Chương 02: Không tâm trí, không chân lí

Chim tung cánh 
A bird on the wing
Osho


Chương 02: Không tâm trí, không chân lí


Osho kính yêu,

Học trò Doko tới thầy và nói, 'Tôi phải tìm kiếm chân lí trong trạng thái tâm trí nào?'

Thầy đáp, 'Không có tâm trí, cho nên ông không thể để nó vào bất kì trạng thái nào, và không có chân lí, cho nên ông không thể tìm kiếm được nó.'

Doko nói, 'Nếu không có tâm trí và không có chân lí, tại sao mọi học trò này tụ tập trước thầy mọi ngày để học?'

Thầy nhìn quanh và nói, 'Ta chẳng thấy người nào.'

Người truy hỏi lại hỏi, 'Thế thì thầy đang dạy cho ai?'

'Ta không có ngôn ngữ, cho nên làm sao ta có thể dạy được?', thầy đáp.

Thế rồi Doko nói một cách buồn bã, 'Tôi không thể theo thầy được; tôi không thể hiểu được.' Thầy nói, 'Bản thân ta không hiểu.'


Cuộc sống là điều huyền bí thế, không người nào có thể hiểu được nó, và người tuyên bố rằng mình hiểu nó đơn giản là dốt nát. Người đó không nhận biết về điều người đó đang nói, về điều vô nghĩa người đó đang nói. Nếu bạn trí huệ, đây sẽ là việc nhận ra đầu tiên: cuộc sống không thể nào được hiểu. Việc hiểu là không thể được. Duy nhất ngần này là có thể được hiểu - rằng việc hiểu là không thể được. Đó là điều giai thoại Thiền hay này nói tới.

Thầy nói, 'Bản thân ta không hiểu điều đó.' Nếu bạn đi và hỏi người chứng ngộ đây sẽ là câu trả lời của họ. Nhưng nếu bạn đi và hỏi người không chứng ngộ, họ sẽ cho bạn nhiều câu trả lời, họ sẽ đề nghị nhiều học thuyết; họ sẽ cố gắng giải điều huyền bí, điều không thể được giải. Nó không phải là câu đố. Câu đố có thể được giải, điều huyền bí là không thể nào giải được bởi chính bản chất của nó - không có cách nào để giải nó. Socrates nói, 'Khi tôi còn trẻ, tôi tưởng tôi biết nhiều. Khi tôi trở nên già, chín chắn trong trí huệ, tôi đi tới hiểu ra rằng tôi chả biết gì.'

Người ta đồn một trong những thầy Sufi, Junnaid, rằng ông ấy đã làm việc với một thanh niên mới. Anh thanh niên này không nhận biết về trí huệ bên trong của Junnaid, và Junnaid đã sống cuộc sống bình thường tới mức phải cần con mắt rất xuyên thấu mới nhận ra rằng bạn đã ở gần vị Phật. Ông ấy làm việc như một người lao động bình thường, và chỉ những người có mắt mới nhận ra ông ấy. Nhận ra vị Phật là rất dễ - ông ấy ngồi dưới gốc cây Bồ đề; nhận ra Junnaid là rất khó - ông ấy làm việc như người lao động, không ngồi dưới cây Bồ đề. Ông ấy tuyệt đối bình thường theo mọi cách.

Một thanh niên làm việc cùng ông ấy, và anh thanh niên đó liên tục phô trương tri thức của mình, cho nên bất kì cái gì Junnaid làm, anh ta sẽ nói, 'Cái này sai. Cái này có thể được làm theo cách này, nó sẽ tốt hơn' - anh ta biết về mọi thứ. Cuối cùng Junnaid cười và nói: 'Anh thanh niên, ta không đủ trẻ để biết nhiều thế.'

Đây thực sự là cái gì đó. Ông ấy nói, 'Ta không đủ trẻ để biết nhiều thế.' Chỉ thanh niên mới có thể ngu xuẩn thế, thiếu kinh nghiệm thế. Socrates là đúng khi ông ấy nói, 'Khi tôi còn trẻ, tôi biết quá nhiều. Khi tôi trở nên chín chắn, có kinh nghiệm, tôi đi tới nhận ra chỉ mỗi một điều - rằng tôi tuyệt đối dốt nát.'

Cuộc sống là điều huyền bí; điều đó nghĩa là nó không thể được giải. Và khi mọi nỗ lực để giải nó đều chứng tỏ là vô tích sự, điều huyền bí bừng lên trên bạn. Thế thì những cánh cửa mở ra; thế thì bạn được mời. Là người biết, không ai đi vào được điều thiêng liêng; là đứa trẻ, dốt nát, không biết chút nào - điều huyền bí ôm choàng bạn. Với tâm trí biết bạn là láu lỉnh, không hồn nhiên. Hồn nhiên là cánh cửa.

Thiền sư này là đúng khi ông ấy nói, 'Bản thân ta không hiểu điều đó.' Đó là câu trả lời rất sâu, thực sự sâu, sâu nhất có thể có. Nhưng đây là phần cuối cùng của giai thoại này. Bắt đầu từ chính chỗ bắt đầu.... Đệ tử tới Thiền sư và nói, 'Tôi phải tìm kiếm chân lí trong trạng thái nào của tâm trí?' Thầy nói, 'Không có tâm trí cho nên không thể có bất kì trạng thái nào của tâm trí.'

Tâm trí là ảo tưởng, cái không có nhưng có vẻ có, và có vẻ có nhiều tới mức bạn tưởng rằng bạn là tâm trí. Tâm trí là maya, tâm trí chỉ là mơ, tâm trí chỉ là phóng chiếu... bong bóng xà phòng nổi trên sông. Mặt trời vừa mọc, những tia sáng xuyên qua bong bóng; cầu vồng được tạo ra và không cái gì có đó trong nó. Khi bạn chạm vào bong bóng nó vỡ tung và mọi thứ biến mất - cầu vồng, cái đẹp - chẳng cái gì còn lại. Duy nhất cái trống rỗng trở thành một với cái trống rỗng vô hạn. Chỉ bức tường có đó, tường bong bóng. Tâm trí bạn chỉ là cái tường bong bóng - bên trong, cái trống rỗng của bạn; bên ngoài, cái trống rỗng của tôi. Nó chỉ là bong bóng, chọc vào nó, và tâm trí biến mất.

Thầy nói, 'Không có tâm trí, cho nên ông đang hỏi về kiểu trạng thái nào?' Hiểu là khó. Mọi người tới tôi và họ nói, 'Chúng tôi muốn đạt tới trạng thái im lặng của tâm trí.' Họ tưởng rằng tâm trí có thể im lặng; tâm trí không bao giờ có thể im lặng được. Tâm trí nghĩa là rối loạn, ốm yếu, bệnh tật; tâm trí nghĩa là căng thẳng, trạng thái đau khổ. Tâm trí không thể im lặng được; khi có im lặng không có tâm trí. Khi im lặng tới, tâm trí biến mất; khi tâm trí có đó, im lặng không còn nữa. Cho nên không thể có bất kì tâm trí im lặng nào, hệt như không thể có bất kì bệnh khoẻ nào. Liệu có thể có bệnh khoẻ không? Khi mạnh khoẻ có đó, bệnh tật biến mất. Im lặng là mạnh khoẻ bên trong; tâm trí là bệnh tật bên trong, rối loạn bên trong.

