môn Sufi đi qua làng đó. Chàng ngốc này tới ông ấy và anh ta nói, 'Cả đời tôi bị phí hoài - mọi người đều cho tôi là kẻ ngốc. Ông có thể giúp tôi được không?'
Ông ấy nói, 'Dễ ợt! Anh bắt đầu làm một điều thôi - bắt đầu phê bình đi, và sau bẩy ngày anh tới ta. Ta sẽ ở lại đây trong bẩy ngày vì anh đấy; trong vòng bẩy ngày mọi sự sẽ thay đổi. Nhưng anh cứ phê bình đi! Nếu ai đó trích dẫn Shakespeare, lập tức nói, 'Có quái gì trong đó nào? Toàn là điều vô nghĩa, rác rưởi!' Nếu ai đó nói, 'Trăng đẹp thế, nhìn kìa!' - nói, 'Nó là cái quái gì? Tôi chẳng thấy cái đẹp nào cả. Chứng minh xem cái đẹp nào có đó đi!' Không ai có thể chứng minh được điều đó, bởi vì đẹp không thể được chứng minh. Nếu ai đó nói, 'Buổi sáng đẹp làm sao!' - lập tức nhảy lên nó và bắt đầu phê bình. Anh cứ làm một điều như vậy trong bẩy ngày: đi quanh thị trấn và phê bình mọi người.'
Trong vòng bẩy ngày người này quay lại - không phải một mình, theo sau còn có hàng trăm người, và họ tất cả đều nói, 'Ông đã làm phép màu! Kẻ đại ngốc nhất đã trở thành người khôn ngoan vĩ đại nhất. Không ai có thể tranh luận được với anh ta.'
Dễ phê bình hơn, rất dễ phê bình. Rất khó sáng tạo.
Và điều tôi đang tạo ra là cái gì đó vô hình. Chừng nào bạn chưa có con mắt rất đồng cảm bạn sẽ không có khả năng thấy được nó. Chừng nào bạn chưa rơi vào quan hệ với tôi bạn sẽ không có khả năng hiểu được điều đó.
Cha Murphy là một linh mục trong giáo xứ rất nghèo. Ông ấy đã xin vài gợi ý về cách ông ấy có thể quyên tiền và người ta mách rằng ông chủ ngựa đua bao giờ cũng có tiền.
Ông ta tới chỗ đấu giá ngựa, nhưng thay vì mua ngựa ông ấy kiếm một con lừa. Tuy nhiên, ông ấy nghĩ ông ấy vẫn vào cuộc đua và con lừa được thứ ba. Hôm sau các dòng tít trên báo chí viết, 'Con lừa của Cha Murphy ra trình làng.' Ông tổng giám mục thấy dòng tít này và không hài lòng.
Hôm sau con lừa về đầu và dòng tít viết, 'Con lừa của Cha Murphy lên tuyến đầu.' Ông tổng giám mục giơ hai tay lên là hình dung ra điều gì đó cần phải làm. Cha Murphy lại đưa con lừa vào cuộc đua lần nữa và con lừa được thứ hai.
Tít báo viết, 'Con lừa của Cha Murphy trở lại vị trí.' Ông tổng giám mục nghĩ điều này thì quá thể, và cấm ông linh mục này đưa con lừa vào cuộc đua tiếp.
Ngày hôm sau dòng tít trên các báo viết, 'Tổng giám mục rút tên con lừa của Cha Murphy.'
Tổng giám mục ra lệnh cho Cha Murphy phải gạt bỏ con lừa này. Ông ấy không thể bán được nó, cho nên ông ấy đem nó cho Xơ Agatha làm con vật nuôi trong nhà. Khi tổng giám mục biết điều này ông ấy ra lệnh cho Xơ Agatha phế bỏ con vật này ngay lập tức. Vì bà ấy không thể cho nó đi được, bà ấy bán nó lấy mười đô la.