Cho nên không thể có bất kì tâm trí im lặng nào, và đệ tử này đang hỏi, 'Kiểu nào, loại nào, trạng thái nào của tâm trí mà tôi phải đạt tới?' Ngay đó, thầy nói, 'Không có tâm trí, cho nên ông không thể đạt tới bất kì trạng thái nào.' Cho nên xin bỏ ảo tưởng này đi; đừng cố đạt tới bất kì trạng thái nào trong ảo tưởng. Điều đó dường như là bạn đang nghĩ cách đi trên cầu vồng và bạn hỏi tôi, 'Chúng tôi phải lấy bước nào để đi trên cầu vồng?' Tôi nói, 'Không có cầu vồng. Cầu vồng chỉ là hình ảnh, cho nên không bước nào có thể được lấy.' Cầu vồng đơn giản xuất hiện; nó không có đó. Nó không phải là thực tại, nó là cách diễn giải sai về thực tại.

Tâm trí không phải là thực tại của bạn; nó là cách diễn giải sai. Bạn không phải là tâm trí, bạn chưa bao giờ là tâm trí, bạn không bao giờ có thể là tâm trí. Đó là vấn đề của bạn - bạn đã trở nên bị đồng nhất với cái gì đó mà không có. Bạn giống như người ăn xin, người tin rằng mình có vương quốc. Người đó lo nghĩ thế về vương quốc - làm sao quản lí nó, làm sao cai quản nó, làm sao ngăn cản vô chính phủ. Không có vương quốc, nhưng người đó lo nghĩ.

Trang Tử có lần đã mơ rằng ông ấy hoá thành bướm. Đến sáng ông ấy rất thất vọng. Bạn ông ấy hỏi, 'Có chuyện gì vậy? Chúng tôi chưa bao giờ thấy ông thất vọng thế.' Trang Tử nói, 'Tôi đang phân vân, tôi lúng túng, tôi không thể hiểu nổi. Trong đêm, khi đang ngủ, tôi mơ rằng tôi đã biến thành bướm.'

Thế là bạn bè cười: 'Không ai đã bao giờ bị rối loạn bởi giấc mơ. Khi ông thức, mơ đã biến mất, cho nên tại sao ông bị rối loạn thế?'

Trang Tử nói, 'Đấy không phải là vấn đề. Bây giờ tôi phân vân: nếu Trang Tử có thể trở thành bướm trong mơ, có thể là bây giờ bướm đã đi ngủ và đang mơ rằng nó là Trang Tử.' Nếu Trang Tử có thể trở thành bướm trong mơ, tại sao kẻ kia không thể? - bướm có thể mơ và trở thành Trang Tử chứ. Vậy cái gì là thực - liệu Trang Tử mơ rằng ông ấy đã trở thành bướm hay bướm đang mơ rằng nó đã trở thành Trang Tử? Cái gì là thực? Cầu vồng có đó. Bạn có thể trở thành bướm trong mơ. Và bạn đã trở thành tâm trí trong giấc mơ lớn hơn mà bạn gọi là cuộc sống. Khi bạn thức dậy bạn không đạt tới trạng thái thức của tâm trí, bạn đạt tới không có trạng thái tâm trí, bạn đạt tới vô trí.

Vô trí nghĩa là gì? Khó mà hiểu, nhưng đôi khi, một cách không chủ ý, bạn đã đạt tới nó, nhưng bạn có thể đã không nhận ra nó. Đôi khi, chỉ ngồi bình thường, không làm gì, không có ý nghĩ trong tâm trí - vì tâm trí chỉ là quá trình suy nghĩ. Nó không phải là thực chất, nó chỉ là sự diễu hành. Bạn ở đây, tôi có thể nói một đám đông ở đây, nhưng thực sự có cái gì đó như đám đông không? Đám đông là thực chất hay chỉ các cá nhân có đó? Dần dần các cá nhân sẽ đi mất, thế thì đám đông có bị bỏ lại đằng sau không? Khi các cá nhân đã đi rồi, không có đám đông.

Tâm trí giống hệt đám đông; ý nghĩ là các cá nhân. Và bởi vì ý nghĩ có đó liên tục nên bạn nghĩ quá trình này là thực chất. Bỏ từng ý nghĩ riêng một đi và chung cuộc không cái gì còn lại. Không có tâm trí như thế, chỉ có việc suy nghĩ.

Nhưng ý nghĩ chuyển động nhanh tới mức giữa hai ý nghĩ bạn không thể thấy được khoảng hở. Nhưng khoảng hở bao giờ cũng có đó. Khoảng hở đó là bạn. Trong khoảng hở đó không có Trang Tử không có bướm - vì bướm là một loại tâm trí và Trang Tử cũng là một loại tâm trí. Bướm là một tổ hợp khác của các ý nghĩ, Trang Tử lại là tổ hợp khác, nhưng cả hai đều là tâm trí. Khi tâm trí không có đó, bạn là ai - Trang Tử hay bướm? Không là ai cả. Và trạng thái là gì? Bạn đang trong trạng thái chứng ngộ của tâm trí sao? Nếu bạn nghĩ bạn đang trong trạng thái chứng ngộ của tâm trí thì đây lại là một ý nghĩ, và khi ý nghĩ có đó bạn không có đó. Nếu bạn cảm thấy rằng bạn là vị Phật, đây là một ý nghĩ. Tâm trí đã đi vào; bây giờ quá trình có đó, bầu trời lại bị phủ mây, mầu thanh thiên mất đi. Mầu thanh thiên vô hạn bạn không còn có thể thấy được nữa.

Giữa hai ý nghĩ cố gắng tỉnh táo; nhìn vào trong khoảng hở này, không gian ở giữa. Bạn sẽ thấy không có tâm trí; đó là bản tính của bạn. Để các ý nghĩ tới và đi - chúng là ngẫu nhiên - nhưng không gian bên trong đó bao giờ cũng còn lại. Mây tụ rồi tán, biến mất - nhưng bầu trời còn lại. Bạn là bầu trời.

Có lần chuyện xảy ra là một người tìm kiếm tới Bayazid, một nhà huyền môn Sufi, và hỏi, 'Thưa thầy, tôi là người rất hay giận. Giận xảy ra cho tôi rất dễ dàng; tôi trở nên thực sự điên và làm mọi thứ. Tôi thậm chí không thể tin được về sau rằng tôi có thể làm những điều như vậy; tôi không trong ý thức của mình. Cho nên, làm sao bỏ được giận này, làm sao vượt qua được nó, làm sao kiểm soát được nó?'

Bayazid giơ tay túm đầu đệ tử này và nhìn vào mắt anh ta. Đệ tử này trở nên hơi không thoải mái, và Bayazid nói, 'Giận đó ở đâu? Ta muốn nhìn vào nó.'

Đệ tử này cười một cách gượng gạo và nói, 'Ngay bây giờ, tôi không giận. Đôi khi nó mới xảy ra.' Thế là Bayazid nói, 'Cái mà đôi khi mới xảy ra không thể là bản tính của ông được. Nó là ngẫu nhiên, nó tới và đi. Nó giống như mây - cho nên tại sao phải lo nghĩ về mây? Nghĩ về bầu trời cái bao giờ cũng có đó.'

Đây là định nghĩa về Atma - bầu trời bao giờ cũng có đó. Mọi thứ tới rồi đi đều không liên quan; đừng bị bận tâm bởi nó, nó cũng chỉ là khói. Bầu trời còn lại vĩnh hằng ở đó không bao giờ thay đổi, không bao giờ trở nên khác đi. Giữa hai ý nghĩ, rơi vào trong nó đi; giữa hai ý nghĩ nó bao giờ cũng có đó. Nhìn vào trong nó và đột nhiên bạn sẽ nhận ra rằng bạn ở trong vô trí.

Thầy là đúng khi thầy nói, 'Không có tâm trí, cho nên không thể có trạng thái nào của tâm trí. Ông đang nói điều vô nghĩa gì vậy?'

Nhưng điều vô nghĩa có logic riêng của nó. Nếu bạn nghĩ rằng bạn có tâm trí, bạn sẽ bắt đầu nghĩ dưới dạng trạng thái - trạng thái dốt nát của tâm trí, trạng thái chứng ngộ của tâm trí. Một khi bạn chấp nhận tâm trí, ảo tưởng, bạn nhất định liên tục phân chia nó. Và một khi bạn chấp nhận rằng tâm trí có đó, bạn sẽ bắt đầu tìm kiếm cái gì đó này khác.

Tâm trí có thể tồn tại chỉ nếu bạn liên tục tìm cái gì đó. Tại sao? Chính bởi vì việc tìm kiếm là ham muốn, việc tìm kiếm là đi vào trong tương lai, việc tìm kiếm tạo ra mơ. Cho nên ai đó đang tìm kiếm quyền lực, chính trị, ai đó đang tìm kiếm giầu có, vương quốc, và thế rồi ai đó đang tìm kiếm chân lí. Nhưng việc tìm kiếm có đó và việc tìm kiếm là vấn đề, không phải là điều bạn đang tìm kiếm. Đối thể chưa bao giờ là vấn đề, bất kì đối thể nào cũng có tác dụng. Tâm trí có thể treo trên bất kì đối thể nào, bất kì cái cớ nào cũng là đủ cho nó tồn tại.

Thầy nói, 'Không có trạng thái nào của tâm trí bởi vì không có tâm trí. Và không có chân lí, cho nên ông đang nói về cái gì vậy? Không thể có tìm kiếm.'

Đây là một trong những thông điệp vĩ đại nhất đã từng được chuyển giao. Nó rất khó; đệ tử này không thể quan niệm được rằng không có chân lí. Nghĩa của thầy này là gì khi thầy nói rằng không có chân lí? Thầy có ngụ ý rằng không có chân lí không? Không, thầy đang nói rằng với bạn, người tìm kiếm, không thể có chân lí.

Việc tìm kiếm bao giờ cũng đưa vào trong tương lai. Chỉ tâm trí không tìm kiếm mới nhận ra cái đang đó, bất kì khi nào bạn tìm kiếm bạn đã bỏ lỡ cái đang đó. Việc tìm kiếm bao giờ cũng đi vào trong tương lai, việc tìm kiếm không thể ở đây và bây giờ được. Làm sao bạn có thể tìm kiếm ở đây và bây giờ? Bạn chỉ có thể hiện hữu. Việc tìm kiếm là ham muốn - tương lai bước vào, thời gian bước vào... và khoảnh khắc này, ở đây và bây giờ này bị bỏ lỡ. Chân lí là ở đây, bây giờ.

Nếu bạn đi tới vị Phật và hỏi, 'Có Thượng đế không?' ông ấy sẽ phủ nhận điều đó ngay lập tức: 'Không có Thượng đế.' Nếu ông ấy nói có, ông ấy tạo ra người tìm kiếm; nếu ông ấy nói có Thượng đế, bạn sẽ bắt đầu tìm kiếm. Làm sao bạn có thể vẫn còn yên tĩnh khi có Thượng đế để được tìm? Bạn sẽ chạy đi đâu? Bạn đã tạo ra ảo tưởng khác.

Cho nên Phật nói không có Thượng đế. Không ai hiểu ông ấy, mọi người nghĩ ông ấy là người vô thần. Ông ấy không phủ nhận Thượng đế, ông ấy đơn giản phủ nhận người tìm kiếm. Nhưng nếu ông ấy nói rằng có Thượng đế thì người tìm kiếm chắc đã có đó rồi. Và người tìm kiếm là thế giới; việc tìm kiếm là mọi điều maya là gì. Trong hàng triệu kiếp bạn đã từng là người tìm kiếm, hết cái này hay cái nọ, đối thể này, đối thể nọ, thế giới này hay thế giới nọ, nhưng là người tìm kiếm. Bây giờ bạn là người tìm kiếm chân lí nhưng thầy nói không có chân lí. Thầy chặt phăng chính nền tảng của việc tìm kiếm, thầy kéo mất chính mảnh đất nơi bạn đang đứng, nơi tâm trí bạn đang đứng. Thầy đơn giản đẩy bạn vào vực thẳm.

Người hỏi nói, 'Thế thì tại sao những người tìm kiếm này ở khắp quanh thầy? Nếu không có gì để tìm kiếm và không có chân lí, thế thì tại sao có đám đông này?' Bạn phải đã từng ở đó, ngồi quanh thầy. Ai đó tới tôi và tôi nói, 'Không có việc tìm kiếm. Không cái gì để được tìm, vì không có gì để tìm.' Anh ta nhất định hỏi,

'Thế thì tại sao những người này ở đây, tại sao những sannyasin này ở đây? Họ đang làm gì ở đây?'

Nhưng người hỏi liên tục bỏ lỡ vấn đề. Thầy nhìn quanh và nói, 'Ta không thấy người nào cả, không có người nào ở đây.' Người hỏi liên tục bỏ lỡ vấn đề vì trí tuệ bao giờ cũng liên tục bỏ lỡ. Anh ta có thể đã nhìn. Đây là sự kiện: Không có người nào.

Bạn có thể hiện hữu theo hai cách nhưng chỉ hiện hữu theo một cách nếu bạn đang tìm kiếm. Nếu bạn không tìm kiếm bạn không hiện hữu, vì việc tìm kiếm cho bạn bản ngã. Ngay khoảnh khắc này nếu bạn không tìm kiếm bất kì ai, bất kì cái gì, bạn không ở đây, không có đám đông. Nếu tôi không dạy bất kì cái gì - vì không có gì để được dạy, không chân lí nào để được dạy - nếu tôi không dạy bất kì cái gì và nếu bạn không học bất kì cái gì, ai ở đây? Trống rỗng tồn tại và phúc lạc của trống rỗng thuần khiết. Cá nhân biến mất và nó trở thành tâm thức đại dương. Các cá nhân có đó bởi vì tâm trí cá nhân. Bạn có ham muốn khác, đó là lí do tại sao bạn khác với người hàng xóm; ham muốn tạo ra phân biệt. Tôi đang tìm cái gì đó, bạn đang tìm cái gì đó khác; con đường của tôi khác với con đường của bạn, mục đích của tôi khác với mục đích của bạn. Đó là lí do tại sao tôi khác với bạn. Nếu tôi không tìm kiếm và bạn không tìm kiếm, mục đích biến mất, con đường không còn đó. Vậy thì làm sao tâm trí có thể tồn tại được? Chiếc chén bị đập vỡ. Trà của tôi chảy vào bạn và trà của bạn chảy vào tôi. Nó trở thành sự tồn tại đại dương.

Thầy nhìn quanh và nói, 'Ta không thấy người nào cả, không có ai.' Trí tuệ liên tục bỏ lỡ, và người hỏi này nói, 'Thế thì thầy đang dạy ai? Nếu không có ai, thế thì thầy đang dạy cho ai?' Và thầy nói, 'Ta không có ngôn ngữ, cho nên làm sao ta có thể dạy được?' Thầy liên tục cho các hướng dẫn để trở nên tỉnh táo, để nhìn, nhưng người hỏi này bị nhận chìm trong tâm trí riêng của mình. Thầy liên tục đánh, nện búa vào đầu anh ta; thầy đang nói điều vô nghĩa chỉ để đem anh ta ra khỏi tâm trí anh ta.

Nếu như bạn ở đó, bạn chắc đã bị thuyết phục bởi người hỏi, không bởi thầy. Người hỏi chắc đã hình như đích xác đúng. Thầy này dường như điên, ngớ ngẩn. Thầy đang nói và thầy nói, 'Không có ngôn ngữ, cho nên làm sao ta có thể nói được?' Thầy đang nói, 'Nhìn vào ta đây, ta mà không có hình dạng. Nhìn vào ta, ta không được hiện thân. Thân thể xuất hiện cho ông nhưng ta không phải là cái đó, cho nên làm sao ta có thể nói được?' Tâm trí liên tục bỏ lỡ. Đây là keo kiệt của tâm trí. Bạn đẩy, nó lại thu thập bản thân nó; bạn đánh nó, và trong một khoảnh khắc có việc chìm và run, và lần nữa nó lại được thiết lập.