Ngày hôm sau dòng tít trên các báo viết, 'Xơ Agatha bán con lừa lấy mười đô la.' Họ chôn tổng giám mục ba ngày sau đó.
Các nhà báo sống với những thứ ngu xuẩn thế. Toàn thể đầu tư của họ đều sai, ưu tiên của họ là sai. Và họ biết hoàn toàn rõ cách báo cáo với chính khách bởi vì đó là kinh doanh của họ. Chính khách hiểu họ, họ hiểu chính khách; họ nói cùng ngôn ngữ. Nhưng khi họ bắt gặp một người như tôi, khoảng cách là bao la thế. Họ nói ngôn ngữ này, tôi nói ngôn ngữ hoàn toàn khác. Họ không thể hiểu được điều tôi đang nói: họ cứ hiểu lầm điều đó, họ cứ đút diễn giải của riêng họ vào trong nó.
Và nhà báo nghĩ về bản thân họ mình rất láu cá, họ coi bản thân họ rất thông thái, họ coi bản thân họ rất trí thức. Việc hiểu lầm lớn khá thịnh hành là họ là một phần của giới trí thức - họ không phải vậy!
Thông minh bao giờ cũng mang tính sáng tạo; chính không thông minh mới hay phê bình. Phê bình chẳng có mấy giá trị gì; do đó tôi không chú ý gì tới điều họ cứ nói. Và bạn không cần lo nghĩ về họ - cứ mặc họ với bản thân họ vậy.
Câu hỏi cuối cùng:
Thưa thầy kính yêu,
Làm sao thầy xoay xở nói hết năm nọ đến năm kia, và dầu vậy chuyện bao giờ cũng tươi mát như ánh mặt trời buổi sáng vậy?
Suryananda này, tôi là người say mà! Tôi không biết điều tôi đã nói hôm qua. Thực ra tôi không biết điều tôi vừa nói hôm nay. Và dần dần, dần dần bạn cũng trở thành người say cùng tôi, cho nên bạn cứ quên. Do đó nó có vẻ như mọi ngày đều tươi và mới, bởi vì cả tôi không nhớ mà bạn cũng không nhớ! Và không cần phải nhớ gì .
Linh mục mới trong buổi thuyết giảng đầu tiên với quần chúng quá sợ hãi gần như không thể nói được. Trước tuần thứ hai với học sinh ông ta hỏi ông linh mục khác cách thức để mình có thể thảnh thơi.
Ông linh mục này đáp, 'Tuần sau sẽ có thể có ích nếu ông cho rượu martini vào bình nước. Sau khi nhấp vài ngụm, mọi sự sẽ diễn ra trôi chảy.'
Tuần sau, anh linh mục trẻ đưa lời gợi ý của người cao tuổi hơn này vào thực hành và thực sự nói như cơn bão lốc.
Sau buổi thuyết giảng, anh ta hỏi một linh mục khác ông này thích buổi thuyết giảng thế nào.
Ông linh mục lớn tuổi đáp, 'Có vài điều ông nên học trước khi phát biểu lại cho giáo đoàn:
1. Lần sau nhấm nháp thay vì nuốt chửng rượu martini.
2. Có mười hai tông đồ chứ không phải mười.
3. Có mười lời răn chứ không phải mười hai.
4. David xoay Goliath, anh ta không đá cứt vào hắn.
5. Chúng ta không nói vị cứu tinh của mình Jesus Christ và các tông đồ của ông ấy là J.C. và lũ trai.
6. Tuần sau có cuộc tranh luận nảy lửa tại chỗ Thánh Peter, không phải là cuộc tranh luận nảy lửa tại chỗ của người xứ Wales.
7. Chúng ta không nói cây Thánh giá là chữ T to.
8. Cha, Con và Thánh thần thiêng liêng không được nói tới như Bố lớn, con và hồn.
9. Điều cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, đó là Mary đồng trinh, không phải là Mary với anh đào.'
Nhận xét
Đăng nhận xét