Bạn có thấy búp bê Nhật Bản không? Họ gọi chúng là búp bê daruma. Bạn ném nó, theo bất kì cách nào - lộn ngược, đầu lộn xuống - nhưng bất kì cái gì bạn làm con búp bê ngồi lại theo tư thế Phật. Phần đáy là nặng thế, bạn không thể làm được gì cả. Ném nó theo bất kì cách nào và con búp bê lại ngồi vào tư thế Phật. Cái tên daruma bắt nguồn từ Bồ đề đạt ma; ở Nhật Bản, tên của Bồ đề đạt ma là Daruma. Daruma thường nói, Bồ đề đạt ma này thường nói, rằng tâm trí bạn cũng giống hệt con búp bê này. Ông ấy sẽ ném nó, đá nó, nhưng bất kì cái gì ông ấy làm ông ấy cũng không thể làm rối loạn con búp bê được; phần đáy nặng thế. Bạn ném nó lộn ngược xuống, nó sẽ ngồi thẳng dậy.

Cho nên thầy này liên tục đẩy. Chút ít rung chuyển và con búp bê lại ngồi lại, bỏ lỡ vấn đề. Cuối cùng, thất vọng, người hỏi nói, 'Tôi không theo được, tôi không hiểu.' Và với cú đánh tối thượng, thầy nói, 'Bản thân ta không hiểu.'

Tôi liên tục dạy bạn, vẫn biết rõ chẳng có gì để được dạy. Đó là lí do tại sao tôi có thể tiếp tục tới vô hạn. Nếu như có cái gì đó để được dạy tôi chắc đã kết thúc rồi. Chư Phật có thể tiếp tục mãi vì không có gì để dạy cả. Nó là câu chuyện vô tận, nó không bao giờ kết thúc, cho nên tôi có thể cứ tiếp tục mãi. Tôi sẽ không bao giờ bị kết thúc; bạn có thể bị kết thúc trước khi câu chuyện của tôi kết thúc, vì không có kết thúc cho nó.

Ai đó hỏi tôi, 'Thầy liên tục nói mọi ngày sao?' Tôi nói, 'Vì chẳng có gì để được dạy.' Một ngày nào đó bạn sẽ đột nhiên cảm thấy điều đó - rằng tôi không nói, rằng tôi không dạy. Bạn đã nhận ra chẳng có gì để được dạy vì không có chân lí.

Tôi cho bạn kỉ luật gì? Không cái gì. Tâm trí có kỉ luật lại là tâm trí, thậm chí còn bướng bỉnh hơn, sắt đá hơn; tâm trí có kỉ luật là ngu xuẩn hơn. Đi và xem các sư có kỉ luật trên khắp thế giới người Ki tô giáo, người Hindu, người Jain. Bất kì khi nào bạn thấy một người tuyệt đối có kỉ luật bạn sẽ thấy một tâm trí ngu xuẩn đằng sau nó. Việc tuôn chảy đã dừng lại. Người đó quan tâm nhiều với việc tìm ra cái gì đó tới mức người đó sẵn sàng làm bất kì cái gì bạn nói. Nếu bạn nói, 'Đứng trên đầu trong một giờ,' người đó sẵn sàng đứng trên đầu mình. Đó là vì ham muốn. Nếu Thượng đế có thể được đạt tới chỉ qua việc đứng trên đầu trong nhiều giờ, người đó sẵn sàng, nhưng người đó phải đạt tới.

Tôi không cho bạn bất kì việc đạt tới nào, bất kì việc ham muốn nào; không có đâu mà đạt tới và không cái gì để đạt tới. Nếu bạn nhận ra điều này bạn đã đạt tới chính khoảnh khắc này. Chính khoảnh khắc này, bạn là hoàn hảo; không cái gì cần được làm, không cái gì cần được thay đổi. Chính khoảnh khắc này, bạn là Brahma tuyệt đối.

Đó là lí do tại sao thầy nói, 'Bản thân ta không hiểu điều đó.' Khó mà tìm ra được thầy nói, 'Bản thân ta không hiểu điều đó,' vì thầy phải tuyên bố rằng thầy biết, chỉ thế thì bạn mới theo thầy. Thầy phải không chỉ tuyên bố rằng thầy biết, thầy phải tuyên bố rằng chỉ thầy mới biết, không ai khác: 'Mọi thầy khác đều sai, một mình ta biết.' Thế thì bạn sẽ đi theo. Bạn phải tuyệt đối chắc chắn, thế thì bạn trở thành người theo sau. Tính chắc chắn cho bạn cảm giác rằng đây chính là người, và nếu bạn đi theo bạn sẽ đạt tới.

Tôi sẽ kể cho bạn một câu chuyện. Ngày xưa chuyện xảy ra, cái gọi là thầy đang du hành. Trong mọi làng ông ấy đi tới, ông ấy sẽ tuyên bố, 'Ta đã đạt tới, ta đã biết điều thiêng liêng. Nếu các ông muốn, tới và theo ta.'

Mọi người sẽ nói, 'Có nhiều trách nhiệm. Một ngày nào đó, chúng tôi hi vọng chúng tôi sẽ có khả năng theo ông.' Họ sẽ chạm chân ông ấy, bày tỏ kính trọng ông ấy, phục vụ ông ấy, nhưng không ai sẽ theo vì có nhiều điều khác cần được thực hiện trước hết, trước khi người ta đi tìm điều thiêng liêng. Điều thứ nhất làm thứ nhất. Điều thiêng liêng bao giờ cũng là cuối cùng, và điều cuối cùng không bao giờ tới vì điều thứ nhất cũng vô hạn thế, chúng không bao giờ được kết thúc. Nhưng trong một làng, một người điên - người đó là điên, bằng không ai sẽ theo thầy này - nói, 'Đúng. Ông có tìm thấy không?'

Thầy này ngần ngại một chút, nhìn vào người điên này - vì người này dường như nguy hiểm, anh ta có thể đi theo và tạo ra rắc rối - nhưng trước toàn thể làng ông ta không thể phủ nhận điều đó, cho nên ông ta nói, 'Có.'

Người điên nói, 'Bây giờ, khai tâm cho tôi đi. Tôi sẽ theo thầy tới chính tận cùng. Tôi muốn bản thân mình nhận ra Thượng đế.' Cái gọi là thầy này trở nên bị xáo trộn, nhưng làm gì đây? Người điên này bắt đầu theo ông ta, anh ta trở thành cái bóng. Một năm trôi qua. Người điên nói, 'Ngôi đền còn bao xa, bao xa nữa?' Anh ta nói, 'Tôi không vội nhưng sẽ cần bao nhiêu thời gian?' Đến lúc này thầy đã trở nên rất không thoải mái và bực bội với người này. Người điên này sẽ ngủ cùng ông ta, anh ta sẽ đi cùng ông ta; anh ta đã trở thành cái bóng của ông ta. Và bởi vì anh ta, sự chắc chắn của ông ta tan biến đi. Bất kì khi nào ông ta nói, trong một làng, 'Theo ta,' ông ta đều trở nên sợ, vì người này sẽ nhìn ông ta và nói, 'Tôi đang theo thầy đây, thưa thầy, mà dầu vậy tôi vẫn chưa đạt tới.'

Năm thứ hai trôi qua, năm thứ ba trôi qua, sáu năm trôi qua, và người điên nói, 'Chúng ta đã không đạt tới chỗ nào cả. Chúng ta đơn giản đi vào trong các làng và thầy liên tục nói với mọi người, 'Theo ta.' Tôi đang theo đây - bất kì cái gì thầy nói, tôi đều làm nó, cho nên thầy không thể nói tôi không theo kỉ luật.' Người điên này thực sự điên, cho nên bất kì cái gì được nói anh ta sẽ làm. Cho nên thầy không thể lừa được anh ta bằng việc nói rằng anh ta đã không làm tốt. Cuối cùng, một đêm, thầy nói với anh ta, 'Vì anh ta đã mất con đường riêng của ta. Trước khi ta gặp anh, ta đã chắc chắn; bây giờ ta không còn chắc chắn nữa. Bây giờ xin anh rời khỏi ta.'

Bất kì khi nào có ai đó chắc chắn và bạn đủ điên, bạn bắt đầu đi theo. Bạn có thể đi theo kiểu người này, người nói, 'Bản thân ta không biết. Bản thân ta không hiểu?' Nếu bạn có thể đi theo người này, bạn sẽ đạt tới.

Bạn đã đạt tới nếu bạn quyết định đi theo người này, vì tâm trí hỏi điều chắc chắn, tâm trí hỏi tri thức. Tâm trí cũng hỏi các khẳng định giáo điều, để cho nếu bạn có thể sẵn sàng đi theo một người nói, 'Bản thân ta không biết,' việc tìm kiếm đã dừng lại, vì bây giờ bạn không hỏi tri thức. Người đang hỏi tri thức không thể hỏi về hiện hữu được. Tri thức là rác rưởi; hiện hữu là cuộc sống.

Khi bạn dừng hỏi tri thức bạn đã dừng hỏi về chân lí, vì chân lí là mục đích của tri thức. Nếu bạn không hỏi cái gì có đó, thay vì vậy bạn trở nên im lặng thế, không chú ý thế, cái đang hiện hữu được khải lộ ra.

Bản thân tôi nói tôi không biết; bạn không thể bắt gặp người dốt nát hơn tôi. Không có chân lí và không có cách thức. Tôi đã không đạt tới đâu cả, tôi đơn giản ở đây và bây giờ. Nếu bạn có thể đi theo người dốt nát này, tâm trí bạn sẽ bị rơi rụng đi. Vì tâm trí bao giờ cũng đi theo tri thức, và khi tâm trí rơi rụng đi không có nhu cầu đi bất kì đâu. Mọi thứ đều sẵn có, bao giờ cũng sẵn có; bạn chưa bao giờ thiếu nó. Nhưng chỉ bởi vì việc tìm kiếm của bạn về tương lai, về mục đích, bạn không thể nhìn được. Chân lí bao quanh bạn, bạn tồn tại trong nó. Cũng như cá tồn tại trong đại dương, bạn tồn tại trong chân lí. Thượng đế không phải là mục đích, Thượng đế là điều đang ở đây và bây giờ. Những cây này, những gió thổi này, những mây bay này, bầu trời, bạn, tôi - đây là điều Thượng đế là gì. Nó không phải là mục đích.

Bỏ tâm trí và điều thiêng liêng đi. Thượng đế không phải là đối thể, đó là việc hội nhập. Tâm trí chống lại việc hội nhập, tâm trí chống lại buông xuôi; tâm trí rất tinh ranh và tính toán.

Câu chuyện này là hay. Bạn là người hỏi. Bạn đã tới tôi để hỏi về cách đạt tới chân lí, bạn đã tới tôi để hỏi về cách đạt tới trạng thái của tâm trí mà là phúc lạc. Bạn đã tới để thu nhận tri thức, để giải điều huyền bí, và tôi nhắc lại cho bạn: Không có trạng thái tâm trí, vì không có tâm trí; không có chân lí, cho nên không việc tìm kiếm nào là được phép. Mọi việc tìm kiếm đều vô tích sự; tìm như vậy là ngu xuẩn. Tìm kiếm và bạn sẽ mất, không tìm và nó có đó, chạy và bạn sẽ bỏ lỡ. Dừng lại: nó bao giờ cũng
ở đó. Và đừng cố hiểu - hiện hữu đi. Việc hiểu là hời hợt. Dưới cây Bồ đề, Phật đã không biết nữa. Bạn có thể biết nhiều hơn.

Nhiều học giả tới Phật; họ biết nhiều hơn Phật. Mahakashyap tới; ông ấy là một bác học vĩ đại. Sariputra tới, ông ấy là một bác học vĩ đại. Sariputra tới và năm trăm đệ tử tới cùng ông ấy, các đệ tử của Sariputra. Khi Sariputra tới Phật ông ấy tới để có nhiều tri thức hơn, về tri thức ông ấy đã có đủ. Thực sự, ông ấy có thể đã biết nhiều hơn Phật; ông ấy là một học giả rất sâu, thấu suốt. Ông ấy biết mọi kinh sách, ông ấy là một bác học Brahmin vĩ đại và mọi Veda đều ở trên lưỡi ông ấy. Ông ấy có thể trích dẫn chúng. Nhưng ông ấy hỏi Phật, 'Cho tôi cái gì đó nhiều hơn tri thức. Về tri thức tôi đã có đủ, và tôi phát chán với nó.'

Và Phật đã nói gì với Sariputra? Ông ấy nói, 'Dỡ bỏ đi. Bỏ tri thức đi, và cái nhiều hơn sẽ xảy ra cho ông.'

Thầy thực dạy bạn việc dỡ bỏ; nó không bao giờ là việc học. Bạn đã tới tôi để dỡ bỏ bất kì cái gì bạn biết, không bao giờ học. Bạn đã tới tôi mà đã được học, cho nên bất kì cái gì bạn biết, xin bỏ nó đi. Trở thành dốt nát, trở thành như đứa trẻ. Chỉ trái tim của đứa trẻ được nghe thấy. Lời cầu nguyện của bạn không thể được nghe thấy; chúng là tinh ranh. Chỉ đứa trẻ, chỉ trái tim không biết mới có thể hiện hữu.

Đây là nghĩa của giai thoại này, và nó là tốt cho bạn, vì cùng điều đó là hoàn cảnh với bạn.

Cái gì thêm nữa không?

Câu hỏi 1

Osho ơi,

Thầy vừa nói cho chúng tôi thầy chẳng có gì để dạy chúng tôi, và đêm hôm qua đó là cú choáng lớn khi thầy nói khi có liên quan tới thầy, công việc của thầy đã được thực hiện, rằng thầy mang thân thể thầy vì chúng tôi. Một Jesus trẻ cũng đã nói, 'Ông không biết điều ta hiện hữu về công việc của cha ta.' Cái gì là hay đã là nhiệm vụ của thầy?

Khi tôi nói công việc của tôi được thực hiện tôi ngụ ý tôi được kết thúc với mọi việc tìm kiếm; tôi ngụ ý tôi đã đi tới nhận ra rằng không có gì để được nhận ra, không có gì để được biết, không đâu mà đi. Khoảnh khắc này là đủ, khoảnh khắc này là vĩnh hằng. Khi tôi nói công việc của tôi được thực hiện tôi ngụ ý bây giờ không có ham muốn.

Ham muốn là công việc. Bạn phải làm cái gì đó, chỉ thế thì bạn mới hạnh phúc. Tôi đơn giản hạnh phúc; nó không liên quan tới việc làm nào, nó bây giờ là vô nguyên nhân. Đó là khác biệt giữa hạnh phúc và phúc lạc. Hạnh phúc được gây ra - bạn có người bạn và bạn hạnh phúc; người yêu của bạn đã trở về và bạn hạnh phúc; bạn đã trúng sổ xố và bạn hạnh phúc. Nguyên nhân có đó; chúng ở bên ngoài bạn, chúng ở ngoài bạn, cho nên hạnh phúc của bạn tới từ bên ngoài. Nó có nguyên nhân, và cái mà có nguyên nhân thì không thể mãi mãi được. Người yêu có thể đi về, bạn có thể biến thành thù - bạn thành thù - và bất kì cái gì bạn đã đạt tới có thể bị mất. Cái mà có nguyên nhân không thể bao giờ cũng có đó, không thể vĩnh hằng được.

Khi tôi nói công việc của tôi được thực hiện tôi ngụ ý bây giờ hạnh phúc của tôi là vô nguyên nhân. Không có gì giúp cho tôi được phúc lạc, tôi đơn giản phúc lạc. Nó không thể bị lấy đi. Bạn không thể làm nó thành vô nguyên nhân nếu nó không được gây ra. Bạn không thể làm bất kì cái gì cho nó; nó đơn giản ở bên ngoài, nó không thể bị phá huỷ. Công việc của tôi được kết thúc. Và khi tôi nói công việc của tôi được kết thúc, tôi được kết thúc, vì tôi có thể tồn tại chỉ với công việc. Thế thì tại sao tôi ở đây? Đây là một trong những câu hỏi cổ nhất.

Phật đã sống bốn mươi năm sau khi ông ấy trở nên chứng ngộ. Sau khi công việc của ông ấy được kết thúc ông ấy đã sống bốn mươi năm nữa. Nhiều lần điều đó đã được hỏi, 'Tại sao ông hiện hữu?' Khi công việc được kết thúc bạn phải biến mất chứ. Điều đó có vẻ phi logic: tại sao Phật phải tồn tại trong thân thể ngay cả trong một khoảnh khắc? Khi không có ham muốn, làm sao thân thể có thể tiếp tục?

Có cái gì đó rất sâu cần được hiểu. Khi ham muốn biến mất, năng lượng mà đã chuyển trong ham muốn vẫn còn lại; nó không thể biến mất được. Ham muốn chỉ là hình dạng của năng lượng. Đó là lí do tại sao bạn có thể biến ham muốn này thành ham muốn khác. Giận có thể trở thành dục, dục có thể trở thành giận. Dục có thể trở thành tham, cho nên bất kì khi nào bạn thấy một người rất tham, người đó sẽ kém dục. Nếu người đó thực sự tham hoàn hảo, người đó sẽ không có dục chút nào. Người đó sẽ là brahmachari, người vô dục, vì toàn thể năng lượng đang chuyển vào trong tham. Và nếu bạn tìm thấy một người rất dục bạn bao giờ cũng thấy người đó không tham, vì không cái gì còn lại. Nếu bạn thấy một người đã đè nén dục của mình, người đó sẽ giận; giận bao giờ cũng sẵn sàng. Bạn có thể thấy trong mắt người đó, trong mặt người đó, rằng người đó chỉ là giận; toàn thể năng lượng dục đã trở thành giận. Đó là lí do tại sao cái gọi là các sư và sadhu bao giờ cũng giận. Cách họ bước đi họ biểu lộ giận của họ; cách họ nhìn bạn, họ biểu lộ giận của họ. Im lặng của họ chỉ sâu như làn da - chạm vào họ và họ sẽ trở nên giận. Dục trở thành giận. Đây là các hình dạng; cuộc sống là năng lượng. Điều gì xảy ra khi mọi ham muốn biến mất? Năng lượng không thể biến mất được, năng lượng là không thể phá huỷ được. Hỏi các nhà vật lí; ngay cả họ cũng nói rằng năng lượng không thể bị phá huỷ.

Năng lượng nào đó đã tồn tại trong Phật Gautam khi ông ấy trở nên chứng ngộ. Năng lượng nào đó đó đã chuyển vào trong dục, giận, tham theo hàng triệu cách thức. Mọi hình dạng biến mất, vậy năng lượng đó trở thành cái gì? Năng lượng không thể đi ra khỏi sự tồn tại, và khi ham muốn không có đó, nó trở thành vô hình dạng, nhưng nó tồn tại. Bây giờ, vận hành của nó là gì? Năng lượng đó trở thành từ bi.

Bạn không thể trong từ bi vì bạn không có năng lượng. Mọi năng lượng của bạn đều bị phân chia, lúc thì trong dục, lúc thì trong giận, lúc thì trong tham. Từ bi không phải là hình dạng. Chỉ khi mọi ham muốn của bạn biến mất thì năng lượng đó mới trở thành từ bi, karuna. Bạn không thể trau dồi từ bi được. Khi bạn là vô ham muốn, từ bi xảy ra; toàn thể năng lượng đi vào trong từ bi. Và khoảnh khắc này là rất khác. Ham muốn có động cơ trong nó, mục đích; từ bi là không động cơ, không có mục đích cho nó, nó đơn giản là năng lượng tuôn tràn.

Cho nên khi tôi nói tôi tồn tại cho bạn, tôi không ngụ ý rằng tôi đang làm cái gì đó để tồn tại cho bạn. Bây giờ tôi không làm cái gì; hình dạng của ham muốn đã biến mất. Bây giờ năng lượng có đó, không có tôi. Năng lượng đang chuyển và tuôn tràn, và bạn có thể cùng chia sẻ, bạn có thể ăn theo nó. Đó là điều Jesus ngụ ý khi ông ấy nói, 'Ăn ta đi. Để ta trở thành máu của các ông, để ta trở thành thức ăn của các ông.' Năng lượng tràn ngập này có thể trở thành thức ăn cho bạn, thức ăn của cái vĩnh hằng. Tôi không làm cái gì cả. Khi tôi nói tôi tồn tại cho bạn đó chỉ là ngôn ngữ, vì không có ngôn ngữ khác. Tôi không làm cái gì, đây là cách nó xảy ra. Hình dạng của tôi đã biến mất; bây giờ năng lượng vô hình dạng vẫn còn lại, và nó sẽ tiếp tục tràn đầy. Những người trí huệ có thể cùng chia sẻ, vì chẳng mấy chốc nó cũng sẽ trở thành vô hình thể. Đầu tiên năng lượng trở thành vô hình dạng, vô ham muốn, và thế rồi nó trở thành vô hình thể.

Thân thể có đà riêng của nó. Khi người ta được sinh ra, khi vị Phật được sinh ra, người đó được sinh ra từ giao cảm của hai thân thể, người bố và người mẹ; thế thì các nhiễm sắc thể đặc thù, các tế bào đặc thù, tạo ra thân thể người đó. Những tế bào đó có đà sẵn có. Đà sẵn có đó nghĩa là thân thể này sẽ tồn tại trong bẩy mươi hay tám mươi năm; đây là bản kế hoạch tổng thể của thân thể. Trong tám mươi năm thân thể này có thể tồn tại. Thân thể không biết, không thể biết được, rằng linh hồn đã đi vào sẽ trở nên chứng ngộ. Ngôi nhà này không thể biết được rằng người đã vào ngôi nhà này để sống sẽ trở nên chứng ngộ. Và khi người này trở nên chứng ngộ, ngay cả thế thì ngôi nhà này sẽ không biết. Ngôi nhà sẽ tiếp tục; nó có cuộc sống riêng của nó. Thân thể có cuộc sống riêng của nó, và thân thể hoàn toàn vô nhận biết rằng một người đã trở nên chứng ngộ. Nó tiếp tục, nó có đà riêng của nó, nhiên liệu riêng của nó.

Vào tuổi bốn mươi Phật trở nên chứng ngộ. Thân thể trở thành không liên quan nhưng nó vẫn tiếp tục. Nó tiếp tục, nó làm đầy đủ vòng tròn của nó; nó có đó trong tám mươi năm. Điều đó là tốt, vì bốn mươi năm này đã là những năm tuôn tràn, và chúng ta đã có khả năng biết chứng ngộ là gì. Nếu Phật mà biến mất chính khoảnh khắc đó thì chắc đã không có tôn giáo. Nếu thân thể bị bỏ đi, nếu Phật đã trở nên chứng ngộ và thân thể đã mất đi, ông ấy chắc đã không hiện hữu - ngay cả để kể về điều đã xảy ra. Điều này đã là tốt; sự tồn tại rất từ bi. Phật đã sống trong bốn mươi năm nữa, không với bất kì động cơ nào, nhưng với đà của thân thể ông ấy đã liên tục tuôn tràn. Thân thể này cũng sẽ biến mất; đà phải được làm đầy đủ.

Tôi không làm cái gì cho bạn; vì điều đó nữa cũng là một loại tính bản ngã, bất kì ai nghĩ mình đang làm cái gì đó cho bạn. Nó đang xảy ra. Hình dạng của ham muốn biến mất và năng lượng trở thành từ bi. Thân thể phải hoàn thành đà của nó; nó phải hoàn thành đà của nó, nó phải hoàn thành bản kế hoạch tổng thể của nó. Kẽ hở này sẽ là việc tràn đầy. Nó là bữa tiệc, không được tôi làm cho bạn, nó là bữa tiệc do cái toàn thể làm.

Ngôn ngữ tạo ra vấn đề. Ngôn ngữ bao giờ cũng nhị nguyên, ngôn ngữ bao giờ cũng là của thế giới này. Ngôn ngữ thuộc vào ham muốn và nó mang mọi nghĩa rộng, cho nên rất khó nói cái gì về cái không thuộc vào thế giới này. Hoặc bạn phải im lặng - ngay cả thế, im lặng nữa cũng có thể bị hiểu lầm - hoặc bạn phải dùng ngôn ngữ. Và mọi từ đều bị nặng tải.

Nếu tôi nói tôi ở đây vì bạn, bạn có thể diễn giải nó theo cách rằng nó có vẻ giống như chuyện kinh doanh, có vẻ giống như công việc. Nó không phải vậy, nó không có gì của điều đó cả; nó đơn giản là việc tràn đầy của yêu. Và tôi không phải là người làm vì nếu tôi là người làm, không thể có yêu được. Chỉ ánh sáng đang bùng cháy. Bạn có thể tìm ra con đường ánh sáng có đó. Bạn có thể dùng nó, nó có thể trở thành ngọn lửa cho bạn, nó có thể nhóm lên ngọn đèn bên trong bạn, nhưng điều đó tuỳ thuộc vào bạn. Tôi đơn giản ở đây.

Bạn được khai tâm, không phải bởi tôi mà bởi bản thân năng lượng. Ăn tôi nhiều nhất có thể được đi, để tôi trở thành một phần của bạn. Mở hội cơ hội này.

Lời của Jesus lại tạo ra vấn đề - lời bao giờ cũng tạo ra vấn đề. Giá mà Jesus ở đây, giá mà ông ấy ở đây trong đất nước của Upanishads, Phật và Mahavir, ngôn ngữ chắc đã khác toàn bộ. Jesus được sinh ra là người Do Thái; ông ấy phải dùng tiếng Do Thái, huyền thoại, cách nói Do Thái. Cho nên ông ấy đã nói, 'Công việc, kinh doanh, điều được cha ta trao cho ta, được thực hiện.' Nếu như ông ấy đã ở đây ông ấy chắc không bao giờ nói tới 'cha.' Cha là khái niệm Do Thái; nó là tốt, hay, nhưng rất lấy con người làm trung tâm. Thượng đế không phải là cha, Thượng đế không phải là người, và Thượng đế không trong bất kì loại kinh doanh nào. Nhưng người Do Thái là các doanh nhân, và Thượng đế của họ cũng là doanh nhân, siêu doanh nhân - kiểm soát, quản lí, thao túng. Và cũng như với một doanh nhân, bạn có thể cám dỗ ngài, bạn có thể hối lộ ngài. Ngài là người rất thực. Ngài sẽ giận: nếu bạn không qui phục theo ngài, ngài sẽ tống bạn vào địa ngục; nếu bạn theo ngài, bạn sẽ đạt tới thiên đường - cõi trời và những thú vui cõi trời.

Toàn thể ngôn ngữ này thuộc vào thế giới của lợi nhuận, kinh doanh. Nhưng mọi ngôn ngữ đều có vấn đề riêng của nó. Ngôn ngữ này là cụ thể và cho dáng vẻ kiểu gia đình cho sự tồn tại: cha, con trai và công việc.... Bạn có thể đạt tới người cha thông qua con trai.... Jesus đơn giản dùng ngôn ngữ sẵn có.

Ở đất nước này chúng ta đã thử nhiều hình mẫu ngôn ngữ. Người Hindu dùng hàng triệu chữ in vì Hindu giáo không phải là một tôn giáo, nó là nhiều tôn giáo. Mọi chữ in của các tôn giáo tồn tại trong Hindu giáo; nó là đám đông, nó là hiện tượng trong bản thân nó. Mọi chữ in đã từng tồn tại trên thế giới đều tồn tại trong Hindu giáo. Đây là phép màu. Ngay cả người vô thần cũng có thể là người Hindu - người vô thần không thể là người Ki tô giáo được - và ngay cả người vô thần cũng có thể trở nên chứng ngộ. Phật là người vô thần, ông ấy đã không tin vào Thượng đế. Ông ấy nói không có Thượng đế, và thậm chí còn huyền bí hơn, ông ấy nói không có linh hồn. Ông ấy nói không cái gì tồn tại, và ông ấy trở thành một trong những hoá thân của Thượng đế Hindu. Điều đó thực sự huyền bí. Kẻ vô thần này, Phật Gautam, đã trở thành hoá thân thứ Mười. Ông ấy nói không có Thượng đế và người Hindu nói: Người này là hoá thân của Thượng đế, ông ấy là Bhagwan.

Người Hindu nói ngay cả việc phủ nhận cũng là cách khẳng định; người Hindu nói ngay cả nói không cũng là nói có. Điều này rất huyền bí. Họ nói ngay cả nói không có Thượng đế là nói Thượng đế theo cách phủ định. Nếu Thượng đế có thể được khẳng định trong ngôn ngữ khẳng định, tại sao không trong ngôn ngữ phủ định? 'Nó' là một từ, 'cái không' cũng là một từ, và người ta là liên quan như người khác. Phật nói không; thế thì không trở thành tuyệt đối, hư không trở thành bản chất.

Shankara nói có; thế thì có trở thành tuyệt đối, 'tính có' đó, Brahma, trở thành cội nguồn. Nhưng người Hindu nói cả hai đều ngụ ý cùng một điều. Từng ngôn ngữ, từng hình mẫu diễn đạt nó, đều có ích lợi riêng của nó và nguy hiểm và cạm bẫy riêng của nó .

Bản thân tôi nghiêng về phủ định, do đó mới có nhiều nhấn mạnh thế vào các Thiền sư. Tôi đã thực sự yêu thích những giai thoại này - không tâm trí, không chân lí, không hiểu biết.

Ham muốn của bạn là có tính khẳng định. Nếu Thượng đế được quả quyết theo cách khẳng định ham muốn của bạn sẽ không chết, ham muốn của bạn sẽ quay sang hướng tới Thượng đế và bạn sẽ bắt đầu ham muốn Thượng đế. Tính phủ định là nói không với mọi ham muốn của bạn, với mọi đối thể của bạn về ham muốn của bạn. Thế thì mọi ham muốn và mọi đối thể biến mất và chỉ bạn còn lại trong sự thuần khiết của bạn. Thuần khiết đó, hồn nhiên đó - phúc lành của nó - là điều tôi muốn bạn tận hưởng cùng tôi. Nó không phải là việc dạy; tôi không là thầy giáo. Nó không phải là học thuyết, nó chỉ là việc bạn tận hưởng cùng tôi. Tôi sẵn có ở đây, và nếu bạn gạt tâm trí bạn sang bên chúng ta có thể mở hội. Tôi đang trong điệu vũ bên trong; bạn cũng có thể trở thành một đối tác trong nó. Bạn có thể gọi đây là kinh doanh của tôi.

Công việc của tôi được thực hiện chừng nào có liên quan tới tôi vì tôi đã được thực hiện rồi. Bây giờ năng lượng đã trở thành từ bi và việc tràn đầy, và tất cả những người thực sự muốn nếm trải đều được mời làm như vậy mà không có điều kiện nào. Bạn không cho cái gì cả, bạn đơn giản nhận. Không kỉ luật, không mặc cả - không cái gì được mong đợi về phần bạn. Nó là món quà. Nó bao giờ cũng vậy, nó bao giờ cũng sẽ vậy; phúc lạc tối thượng bao giờ cũng là món quà. Đó là lí do tại sao chúng ta đã gọi nó là ân huệ, prasad... dường như điều thiêng liêng cho bạn từ năng lượng tràn đầy của nó.

Tôi sẽ kể cho bạn một câu chuyện Jesus thường kể. Ông ấy đã lặp lại nó nhiều lần - ông ấy phải đã yêu thích câu chuyện này. Ông ấy nói, 'Có lần chuyện xảy ra, một người rất giầu cần một số lao động làm việc cho vườn của ông ấy, thế là ông ấy phái một người ra bãi chợ. Mọi lao động đang sẵn có đấy đều được mời tới và họ bắt đầu làm việc trong vườn. Thế rồi những người khác nghe thấy và họ tới vào buổi trưa. Thế rồi những người khác nghe thấy và họ tới ngay khi mặt trời sắp lặn. Nhưng ông ấy đã sử dụng họ. Và khi mặt trời xuống, ông ấy tập hợp tất cả họ lại và trả tiền bình đẳng cho họ. Hiển nhiên những người đã tới lúc sáng trở nên thất vọng và nói, 'Bất công làm sao! Đây là kiểu bất công gì thế này? Ông đang làm gì vậy? Chúng tôi tới từ sáng và chúng tôi làm việc cả ngày và những người này tới buổi trưa; họ chỉ làm việc có hai tiếng. Và vài người vừa mới tới, họ đã không làm việc chút nào. Đây là bất công!'

Người giầu cười và nói, 'Đừng nghĩ tới người khác. Bất kì cái gì tôi cho các ông nó có đủ không?' Họ nói, 'Nó là quá đủ, nhưng nó là bất công. Tại sao những người này lại được khi họ chỉ vừa mới tới?'

Người giầu nói, 'Tôi cho họ vì tôi có quá nhiều, từ dư thừa của mình tôi cho họ. Các ông không cần lo nghĩ về điều này. Các ông đã có được nhiều hơn các ông mong đợi cho nên đừng so sánh. Tôi không cho họ vì công việc của họ, tôi cho họ vì tôi có quá nhiều... từ dư thừa của tôi.'

Jesus nói một số người làm việc rất vất vả để đạt tới điều thiêng liêng, một số người tới chỉ vào buổi trưa và một số người khi mặt trời lặn mới tới, và tất cả họ đều đạt tới cùng điều thiêng liêng. Những người đã tới vào buổi sáng phải phản đối: 'Thế này thì quá nhiều!'

Bạn chỉ nhìn: bạn đã từng thiền nhiều thế và đột nhiên ai đó tới chỉ mới buổi tối và đã trở nên chứng ngộ. Và bạn đã từng là người khổ hạnh lớn lao thế. Nhìn mà xem: nếu mọi người khổ hạnh đều đạt tới và thấy rằng các tội nhân đang ngồi ngay bên cạnh ngai vàng của Thượng đế, cái gì sẽ xảy ra? Họ sẽ trở nên buồn thế: 'Cái gì đang xảy ra? - những tội nhân này chưa bao giờ lập kỉ luật cuộc đời họ, họ chưa bao giờ làm việc và họ lại ở đây; còn chúng ta cứ tưởng họ đáng phải ở địa ngục!' Không có địa ngục; không thể có được. Làm sao địa ngục có thể tồn tại được? Từ thừa thãi của Thượng đế mọi thứ đều là cõi trời. Nó đáng phải là như vậy, nó phải là vậy chứ, nó phải vậy. Cõi trời là từ thừa thãi của ngài, không thể có địa ngục được. Địa ngục do những người khổ hạnh bịa ra vì họ không thể quan niệm được tội nhân ở cõi trời. Họ phải làm ra các ô; họ không thể nghĩ được rằng bạn sẽ ở đó.

Tương truyền là một người Hassid, một giáo sĩ, Baal Shem, được một người đàn bà tới thăm. Bà ấy quãng bẩy mươi, chồng bà ấy tám mươi, và bây giờ, dần dần, đang trở thành người đức hạnh. Toàn thể cuộc đời mình ông ấy đã là một tội nhân cho nên bà ấy phải tới để nói lời cám ơn rằng chung cuộc giáo sĩ đã cải tâm chồng bà ấy - điều là không thể được vì ông ấy đã là một tội nhân trong cả đời mình. Nhưng bây giờ ông ấy đang biến đổi cho nên bà ấy rất lấy làm cám ơn Baal Shem. Bà ấy bao giờ cũng là người đàn bà ngoan đạo, chưa bao giờ dao động, chưa bao giờ đi sai, bao giờ cũng ở trên đường đúng và bao giờ cũng nghĩ rằng cõi trời chỉ chờ đợi để đón chào bà ấy, và bao giờ cũng biết rõ rằng người chồng này của bà ấy sắp xuống địa ngục. Cho nên bà ấy nói với Baal Shem, 'Bây giờ có thể có hi vọng - ngay cả chồng tôi cũng có thể đạt tới cõi trời.' Baal Shem cười và nói, 'Tội nhân càng lớn, thánh nhân càng lớn.'

Người đàn bà trở nên buồn và nói, 'Thế thì tại sao ông không nói cho tôi từ trước? Ông đáng phải nói cho tôi từ bốn mươi năm trước.'

Tội nhân càng lớn, thánh nhân càng lớn. Người đàn bà này sẽ ở trong địa ngục thế nếu bà ấy thấy chồng mình ở cõi trời. Cái gọi là những người đức hạnh này đã tạo ra địa ngục; bằng không, từ sự dư thừa thiêng liêng, địa ngục không thể tồn tại được. Các thánh nhân sẽ được nhận vì họ tới vào buổi sáng; các tội nhân sẽ được nhận và họ có thể đã tới vào buổi tối. Mọi người đều sẽ được nhận. Đó là món quà.

Tôi ở đây, không như chuyện kinh doanh mà như món quà. Nhưng bạn sợ và hãi thế. Bạn có thể hiểu chuyện kinh doanh; bạn biết thuật ngữ; bạn không thể hiểu được món quà, bạn không biết thuật ngữ. Bạn có thể hiểu nếu bạn phải hoàn thành điều kiện nào đó. Nếu không cái gì được yêu cầu từ bạn, bạn đơn giản lúng túng.

Mọi mong đợi thuộc vào tâm trí, mọi kỉ luật thuộc vào tâm trí, mọi cái gọi là tính thánh thiện và cái gọi là tội lỗi đều thuộc vào tâm trí. Khi không có tâm trí, không có tội nhân và không có thánh nhân, và món quà đơn giản trút lên bạn.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Đứa trẻ nổi loạn - Osho

Tự truyện - Cuộc đời luận sư Osho